D.Mục lục
A. Lời mở đầu
B. Nội dung
1. Sự cần thiết phải thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa
I. Khái niệm công nghiệp hóa - hiện đại hóa
II. Đất nước ta hiện nay và tình tất yếu của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa
III.Vai trò và những tác dụng to lớn của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta
2.Thực trạng quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta hiện nay
I.Mục tiêu và quan điểm của Đảng ta về công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước
II.Đặc điểm công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta hiện nay
III.Thực trạng công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta trong những năm vừa qua
IV.Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
3. Những nội dung của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta trong những năm tới
I. Những tiền đề thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa - hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa
II. Nội dung công nghiệp hóa - hiện đại hóa nước ta trong những năm tới
C. Kết luận
D.Mục lục
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 22835 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế XHCN. Đó là quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội nhằm cải tiến xã hội nông nghiệp thành xã hội công nghiệp, gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ ngày càng thể hiện đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ xã hội mới CNXH.
Công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa vì trên thế giới hiện nay đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Một số nước phát triển đang chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức : Mỹ , Nhật, Anh....Vì thế nước ta phải tiến hành công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa phải biết tranh thủ những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học, tiếp cận với kinh tế tri thức để thực hiện hiện đại hóa nhiều ngành, nhiều khâu, nhiều lĩnh vực có điều kiện phát triển nhảy vọt vì nếu không làm như vậy thì chúng ta sẽ tụt hậu xa hơn so với các nước khác.
Công nghiệp hóa nhằm mục tiêu bảo vệ độc lập chủ quyền đất nước, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ chế độ CNXH. Công nghiệp hóa là tất yếu đối với tất cả các nước chậm phát triển nhưng với mỗi nước mục tiêu và tính chất của công nghiệp hóa có thể khác nhau. Ở nước ta công nghiệp hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho CNXH tăng cường sức mạnh để bảo vệ nền độc lập dân tộc.
Nền kinh tế nước ta hiện nay là nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo định hướng XHCN với hai công cụ quan trọng : kinh tế nhà nước với vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế và chức năng điều tiết vĩ mô của Nhà nước nên quá trình công nghiệp hóa diễn ta trong điều kiện cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Do đó quá trình công nghiệp hóa trong giai đoạn hiện nay khác với quá trình công nghiệp hóa trước thời kì đổi mới. Thời kì trước đổi mới nền kinh tế nước ta là nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung hành chính bao cấp. Công nghiệp hóa được thực hiện theo phương hướng của nhà nước nên vẫn còn nhiều hạn chế không huy động hết nguồn lực của Nhà nước và của nhân dân. Trong cơ chế kinh tế hiện nay, Nhà nước vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa. Nhưng công nghiệp hóa không xuất phát từ chủ quan của nhà nước mà đòi hỏi phải vận dụng các qui luật khách quan mà trước hết là qui luật thị trường.
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế và dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật và công nghệ nền kinh tế nước ta không thể khép kín mà phải mở cửa nền kinh tế, phát triển các quan hệ quốc tế. Nếu chúng ta biết vận dụng các thành tựu trên thế giới, tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế, quá trình công nghiệp trong điều kiện “ chiến lược kinh tế mở ” có thế hoàn thành nhanh. Bên cạnh đó công nghiệp hóa trong điều kiện “chiến lược kinh tế mở ” cũng gặp không ít trở ngại do những tác động tiêu cực của nền kinh tế thế giới. Hiện nay chủ nghĩa tư bản tuy có thay đổi hình thức áp bức bóc lột nhưng vẫn không hề thay đổi bản chất vẫn là nguyên nhân gây ra sự đói nghèo cho các nước chậm phát triển, vẫn là nguồn gốc của nhiều cuộc chiến tranh trên thế giới. Sự đói nghèo làm cho các nước chậm phát triển không thể có độc lập thực sự. Chính bởi vậy công nghiệp hóa - hiện đại hóa phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế độc lập tự chủ tự cường.
III. Thực trạng công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta trong những năm vừa qua.
a.Những thành tựu đã đạt được :
Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng ( 1986 ) là một điểm mốc quan trọng đánh dấu sự thay đổi toàn diện trong cách nghĩ cách thực hiện của chúng ta với sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Sau cơn suy thoái ( 1980 - 1990 ) từ năm 1991 đến nay nền kinh tế nước ta đang đi vào trạng thái phát triển với tốc độ tương đối cao. Cơ cấu GDP đang chuyển dịch theo hướng có lợi :
Năm
Nông nghiệp - thủy sản
Công nghiệp - xây dựng
Dịch vụ
1991
40.49%
23.79%
35.72%
2003
22.54%
39.46%
38%
2004
21.76%
40.09%
38.15%
Điều này cho thấy sự dịch chuyển tiến bộ trong cơ cấu ngành thể hiện sự tác động mạnh mẽ của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa với nền kinh tế của nước nhà. Riêng đối với ngành công nghiệp giá trị sản xuất công nghiệp đã có sự tăng trưởng mạnh mẽ trong năm 2003 giá trị sản xuất công nghiệp trong toàn ngành tăng 16% trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước TW tăng 13%... ở địa phương tăng 12% khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,1 %.Việc thu hút vốn đầu tư cũng thu được nhiều kết quả khả quan : từ năm 1998 đến năm 2003 ước tính ta thu hút được khoảng 4845.5 triệu USD trong đó riêng ngành công nghiệp xây dựng đã đạt 255039 triệu USD vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Những con số nói trên cùng rất nhiều các con số khả quan khác đã cho thấy chúng ta đang đi đúng hướng trên con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa đã và đang gặt hái được nhiều thành công trong tiến trình xây dựng đất nước.
b.Những hạn chế còn tồn tại
Bên cạnh những thành tựu nổi bật đã nêu trên thì quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta cũng còn nhiều tồn tại nhiều hạn chế cần sớm được giải quyết và khắc phục nhanh chóng. Trước hết đó là hiệu quả trong việc sử dụng nguồn vốn còn nhiều bất cập nhiều dự án đầu tư chỉ tồn tại trên giấy hoặc thực hiện dang dở kém chất lượng gây lãng phí hàng nghị tỷ đồng. Thủ tục hành chính rườm rà là rào cản không nhỏ đối với các nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó việc nguồn vốn đầu tư chỉ tập trung hầu hết vào một số khu vực nhất định tạo ra sự mất cân đối trong sự phát triển kinh tế. Kể từ năm 1998 đến năm 2003 hai thành phố trung tâm Hà Nội và Hồ Chí Minh chuế 19764.7 triệu USD trong tổng số vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Việt Nam chiếm tới hơn 40% của cả nước. Tiếp đó là những hạn chế trong lĩnh vực khoa học công nghệ. Trong những năm gần đây sản lượng dầu chúng ta khai thác được là không nhỏ nhưng lại không hề có khả năng xử lí và chế biến nhà máy lọc dầu Dung Quất xây xong nhưng lại không thể đi vào hoạt động điều này khiến nước ta phải nhập khẩu dầu đã qua chế biến từ nước ngoài chịu nhiều ảnh hưởng do biến động bất thường của thị trường dầu mỏ trên thế giới. lãng phí rất nhiều ngoại tệ. Một số hạn chế cơ bản treen cho chúng ta thấy rằng chúng ta còn rất nhiều việc phải làm trên con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa nói riêng và trong sự nghiệp xây dựng CNXH nói chung.
IV. Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Dựa trên những mục tiêu và quan điểm của Đảng ta về quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, những thành tựu mà chúng ta đã đạt được cùng với những hạn chế còn tồn tại trong quá trình tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta hiện nay, Đảng ta đã đề ra nội dung cơ bản của công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Gồm ba nội dung chủ yếu :
a.Phát triển lực lượng sản xuất - cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH trên cơ sở thực hiện cơ khí hóa nền sản xuất xã hội và áp dụng nhiều thành tựu khoa học công nghệ hiện đại.
- Quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa là một quá trình cải biến lao động thủ công thành lao động sử dụng máy móc, cơ khí hóa nền kinh tế quốc dân. Quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đi liền với cơ khí hóa, điện khí hóa và tự động hóa vì vậy đòi hỏi chúng ta phải phát triển nhanh các ngành công nghiệp mà trong đó then chốt là chế tạo tự liệu sản xuất. Sự phát triển cuat các ngành chế tạo tư liệu sản xuất là cơ sở để cải tạo và phát triển nền kinh tế quốc dân, phát triển khu vực nông - lâm - ngư nghiệp. Sự phân tích trên cho ta thấy đối tượng của công nghiệp hóa - hiện đại hóa là tất cả các ngành kinh tế quốc dân nhưng trước hết và quan trọng nhất là ngành công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất
- Phát triển khoa học công nghệ có ý nghĩa đặc biệt trong sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Phát triển khoa học công nghệ trong điều kiện Việt Nam hiện nay cần chú ý :
+ Xác định phương hướng đúng đắn cho sự phát triển khoa học công nghệ do khoa học công nghệ là lĩnh vực hết sức rộng lớn trong khi đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ của nước ta còn nhỏ bé, chất lượng thấp; khả năng của đất nước ta về vốn, phương tiện nghiên cứu...còn rất hạn chế. Do vậy chúng ta không thể cùng một lúc đầu tư để phát triển tất cả các lĩnh vực khoa học công nghệ mà phải lựa chọn những lĩnh vực nhất định để đầu tư.
+ Phải tạo dựng được điều kiện cần thiết cho sự phát triển khoa học công nghệ như là đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ có số lượng đủ lớn chất lượng cao; đầu tư ở mức cần thiết; các chính sách kinh tế - xã hội phù hợp... Trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa người lao động - lực lượng sản xuất thứ nhất không những phải được nâng cao trình độ văn hóa và khoa học công nghệ mà còn phải được trang bị cả cơ sở vật chất kĩ thuật tiên tiến. Họ vừa là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất vừa là người tạo ra sự phát triển đó.
b. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại hóa, hợp lý và hiệu quả.
Quá trình công nghiệp hóa đồng thời cũng là quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Mà cơ cấu kinh tế về thực chất đó chính là cấu tạo hay cấu trúc của nền kinh tế...và mối quan hệ giữa chúng. Cơ cấu kinh tế hợp lí là điều kiện để nền kinh tế tăng trưởng, phát triển chính vì thế mà công nghiệp hóa - hiện đại hóa đòi hỏi phải xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lí và hiện đại.
Trong các thành phần của cơ cấu nền kinh tế thì cơ cấu ngành giữ vai trò chủ đạo quan trọng nhát, quyết định các hình thức cơ cấu kinh tế khác. Xu hướng chuyển dịch hợp lý với cơ cấu ngành hiện nay đó là tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng đặc biệt là tỷ trọng khu vực dịch vụ ngày càng tăng trong khi tỷ tọng khu vực nông lâm ngư nghiệp và khai khoáng ngày càng giảm trong tổng giá trị sản phẩm xã hội. Cơ cấu kinh tế hợp lý trong một nền kinh tế thị trường hiện đại đòi hỏi công nông nghiệp - dịch vụ phát triển mạnh mẽ, hợp lý và đồng bộ. Mạng lưới dịch vụ với tư cách là một ngành kinh tế phát triển mới có thể phục vụ tốt cho sự nghiệp phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp và nông nghiệp.
Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lí ngày nay đã trở thành yêu cầu khách quan của mỗi nước trong thời kì công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Nhưng quan trọng là làm thế nào để có được một cơ cấu kinh tế hợp lí :
- Thứ nhất nông nghiệp phải giảm dần tỉ trọng, công nghiệp, xây dựng và dịch vụ phải tăng dần về tỉ trọng.
- Thứ hai trình độ kĩ thuật của nền kinh tế không ngừng tiến bộ, phù hợp với xu hướng của sự tiến bộ khoa học và công nghệ đã và đang diễn ra như vũ bão trên thế giới.
- Thứ ba cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước của các ngành địa phương các thành phần kinh tế.
- Thứ tư thực hiện phân công và hợp tác quốc tế theo xu thế toàn cầu hóa kinh tế do vậy cơ cấu kinh tế được tạo dựng phải là cơ cấu mở.
c. Thiết lập quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa
Công nghiệp hóa ở nước ta là nhằm mục tiêu tạo tiền đề vật chất kĩ thuật cho sự nghiệp xây dựng CNXH do vậy đi đôi với quá trình công nghiệp hóa là việc phải thiết lập cho được quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN. Theo qui luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất vì vậy công nghiệp hóa - hiện đại hóa không chỉ là phát triển mạnh lực lượng sản xuất, khơi dậy và khai thác mọi tiềm năng kinh tế mà còn là quá trình cải biến quan hệ sản xuất sao cho phù hợp
Trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất tất yếu đòi hỏi phải xác lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất nhưng để đạt tới trình độ đó phải trải qua quá trình phát triển kinh tế xã hội lâu dài trong đó quan hệ sản xuất được cải biến từ thấp đến cao theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa thì việc liên tục định hướng quan hệ sản xuất đi theo XHCN ở nước ta là hết sức quan trọng.
3. Những nội dung của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta.
I. Những tiền đề thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa - hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa.
a. Huy động vốn và sử dụng vốn có hiệu quả
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa đòi hỏi chúng ta phải có một nguồn vốn rất to lớn. Do đó việc huy động và sử dụng vốn sao cho hợp lí là một trong những tiền đề quan trọng để thực hiện thành cồn công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
Nguồn vốn mà chúng ta có thể huy động và sử dụng được bao gồm hai nguồn chính đó là vốn trong nước và vốn nước ngoài. Nguồn vốn trong nước được tích lũy trong nội bộ nền kinh tế quốc dân trên cơ sở hiệu quả sản xuất và lao động thặng dư của người lao động trong tất cả các ngành thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Ở nước ta hiện nay để có thể giải quyết vấn đề tích lũy vốn trong nước thì cần phải tăng năng suất lao động xã hội dựa trên cơ sở khoa học kĩ thuật hiện đại và hợp lí hóa sản xuất. Để làm được điều này việc đầu tiên cần phải làm đó chính là khai thác và sử dụng tốt quỹ lao động tập trung sức phát triển cho nông nghiệp công nghiệp hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Kế đó là cần thực hiện tiết kiệm: đấu tranh với nạn lãng phí, tham nhũng... Bên cạnh đó cần có các chính sách kinh tế phù hợp về cơ cấu ngành về thuế...để có thể đẩy mạnh quá trình tích lũy vốn. Nguồn vốn trong nước giữ vai trò quyết định vì nó là nhân tố bên trong bảo đảm cho việc xây dựng nền kinh tế tự chủ là tiền đề huy động và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nước ngoài...Do đó việc đề cao nội lực là hoàn toàn cần thiết và đúng đắn.
Bên cạnh nguồn vốn trong nước thì nguồn vốn nước ngoài cũng rất quan trọng bởi việc tích lũy được một số lượng vốn lớn cho công nghiệp hóa ở một nước nghèo như chúng ta là vô cùng khó khăn. Mặc dù vậy trong việc tiếp nhận các nguồn vốn từ nước ngoài cũng cần chú ý tới những mặt trái của nó tránh tình trạng bị phụ thuộc nhiều vào các nước cho vay về kinh tế và chính trị. Điều đó rất quan trọng với một đất nước đang tiến lên xây dựng CNXH như nước ta. Để có thế huy động và sử dụng vốn nước ngoài có hiệu quả chúng ta cần chú trọng tập trung xây dựng môi trường đầu tư thông thoáng thu hút các công ty và tổ chức nước ngoài đầu tư vào nước ta. Chú trọng sử dụng vốn đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật tiên tiến. Ngoài ra cũng cần có khung pháp lý vững chắc để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lí của nhà nước đối với các hoạt động đầu tư nước ngoài.
Vấn đề đặt ra với chúng ta hiện nay là phải nỗ lực vượt bậc, phấn đấu làm ăn có hiệu quả, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, ý chí tự lực tự cường ra sức tiết kiệm trong sản xuất, tiết kiệm trong điều kiện tiêu dùng khắc phục những yếu kém và tiêu cực gây thất thoát, lãng phí tiền của nhà nước và nhân dân, dồn vốn cho đầu tư phát triển.
b. Đào tạo nguồn nhân lực
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa có yêu cầu rất cao đối với phát triển nguồn nhân lực. Con người phải là những con người có đức có tài, ham học hỏi thông minh sáng tạo, làm việc quên mình vì nền độc lập phồn vinh của Tổ quốc được chuẩn bị tốt về kiến thức văn hóa, được đào tạo thành thạo về kĩ năng nghề nghiệp về năng lực sản xuất và kinh doanh, về điều hành vĩ mô nền kinh tế và toàn xã hội có trình độ khoa học kĩ thuật vươn lên ngang tầm thế giới.
Để có nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa phải coi việc đầu tư giáo dục, đào tạo là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển, giáo dục đào tạo là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển, giáo dục, đào tạo phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu. Giáo dục đào tạo sẽ nâng cao chất lượng con người Việt Nam về mọi mặt đảm bảo có khả năng hóa nhập cùng với sự phát triển của thế giới. Bên cạnh đó cũng cần phải chú ý tới điều kiện sinh hoạt vật chất tinh thần của người lao động, đáp ứng tối đa nhu cầu của họ trong khả năng có thể đảm bảo khả năng tái sản xuất sức lao động và nhiệt tình lao động vì bản thân và vì sự nghiệp chung của đất nước.
c. Phát triển khoa học công nghệ
Khoa học công nghệ được xác định là động lực của công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Khoa học công nghệ có vai trò quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chúng, công nghiệp hóa - hiện đại hóa nói riêng của các quốc gia.
Đất nước ta đi lên từ một nền sản xuất nhỏ với trình độ kĩ thuật lạc hậu và yếu kém. Vì vậy việc áp dụng khoa học công nghệ cần phải có phương hướng cụ thể và phù hợp để từng bước nâng trình độ khoa học của đất nước và tận dụng được khả năng sáng tạo trong nước. Một số phương hướng :
- Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mac - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc triển khai đường lối kế hoạch trong công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học để tận dụng và đánh giá chính xác tiềm lực tài nguyên quốc gia để có được chiến lược khai thác có hiệu quả cùng với việc áp dụng thành tựu khoa học sao cho có hiệu quả.
- Chú trọng đúng mức nghiên cứu cơ bản về khoa học xã hội và nhân văn, khoa học tự nhiên.
- Mở rộng các hợp tác khoa học công nghệ với các nước và các tổ chức quốc tế nhằm tiếp cận, kế thừa những thành tựu khoa học công nghệ trên thế giới, tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của quốc tế.
- Xây dựng tiềm lực nhằm phát triển một nền khoa học tiên tiến bao gồm đẩy mạnh các hình thức đào tạo và sử dụng các cán bộ khoa học chú trọng đào tạo các lớp chuyên gia đầu ngành, tăng cường cơ sở vật chất cho các ngành khoa học và công nghệ.
Để làm được tất cả những công việc trên đòi hỏi chúng ta phải xây dựng được cơ cấu chính sách đồng bộ cho phát triển và cần huy động sự chung sức của mọi cấp ngành và của toàn dân.
d. Mở rộng quan hệ đối ngoại.
Trong xu thế toàn cầu hóa như ngày hum nay quan hệ kinh tế đối ngoại càng phát triển rộng rãi và có hiệu quả bao nhiêu thì sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước càng được tiến hành thuận lợi bấy nhiêu. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ cùng với xu thế toàn cầu hóa đang tạo ra mối liên hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa nền kinh tế của các quốc gia. Vì vậy việc mở rộng quan hệ kinh tế giữa nước ta với các quốc gia khác trở thành một tất yếu kinh tế đặc biệt là trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa khi chúng ta đang cần tranh thủ nguồn vốn và công nghệ của nước ngoài. Vấn đề với chúng ta làm sao mà vẫn đảm bảo được an ninh và độc lập quốc gia. Vì thế chúng ta cần có một đường lối kinh tế đối ngoại thật đúng đắn và đạt hiệu quả cao.
e. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.
Đây là tiền đề quyết định thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta. Công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa là một quá trình đấu tranh gian khổ của nhân dân ta đặt ra cho chúng ta nhiều thách thức và khó khăn to lớn. Vì thế sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa cần có sự lãnh đạo của Đảng tiên phong, dày dạn kinh nghiệm chiến đâu, biết đổi mới không ngừng và lãnh đạo và cần một nhà nước của dân do dân và vì dân trong sạch vững mạnh có hiệu lực quản lí cao.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam đối với công nghiệp hóa - hiện đại hóa trước hết là phải tiếp tục giữ vững ổn định chính trị. Mọi kế hoạch chính sách công nghiệp hóa phải tuân theo đường lối của Đảng. Đây là nhân tố trực tiếp đảm bảo sự thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Bên cạnh đó Nhà nước cần nâng cao chức năng quản lí kinh tế xã hội theo đường lối chính sách của Đảng.
Với những tiền đề cho công nghiệp hóa - hiện đại hóa đã nêu ở trên chúng ta tin tưởng rằng với sự hợp sức chung lòng của toàn Đảng toàn dân của mọi cấp mọi ngành công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa của chúng ta nhất định thắng lợi tạo cơ sở vật chất kĩ thuật cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đi đến thành công.
II. Nội dung công nghiệp hóa - hiện đại hóa ở nước ta trong những năm tới
Dựa trên những nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước ở Việt Nam, Đảng và Chính phủ đã đề ra nội dung cụ thể của công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong những năm tới :
Đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông thôn.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một trong những chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới. Vậy tại sao phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn?
Nước ta đang trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, “ Mà đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa". Do đó, chúng ta phải công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, mới tạo tiền đề vững chắc để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bởi nông nghiệp, nông thôn là khu vực đông dân cư nhất, lại có trình độ phát triển nhìn chung là thấp nhất so với các khu vực khác của nền kinh tế. Nông dân chiếm hơn 70% dân số và hơn 76% lực lượng lao động cả nước, đóng góp từ 25% - 27% GDP của cả nước...
Hơn thế nữa, Đảng ta coi đây là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, còn vì nông dân, nông thôn Việt Nam có ý nghĩa chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của đất nước trước đây và trong sự nghiệp đổi mới hiện nay. Khu vực nông nghiệp, nông thôn hiện có tài nguyên lớn về đất đai và các tiềm năng thiên nhiên khác: hơn 7 triệu ha đất canh tác, 10 triệu ha đất canh tác chưa sử dụng; các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là sản phẩm nông - lâm - hải sản (như cà-phê, gạo, hạt tiêu...). Nông nghiệp, nông thôn còn giữ vai trò chủ đạo trong cung cấp các nguồn nguyên, vật liệu cho phát triển công nghiệp - dịch vụ.
Bộ mặt nông thôn Việt Nam trong thời gian vừa qua đã có nhiều đổi mới, từ chỗ bị thiếu ăn, phải nhập khẩu gạo, đến nay đã và đang xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới (sau Thái Lan). Tuy nhiên, vẫn còn đó những hạn chế, yếu kém, mà nhiều năm nay vẫn chưa có giải pháp hữu hiệu. Chẳng hạn, vốn đầu tư cho khu vực này vẫn thấp (chiếm 11% - 12% tổng đầu tư toàn xã hội); sản phẩm nông nghiệp lại chủ yếu thiên về số lượng, chứ chưa nâng cao về chất lượng, giá thành nông sản còn cao, năng suất lao động và hiệu quả sản xuất còn thấp; sản lượng nông sản tuy tăng nhưng chi phí đầu vào vẫn tăng cao (chi phí cho sản xuất 1ha lúa tăng từ 1 triệu đến 1,5 triệu đồng), trong khi giá các mặt hàng nông sản trên thị trường quốc tế lại giảm. Trong khi đó, các chính sách và biện pháp mà Nhà nước đã áp dụng cho phát triển nông nghiệp những năm gần đây chưa tạo bước đột phá mạnh. Trình độ dân trí của một bộ phận nông dân (nhất là vùng sâu, vùng xa) chưa được cải thiện, đời sống, xã hội nông thôn mặc dù có sự chuyển biến song chưa mạnh và không đồng đều. Tình trạng đó dẫn đến sự chênh lệch giữa khu vực thành thị và nông thôn ngày càng lớn. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê và Ngân hàng thế giới (WB) (năm 2003) hệ số chênh lệch giữa thành thị và nông thôn còn là 3,65 lần.
Thêm nữa, kinh nghiệm từ các nước trên thế giới và trong khu vực (như Xin-ga-po, Thái Lan, Trung Quốc, Thụy Điển, Tây Ban Nha...) đều cho thấy bài học: công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là cơ sở để chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế đất nước.
Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là gì?
Ngay từ Đại hội Đảng lần thứ VIII Đảng ta đã quyết định và chỉ đạo phải luôn luôn coi trọng và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Đặc biệt, Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX chỉ rõ nội dung tổng quát của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta giai đoạn 2001 - 2010 là :
- Là quá trình chuyển dịch kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hóa, hiện đại hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu khoa học đưa vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch và phát triển nông thôn, tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng nông thôn dân chủ, văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nông dân nông thôn.
Tới Đại hội X, Đảng ta xác định: "Hiện nay và trong nhiều năm tới, vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn vẫn có tầm chiến lược đặc biệt quan trọng. Phải luôn luôn coi trọng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn"
Tóm lại, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn chính là từng bước để phát triển nông thôn Việt Nam theo hướng hiện đại, xóa dần khoảng cách giữa thành thị với nông thôn.
Phát triển kinh tế tri thức
Trong sự nghiệp đổi mới, khi thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta thấy cần và có thể rút ngắn thời gian bằng những bước nhảy vọt xen lẫn những bước tuần tự. Đảng ta đã đề ra chủ trương: tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức.Với xu thế toàn cầu hóa kinh tế và sự phát triển kinh tế tri thức đã và đang tạo ra những cơ hội và thách thức cho Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, làm thay đổi mạnh mẽ nội dung
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 11925.doc