Đề tài Thực trạng quản lý thuế tiêu thụ đặc biệt ở nước ta

Ở nước ta thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) được ban hành và áp dụng từ năm 1990, sau đó được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1993, 1995 , và đến năm 1998 khi thực hiện cải cách thuế bước 2, Luật thuế TTĐB mới được ban hành thay thế cho Luật thuế TTĐB trước đây và được áp dụng từ ngày 1.1.1999 cùng với sự áp dụng Luật thuế giá trị gia tăng (GTGT) và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN). Qua hơn 10 năm thực hiện, thuế TTĐB đã góp phần quan trọng trong việc hướng dẫn phát triển sản xuất và tiêu dùng xã hội; cùng với các loại thuế khác như thuế GTGT, thuế TNDN và thuế xuất nhập khẩu, bước đầu hình thành nên một hệ thống chính sách thuế mới tương đối đồng bộ trong điều kiện hiện nay ở nước ta, góp phần động viên nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước, khoản thu từ thuế TTĐB hàng năm chiếm từ 15% đến 18% trong tổng số thuế gián thu và chiếm từ 7% đến 10% tổng thu ngân sách nhà nước về thuế và phí . Với những kết quả đạt được trên, có thể thấy việc ban hành và áp dụng thuế TTĐB ở nước ta trong thời gian qua là hợp lý, đúng đắn. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng, chính sách thuế TTĐB hiện hành ở nước ta đã đặt ra một số vấn đề cần phải được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế cuộc sống, phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế- xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, cụ thể có một số vấn đề sau :

doc43 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7129 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng quản lý thuế tiêu thụ đặc biệt ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ặc biệt ở khâu sản xuất được khấu trừ số thuế tiêu thụ đặt biệt đã nộp đối với nguyên liệu nếu có chứng từ hợp pháp. Cơ sở sản xuất kinh doanh nhiều loại hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt có thuế suất khác nhau thì phải kê khai thuế tiêu thụ đặc biệt theo từng mức thuế suất quy định đối với từng loại hàng hóa, dịch vụ; nếu cơ sở sản xuất kinh doanh hàng hóa dịch vụ không xác định được theo từng mức thuế suất thì phải tính theo mức thuế suất cao nhất của hàng hóa, dịch vụ mà cơ sở có sản xuất kinh doanh. Cơ sở sản xuất, nhập khẩu hàng hóa, kinh doanh dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt phải kê khai đầy đủ, đúng mẫu tờ khai thuế và chịu trách nhiệm về tính chính xác của việc kê khai. Riêng đối với mặt hàng rượu sản xuất trong nước và giao cho đại lý là đại lý chỉ hưởng hoa hồng, thực tế đại lý chưa bán được thì cơ sở sản xuất rượu tạm thời chưa phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với số lượng này. Căn cứ để xác định số hàng đã giao cho đại lý nhưng chưa bán, chưa phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt là bản kê khai từng tháng số hàng gửi đại lý bán chưa bán được, có kiểm tra xác nhận cuả cơ quan thuế quản lý cơ sở đại lý và cơ quan thuế quản lý cơ sở sản xuất rượu. Khi lập tờ khai thuế hàng tháng, cơ sở căn cứ vào bảng kê này để kê khai số rượu thực tế đã bán và số thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp. Ðối với số lượng rượu do cơ sở sản xuất giao cho các chi nhánh trực thuộc cơ sở sản xuất bán nhưng chưa bán được, việc kê khai xác định thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp cũng áp dụng như rượu bán qua đại lý hưởng hoa hồng nói trên. 1.2.6.3. Nộp thuế Thuế tiêu thụ đặc biệt được nộp vào ngân sách nhà nước theo quy định sau đây: Cơ sở sản xuất hàng hóa, kinh doanh dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt vào ngân sách nhà nước tại nơi sản xuất, kinh doanh theo thông báo nộp thuế của cơ quan thuế. Thời hạn nộp thuế của tháng được ghi trong thông báo thuế chậm nhất không quá ngày 20 của tháng tiếp theo. Cơ sở nhập khẩu hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt nộp thuế theo từng lần nhập khẩu. Thời hạn thông báo và thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng hóa nhập khẩu thực hiện theo thời hạn thông báo và nộp thuế nhập khẩu. Thuế tiêu thụ đặc biệt nộp vào ngân sách nhà nước bằng đồng Việt Nam. 1.2.6.4. Quyết toán thuế Cơ sở sản xuất hàng hóa, kinh doanh dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt phải thực hiện quyết toán thuế hàng năm với cơ quan thuế. Năm quyết toán thuế tính theo năm dương lịch. Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày kết thúc năm, cơ sở phải nộp báo cáo quyết toán thuế cho cơ quan thuế và phải nộp đầy đủ số thuế còn thiếu vào ngân sách nhà nước trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nộp báo cáo quyết toán; nếu nộp thừa thì được trừ vào số thuế phải nộp của kỳ tiếp theo. Trong trường hợp sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản, thay đổi ngành nghề kinh doanh, cơ sở phải thực hiện quyết toán thuế với cơ quan thuế và gởi báo cáo quyết toán thuế cho cơ quan thuế trong thời hạn 45 ngày, kể từ ngày có quyết định sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải thể, phá sản và phải nộp đầy đủ số thuế còn thiếu vào ngân sách nhà nước. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nộp báo cáo quyết toán; nếu nộp thừa thì được trừ vào số thuế phải nộp của kỳ tiếp theo hoặc được hoàn thuế theo quy định của luật thuế tiêu thụ đặc biệt. 1.2.7. Xử lý vi phạm. Ðối tượng nộp thuế vi phạm luật thuế tiêu thụ đặc biệt thì tuỳ theo mức độ vi phạm mà bị xử lý như sau: Không thực hiện đúng những quy định về đăng ký; kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế, chế độ kế toán và lưu giữ hóa đơn, chứng từ thì tùy theo tính chất mức độ vi phạm mà bị xử phạt vi phạm hành chính về thuế. Nộp chậm tiền thuế, tiền phạt so với ngày quy định phải nộp hoặc quyết định xử phạt về thuế thì ngoài việc phải nộp đủ số thuế, số tiền phạt, mỗi ngày nộp chậm còn phải nộp phạt bằng 0, 1% (một phần nghìn) số tiền chậm nộp. Khai man thuế, trốn thuế thì ngoài việc phải nộp đủ số thuế chính và tùy theo tính chất mức độ vi phạm, còn bị phạt tiền từ 1 - 5 lần số tiền thuế gian lận; trốn thuế với số lượng lớn hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về thuế mà còn vi phạm hoặc có hành vi vi phạm nghiêm trọng khác thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Không nộp thuế, nộp phạt theo thông báo hoặc quyết định xử phạt hành chính về thuế thì bị cưỡng chế bằng các biện pháp sau: * Trích tiền gởi của đối tượng nộp thuế tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc để nộp thuế, nộp phạt. * Ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc có trách nhiệm trích tiền từ tài khoản tiền gởi của đối tượng nộp thuế để nộp thuế, nộp phạt vào ngân sách nhà nước theo quyết định xử lý về thuế của cơ quan thuế hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền trước khi thu nợ. * Giữ hàng hóa, tang vật để bảo đảm thu đủ số thuế, số tiền phạt. * Kê biên tài sản theo quy định của pháp luật để bảo đảm thu đủ số thuế, số tiền phạt còn thiếu 1.3 Tầm quan trọng của thuế TTDB Xuất phát từ đặc điểm chung đã được trình bày ở phần trên, do đó thuế tiêu thụ đặc biệt có tầm quan trọng như sau: - Thông qua chế độ thu thuế tiêu thụ đặc biệt, nhà nước động viên một phần thu nhập đáng kể của người tiêu dùng vào ngân sách nhà nước. - Thuế tiêu thụ đặc biệt là công cụ rất quan trọng để nhà nước thực hiện chức năng hướng dẩn sản xuất và điều tiết tiêu dùng xã hội. - Thuế tiêu thụ đặc biệt cũng là công cụ để nhà nước điều tiết thu nhập của người tiêu dùng vào ngân sách nhà nước một cách công bằng hợp lý: ai tiêu dùng nhiều các hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt thì nộp thuế nhiều hơn người tiêu dùng ít hoặc không phải nộp thuế nếu không tiêu dùng các hàng hóa, dịch vụ đó. - Việc ban hành Luật thuế tiêu thụ đặc biệt để điều chỉnh việc sản xuất, kinh doanh,lưu thông và tiêu dùng một số hàng hóa, dịch vụ mang tính chất xa xỉ, chưa thật cần thiết cho nhu cầu xã hội thể hiện sự tăng cường quản lý, kiểm soát của nhà nước một cách tập trung, chặt chẽ đối với các loại hàng hóa, dịch vụ này. 1.4 Mối liên hệ giữa thuế tiêu thụ đặc biệt với các loại thuế khác trong quá trình lưu thông hàng hóa, thực hiện dịch vụ (chủ yếu là thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, nhập khẩu ) : Các loại hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt không phải chịu thuế giá trị gia tăng đối với số lượng hàng hóa, dịch vụ đã kê khai nộp thuế tiêu thụ đặc biệt. Chẳng hạn, cơ sở trực tiếp sản xuất khi bán ra những mặt hàng thuộc diện chiụ thuế tiêu thụ đặc biệt thì cơ sở này chỉ kê khai nộp thuế tiêu thụ đặc biệt mà không phải kê khai nộp thuế giá trị gia tăng đối với số hàng hoá đã chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Trường hợp cơ sở sản xuất có tổ chức chi nhánh, cửa hàng tiêu thụ sản phẩm trực thuộc thì cơ sở sàn xuất phải kê khai và nộp thuế tiêu thụ đặc biệt tại nơi sản xuất. Các chi nhánh, cửa hàng tiêu thụ sản phẩm phải kê khai nộp thuế giá trị gia tăng theo thuế suất đối với hoạt động kinh doanh thương nghiệp. Các hàng hóa, dịch vụ đã chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, khi lưu thông trên thị trường, tức là được chuyển qua khâu thương nghiệp thì các cơ sở kinh doanh các mặt hàng này không phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt nhưng phải nộp thuế giá trị gia tăng theo biểu thuế ngành kinh doanh thương nghiệp. Cơ sở nhập khẩu các mặt hàng thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt cùng với thuế nhập khẩu theo từng lần nhập khẩu, khi bán hàng hóa này thì cơ sở phải nộp thuế giá trị gia tăng. 1.5 Thuế TTĐB đối với dự án ODA Về “dự án sử dụng nguồn vốn ODA” gọi tắt là “dự án ODA”: ODA là từ viết tắt của từ 'Official Development Assistance' .Dự án ODA là dự án hỗ trợ phát triển chính thức , là các dự án thuộc khuôn khổ hoạt động hoạt động phát triển của chính phủ nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các nhà tài trợ. - “Nhà thầu chính” là tổ chức, cá nhân trực tiếp ký hợp đồng với Chủ dự án ODA hoặc nhà tài trợ vốn cho dự án ODA để xây lắp công trình hoặc cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho dự án ODA. Nhà thầu chính bao gồm Nhà thầu chính nước ngoài và Nhà thầu chính Việt Nam. - “Nhà thầu phụ” là tổ chức, cá nhân ký hợp đồng với Nhà thầu chính để thực hiện một phần công việc của hợp đồng Nhà thầu chính ký với Chủ dự án ODA hoặc nhà tài trợ vốn cho dự án ODA. Nhà thầu phụ bao gồm Nhà thầu phụ nước ngoài và Nhà thầu phụ Việt Nam.  1.5.1 Chính sách và ưu đãi về thuế TTĐB áp dụng đối với dự án ODA không hoàn lại 1.5.1.1. Đối với hàng hoá nhập khẩu:  Chủ dự án ODA không hoàn lại, nhà thầu chính thực hiện dự án ODA không hoàn lại không phải nộp thuế NK, thuế TTĐB (nếu có), thuế GTGT đối với hàng hoá do Chủ dự án ODA, nhà thầu chính trực tiếp nhập khẩu hoặc uỷ thác nhập khẩu để thực hiện dự án ODA. Cơ quan hải quan tổ chức thực hiện việc không thu thuế NK, thuế TTĐB (nếu có), thuế GTGT đối với hàng hoá nhập khẩu để thực hiện dự án ODA viện trợ không hoàn lại. 1.5.1.2. Đối với nhà thầu chính, nhà thầu phụ thực hiện dự án ODA viện trợ không hoàn lại: Nhà thầu chính, nhà thầu phụ nhập khẩu hàng hoá trong quá trình thực hiện hợp đồng ký với Chủ dự án ODA viện trợ không hoàn lại nộp thuế NK, thuế TTĐB (nếu có), thuế GTGT theo qui định của Luật thuế XK, thuế NK, Luật thuế TTĐB, Luật thuế GTGT và các văn bản hướng dẫn hiện hành. Riêng đối với xe ôtô dưới 24 chỗ ngồi và xe ôtô có thiết kế vừa chở người, vừa chở hàng tương đương xe ôtô dưới 24 chỗ ngồi không áp dụng việc miễn thuế NK, thuế TTĐB theo hình thức tạm nhập, tái xuất. Các nhà thầu chính nước ngoài, nhà thầu phụ nước ngoài có nhu cầu nhập khẩu vào Việt Nam để sử dụng phải nộp thuế NK, thuế TTĐB theo quy định. Khi hoàn thành việc thi công công trình, dự án các nhà thầu chính nước ngoài, nhà thầu phụ nước ngoài phải tái xuất ra nước ngoài số xe đã nhập và được hoàn lại thuế NK, thuế TTĐB theo quy định. Mức hoàn thuế và thủ tục hoàn thuế được thực hiện theo hướng dẫn tại Thông tư số 59/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành thuế XK, thuế NK, quản lý thuế đối với hàng hoá xuất, nhập khẩu và Thông tư số 119/2003/TT-BTC ngày 12/12/2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 149/2003/NĐ-CP ngày 4/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế TTĐB và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế TTĐB. 1.5.2. Chính sách và ưu đãi về thuế TTDB áp dụng đối với dự án OAD vay ưu đãi, vay hỗn hợp (gọi chung là ODA vay) 1.5.2.1. Đối với hàng hoá nhập khẩu: Chủ dự án ODA vay trực tiếp nhập khẩu hoặc uỷ thác nhập khẩu thực hiện nghĩa vụ thuế NK, thuế GTGT, thuế TTĐB theo qui định của Luật thuế XK, thuế NK, Luật thuế GTGT, Luật thuế TTĐB và các văn bản hướng dẫn thi hành. 1.5.2.2. Chính sách thuế đối với nhà thầu chính, nhà thầu phụ thực hiện dự án ODA vay: Nhà thầu chính, nhà thầu phụ nhập khẩu hàng hoá trong quá trình thực hiện hợp đồng ký với Chủ dự án ODA vay nộp thuế NK, thuế TTĐB (nếu có), thuế GTGT theo qui định của Luật thuế XK, thuế NK, Luật thuế TTĐB, Luật thuế GTGT và các văn bản hướng dẫn hiện hành. Riêng đối với xe ôtô dưới 24 chỗ ngồi và xe ôtô có thiết kế vừa chở người, vừa chở hàng tương đương xe ôtô dưới 24 chỗ ngồi không áp dụng việc miễn thuế NK, thuế TTĐB theo hình thức tạm nhập, tái xuất. Các nhà thầu chính nước ngoài, nhà thầu phụ nước ngoài có nhu cầu nhập khẩu vào Việt Nam để sử dụng phải nộp thuế NK, thuế TTĐB theo quy định. Khi hoàn thành việc thi công công trình, dự án các nhà thầu chính nước ngoài, nhà thầu phụ nước ngoài phải tái xuất ra nước ngoài số xe đã nhập và được hoàn lại thuế NK, thuế TTĐB theo quy định. Mức hoàn thuế và thủ tục hoàn thuế được thực hiện theo hướng dẫn tại Thông tư số 59/2007/TT-BTC ngày 14/6/2007 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành thuế XK, thuế NK, quản lý thuế đối với hàng hoá xuất, nhập khẩu và Thông tư số 119/2003/TT-BTC ngày 12/12/2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 149/2003/NĐ-CP ngày 4/12/2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế TTĐB và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế TTĐB. 1.6 Ưu đãi về thuế tiêu thụ đặc biệt đối với doanh nghiệp trong khu kinh tế cửa khẩu. Trích Quyết định số 33/2009/QĐ-TTg ngày 02/03/2009 Điều 12. Ưu đãi về thuế tiêu thụ đặc biệt 1. Hàng hoá thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt được sản xuất, tiêu thụ trong khu phi thuế quan thuộc khu kinh tế cửa khẩu hoặc nhập khẩu từ nước ngoài và từ nội địa Việt Nam vào khu phi thuế quan thuộc khu kinh tế cửa khẩu không phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt; riêng ô tô dưới 24 chỗ ngồi phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt theo quy định. 2. Hàng hoá thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt từ khu phi thuế quan thuộc khu kinh tế cửa khẩu xuất khẩu ra nước ngoài không phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. 3. Hàng hoá thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt từ khu phi thuế quan thuộc khu kinh tế cửa khẩu đưa vào tiêu thụ tại các khu chức năng khác trong khu kinh tế cửa khẩu hoặc đưa vào tiêu thụ tại nội địa Việt Nam phải nộp thuế tiêu thụ đặc biệt theo quy định. Chính sách ưu đãi đầu tư vào khu kinh tế cửa khẩu Lao bảo + Hàng hoá, dịch vụ sản xuất, tiêu thụ trong Khu Kinh tế - Thương mại đặc biệt Lao Bảo và hàng hoá, dịch vụ nhập khẩu từ nước ngoài vào Khu Kinh tế - Thương mại đặc biệt Lao Bảo không phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Riêng đối với ô tô dưới 24 chổ ngồi nhập khẩu vào Khu Kinh tế - Thương mại đặc biệt Lao Bảo phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt theo quy định hiện hành. + Hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong Khu Kinh tế - Thương mại đặc biệt Lao Bảo thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt xuất khẩu ra nước ngoài không phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Chính sách ưu đãi đầu tư vào khu kinh tế cửa khẩu quốc tế cầu treo. Để khai thác tiềm năng và lợi thế nhằm phát triển Khu vực cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo thành khu vực kinh tế năng động của tỉnh Hà Tĩnh, ngày 19/10/2007 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 162/2007/QĐ-TTg về việc ban hành Quy chế hoạt động của Khu kinh tế cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo, tỉnh Hà Tĩnh. Theo đó toàn bộ Khu kinh tế được xác định là Khu phi thuế quan với những cơ chế, chính sách ưu đãi đặc biệt về đầu tư, thuế, tín dụng, đất đai và một số cơ chế chính sách khác. “ Hàng hoá, dịch vụ sản xuất , tiêu thụ trong khu kinh tế và nhập khẩu từ nước ngoài vào khu kinh tế không phải chịu thuế gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt. Hàng hoá, dịch vụ từ nội địa Việt Nam đưa vào khu kinh tế hưởng thuế suất GTGT là 0% ” CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG QUẢN LÝ THUẾ TTĐB Ở nước ta thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) được ban hành và áp dụng từ năm 1990, sau đó được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1993, 1995 , và đến năm 1998 khi thực hiện cải cách thuế bước 2, Luật thuế TTĐB mới được ban hành thay thế cho Luật thuế TTĐB trước đây và được áp dụng từ ngày 1.1.1999 cùng với sự áp dụng Luật thuế giá trị gia tăng (GTGT) và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN). Qua hơn 10 năm thực hiện, thuế TTĐB đã góp phần quan trọng trong việc hướng dẫn phát triển sản xuất và tiêu dùng xã hội; cùng với các loại thuế khác như thuế GTGT, thuế TNDN và thuế xuất nhập khẩu, bước đầu hình thành nên một hệ thống chính sách thuế mới tương đối đồng bộ trong điều kiện hiện nay ở nước ta, góp phần động viên nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước, khoản thu từ thuế TTĐB hàng năm chiếm từ 15% đến 18% trong tổng số thuế gián thu và chiếm từ 7% đến 10% tổng thu ngân sách nhà nước về thuế và phí . Với những kết quả đạt được trên, có thể thấy việc ban hành và áp dụng thuế TTĐB ở nước ta trong thời gian qua là hợp lý, đúng đắn. Tuy nhiên, qua thực tiễn áp dụng, chính sách thuế TTĐB hiện hành ở nước ta đã đặt ra một số vấn đề cần phải được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế cuộc sống, phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế- xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, cụ thể có một số vấn đề sau : 2.1.Thực trạng thuế tiêu thụ đặc biệt hiện nay: 2.1.1Đối với mặt hàng rượu bia: Đối với đồ uống có cồn: Bên cạnh việc khắc phục những tồn tại trong quy định của Luật cũ về thuế suất ... còn đảm bảo việc thực hiện các cam kết quốc tế khi Việt Nam gia nhập WTO. Đối với mặt hàng rượu, Viêt Nam cam kết trong vòng 3 năm kể từ ngày gia nhập WTO (tức là từ năm 2010), tất cả các loại rượu được chưng cất có nồng độ từ 20o cồn trở lên sẽ áp dụng một mức thuế tuyệt đối tính theo lít rượu cồn nguyên chất hoặc một mức thuế phần trăm. Luật Thuế TTĐB trước đây quy định thuế suất đối với mặt hàng rượu được phân biệt theo nồng độ cồn, trong đó rượu dưới 20o, rượu hoa quả, rượu thuốc áp thuế suất 20%; rượu từ 20o đến dưới 40o cồn áp thuế suất 30%; rượu từ 40o cồn trở lên áp thuế suất 65%. Hiện nay, rượu sản xuất trong nước chủ yếu là các loại rượu có nồng độ cồn dưới 40o, trong đó rượu có nồng độ cồn từ 20o đến dưới 40o chiếm tỷ trọng lớn về sản lượng (95%) và số thu thuế TTĐB là 93,7%. Rượu từ 40 độ trở lên chiếm tỷ trọng nhỏ về sản lượng (5%) và số thu thuế TTĐB (6,3%). Để thực hiện đúng cam kết WTO, Luật Thuế TTĐB mới có quy định mức thuế suất đối với mặt hàng rượu từ 20o trở xuống là 25% thay cho mức thuế suất 20%. Các loại rượu có nồng độ cồn từ 20o trở lên trong 3 năm đầu được áp dụng mức thuế suất là 45%, từ năm 2013 trở đi sẽ áp dụng mức thuế suất là 50%. Đối với mặt hàng bia, theo cam kết thì trong vòng 3 năm kể từ khi gia nhập WTO, Việt Nam sẽ phải quy định một mức thuế suất theo tỷ lệ phần trăm (%) áp dụng chung đối với các loại bia, không phân biệt hình thức đóng gói bao bì. Luật trước đây quy định bia chai, bia lon áp thuế suất 75%; bia hơi, bia tươi áp thuế suất là 40% (năm 2006-2007 là 30%). Luật Thuế TTĐB sửa đổi quy định mức thuế suất áp dụng, đối với mặt hàng bia là 50% nhưng có lộ trình áp dụng vì đây là cam kết bắt buộc khi Việt Nam gia nhập WTO nhưng chúng ta cũng phải tính đến quyền lợi và thực trạng của sản xuất kinh doanh trong nước. Việc áp dụng thuế suất đối với mặt hàng bia hơi theo hướng tăng từ mức 40% lên 50% là có lộ trình đã được xác định trước và công bố công khai nhiều năm qua. Mức 50% sẽ được áp dụng từ năm 2013. Trong 3 năm đầu kể từ khi Luật số 27/2008/QH12 có hiệu lực, mức thuế suất áp dụng chung với tất cả các chủng loại bia, không phân biệt bao bì sẽ là 45% (với bia hơi có tăng 5% so với trước). Mức tăng này sẽ không ảnh hưởng lớn đến các doanh nghiệp bia hơi và với lộ trình 3 năm cũng sẽ tiếp tục tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất bia hơi có thời gian sắp xếp lại sản xuất, thay đổi cơ cấu mặt hàng (bia hơi, bia chai, bia lon) để ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh. *Về giá tính thuế Giá tính thuế TTĐB của hàng hóa là giá chưa có thuế GTGT và chưa có thuế TTĐB và không loại trừ giá trị vỏ bao bì. Đối với bia lon, không được trừ giá trị vỏ lon bia theo mức 3800đ/lít bia lon như trước ngày 1/1/2010. Đối với bia chai, nếu cơ sở sản xuất có đặt cược vỏ chai, định kỳ hàng quí cơ sở sản xuất và khách hàng quyết toán số tiền đặt cược vỏ chai, số tiền đặt cược tương ứng giá trị vỏ chai không thu hồi được phải đưa vào doanh thu tính thuế TTĐB (hướng dẫn này không đổi như đã áp dụng trước 1/1/2010). Ví dụ về bia lon, năm 2010 giá bán 1 lít bia lon chưa có thuế GTGT là 20.000đ, thuế suất thuế TTĐB là 45% thì giá tính thuế TTĐB được xác định như sau: Giá tính thuế TTĐB = 20.000đ/(1 lít bia lon + 45%) = 13.793đ Ví dụ về bia chai, quí I năm 2010, công ty A bán 1000 chai bia cho khách hàng B và có thu tiền cược vỏ chai là 1.200đ/vỏ chai, tổng số tiền đặt cược là 1.200.000đ. Hết qúy, hai bên quyết toán: số vỏ chai thu hồi là 800 vỏ chai, 200 vỏ chai không thu hồi được, công ty A trả lại cho khách hàng B 960.000đ, số tiền tương ứng số vỏ chai không thu hồi được 200 x 1.200đ = 240.000đ công ty A phải đưa vào doanh thu tính thuế TTĐB của qúy I năm 2010. 2.1.2.Đối với ôtô Đối với mặt hàng ô-tô du lịch, trong nhiều năm, Luật Thuế TTĐB quy định mức thuế suất áp dụng đối với ô- tô chở người được phân biệt theo tiêu chí số chỗ ngồi. Theo đó, ô-tô từ 5 chỗ ngồi trở xuống áp thuế suất 50%; ô-tô từ 6 đến 15 chỗ áp thuế suất 30%; ô-tô từ 16 đến dưới 24 chỗ áp thuế suất 15%. Quy định như vậy trong thực tế thực hiện đã bộc lộ những hạn chế, chẳng hạn: đối với loại xe từ 6 đến 9 chỗ ngồi được sử dụng chủ yếu làm phương tiện đi lại cho cá nhân, song chỉ chịu mức thuế suất bằng 60% so với mức thuế suất áp dụng cho xe từ 5 chỗ ngồi trở xuống. Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, tại nhiều nước, bên cạnh việc sử dụng tiêu chí số chỗ ngồi, họ còn kết hợp với một số tiêu chí khác để định ra mức thuế TTĐB như dung tích xi-lanh (hoặc công suất động cơ), kích thước xe liên quan đến diện tích chiếm chỗ,... Vì vậy, ở Luật số 27 đã có sự lựa chọn kết hợp nhiều tiêu chí phân loại để sắp xếp, cơ cấu lại thuế suất giữa các nhóm xe, có tính đến diện tích chiếm chỗ ảnh hưởng đến giao thông, nguồn năng lượng sử dụng. Chẳng hạn: Đối với chủng loại xe từ 6 đến 9 chỗ ngồi sẽ được xếp vào cùng nhóm với các chủng loại xe 5 chỗ ngồi trở xuống để áp dụng một mức thuế suất phân biệt theo dung tích xi-lanh với nguyên tắc: Dung tích xi-lanh lớn hơn sẽ phải chịu mức thuế suất cao hơn; Đối với loại xe có dung tích từ 2.000cc trở xuống áp dụng mức thuế suất là 45%, dung tích trên 2.000cc đến 3.000cc mức thuế suất áp dụng là 50%, dung tích trên 3.000cc sẽ áp mức thuế 60% là mức thuế suất cao nhất. Các mức thuế suất mới được áp dụng sẽ không gây ảnh hưởng đến hoạt động và hiệu quả kinh doanh của các nhà sản xuất, lắp ráp trong nước: Với cơ cấu hiện tại, các chủng loại xe từ 5 chỗ ngồi trở xuống phần lớn có dung tích xi-lanh dưới 2000cc nên sẽ có lợi hơn (thuế suất giảm từ 50% xuống còn 45%); Trong khi đó, xe sản xuất trong nước loại dung tích xi-lanh trên 3.000cc (chịu mức thuế suất tăng từ 50% lên 60%) chiếm tỷ trọng rất nhỏ (khoảng 3% số lượng xe sản xuất và tiêu thụ thuộc diện chịu thuế TTĐB). Đối với loại xe từ 6 đến 9 chỗ ngồi sẽ chịu tác động của việc điều chỉnh cách tính thuế do mức thuế suất được điều chỉnh tăng từ 30% lên 45%, 50% và 60% tuỳ theo dung tích xi-lanh. Tuy nhiên, trong từng doanh nghiệp sản xuất xe ô-tô hiện nay đều có sản xuất cả loại xe từ 5 chỗ ngồi trở xuống và xe từ 6 đến 9 chỗ, do đó về cơ bản sẽ không ảnh hưởng lớn đến tình hình sản xuất kinh doanh. Mặt khác, loại xe từ 6 đến dưới 9 chỗ có dung tích trên 3.000cc với mức tăng thuế cao nhất (từ 30% lên 60%), hiện trong nước sản xuất không đáng kể, chỉ chiếm khoảng 0,8% tổng số xe sản xuất trong nước thuộc diện chịu thuế TTĐB. Nghịch lý và nguyên nhân thuế tiêu thụ đặc biệt tăng cao đối với ôtô Bản chất đánh thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) là nhà nước không khuyến khích tiêu dùng các mặt hàng, dịch vụ đó. Tuy nhiên với mức thuế 90% cho xe dưới 5 chỗ ngồi hiện nay đang dẫn đến 1 nghịch lý: ôtô bị hạn chế tiêu dùng cao hơn cả rượu bia, thuốc lá, vàng mã và kinh doanh karaoke, casino... Lý do đưa ra, theo Thứ trưởng Bộ Công nghiệp Đỗ Hữu Hào thì không chỉ đơn thuần là hàng tiêu dùng, mà còn là mặt hàng thuộc dạng xa xỉ và phải chịu thuế TTĐB, nghĩa là không được khuyến khích tiêu thụ do cơ sở hạ tầng chưa tốt, đường sá chưa bảo đảm để tạo ra sự thông thoáng của giao thông. Theo các thông báo của Bộ Giao thông vận tải thì tỷ lệ diện tích dành cho giao thông ở ta mới chỉ đạt 10%, trong khi ở các nước láng giềng như Thái Lan, Malaysia là 20%, vì thế mà hạn chế số lượng ôtô. Như vậy tất cả đều nằm ở quan niệm và phương pháp tổ chức giao thông. Nếu chính sách về ôtô đúng đắn hơn một chút thì bây giờ Việt Nam ta số lượng ôtô chắc cũng xấp xỉ Indonesia mà đường sá chưa cần phải làm thêm gì nhiều. Đó là chưa nói, chính số lượng ôtô sẽ khiến đầu tư dạng BOT vào cơ sở hạ tầng giao thông trở nên hấp dẫn, bởi thu phí với ôtô thì bao giờ cũng dễ và nhiều hơn xe máy. Tóm lại, mọi chuyện đều thuộc về chính sách của nhà nước. Một khi thấy ôtô là chưa cần thiết thì nó là chưa cần thiết. Còn khi thấy rằng sau khi áp dụng mọi biện pháp mà con số người chết vì tai nạn giao thông trên dưới 13.000 người mỗi năm vẫn không giảm, thì chính sách ôtô cho mỗi người chắc chắn sẽ là lời giải hiệu quả. Và khi đó, chính sách cần thiết trước hết là thôi xem ôtô là hàng hoá xa xỉ để đánh thuế TTĐB. Bộ Công Thương đề nghị Chính phủ xem xét tạm dừng việc tăng thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế VAT đối với tất cả các loại xe. Trong trường hợp không thể áp dụng được với tất cả các loại xe thì ít nhất là áp dụng với xe tải và xe bus vì đây là phương tiện phục vụ sản xuất và dịch vụ, đồng thời là đối tượng chính của quy hoạch ngành công nghiệp ôtô. 2.1.3 Các mặt hàng đặc biệt Về đối tượng chịu thuế: Trong lần sửa đổi này, Luật Thuế TTĐB có phạm vi điều chỉnh rộng, ngoài các mặt hàng truyền thống (đồ uống có cồn như rượu, bia; thuốc lá; xăng và các chế phẩm dùng để pha chế xăng, điều hoà nhiệt độ, ô-tô du lịch dưới 24 chỗ ngồi,...) một số mặt hàng mới được bổ sung vào đối tượng chịu thuế, chẳng hạn: Xe mô-tô có dung tích xi lanh trên 125 phân khối (cm3), với đặc thù là đại bộ phận thuộc loại xe tay ga, xe đua, thường có giá trị lớn, chủ yếu được sử dụng và lưu thông ở các thành phố lớn, người sử dụng phần đông là bộ phận dân cư có thu nhập cao. Việc đưa loại xe mô-tô có dung tích xi-lanh trên 125 cm3 vào diện chịu thuế TTĐB không ảnh hưởng đến các đối tượng sử dụng xe máy phổ thông là bà con nông dân, người lao động có thu nhập trung bình trở xuống mà vẫn bảo đảm được yêu cầu định hướng tiêu dùng, khuyến khích sử dụng năng lượ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng quản lý thuế tiêu thụ đặc biệt.DOC
Tài liệu liên quan