Đề tài Thực trạng rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Bình Phước

Chương 1: TỔNG QUAN VỀHOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TÍN

DỤNG NGÂN HÀNG . 1

1.1 Hoạt động tín dụng . 1

1.1.1 Khái niệm .1

1.1.2 Bản chất . 1

1.1.3 Phân loại hoạt động tín dụng . 2

1.2 Rủi ro tín dụng . 3

1.2.1 Khái niệm .3

1.2.2 Phân loại rủi ro tín dụng . 3

1.2.3 Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng và

nền kinh tếxã hội . 4

1.2.3.1 Ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng . 4

1.2.3.2 Ảnh hưởng đến nền kinh tếxã hội . 5

1.2.4 Một sốphương pháp lượng hóa và đánh giá rủi ro tín dụng. . 5

1.2.4.1 Lượng hóa rủi ro tín dụng. . 5

1.2.4.2 Đánh giá rủi ro tín dụng. . 8

1.2.4.3 Phương pháp quản lý rủi ro tín dụng. . 10

1.2.5 Kinh nghiệm quản lý rủi ro tín dụng của các nước . 12

Kết luận chương 1: . 14

Chương 2: THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH PHƯỚC . 15

2.1 Vài nét vềtỉnh Bình Phước . 15

2.1.1 Mục tiêu tổng quát: . 15

2.1.2 Mục tiêu cụthể: . 16

2.2 Hoạt động của hệthống ngân hàng trên địa bàn tỉnh BP . 16

2.2.1 Tình hình huy động vốn . 17

2.2.1.1 Phân tích tình hình huy động vốn . 17

2.2.1.2 Đánh giá chung vềhuy động vốn của các NHTM trên địa bàn Bình

Phước. 21

2.2.2 Tình hình sửdụng vốn . 22

2.2.2.1 Tình hình doanh sốcấp tín dụng . 22

2.2.2.2 Tình hình doanh sốthu nợ. 24

2.3 Kết quảkinh doanh . 25

2.4 Tình hình rủi ro tín dụng của các NHTM trên địa bàn tỉnh Bình Phước . 26

2.4.1 Tín dụng chung . 26

2.4.2 Phân tích tình hình dưnợvà nợxấu theo loại hình kinh tế. 28

2.4.2.1 Phân tích tình hình dưnợtheo loại hình kinh tế. 28

2.4.2.2 Phân tích tình hình nợxấu theo loại hình kinh tế. 30

2.4.3 Phân tích tình hình dưnợvà nợxấu theo ngành kinh tế. 31

2.4.3.1 Phân tích tình hình dưnợtheo ngành kinh tế. 31

2.4.3.2 Phân tích tình hình nợxấu theo ngành kinh tế. 33

2.5 Một sốchỉtiêu đánh giá chất lượng tín dụng của các NHTM trên địa bàn . 35

2.5.1 Tỷlệnợquá hạn và tỷlệnợxấu . 35

2.5.2 Tỷlệtổng nguồn vốn huy động trên tổng dưnợcho vay . 36

2.5.3 Vòng quay vốn tín dụng . 37

2.5.4 Hệsốthu nợ. 38

2.6 Đánh giá chung vềhoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng . 38

2.6.1 Những thành tựu đạt được . 38

2.6.2 Một sốtồn tại trong hoạt động tín dụng . 39

2.7 Những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng . 40

2.7.1 Tác động của chính sách kinh tếvĩmô (Chính phủvà NHNN) . 40

2.7.1.1 Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi và sựkém hiệu quảcủa cơ

quan pháp luật cấp địa phương trong việc triển khai . 40

2.7.1.2 Công tác thống kê, dựbáo còn hạn chế, cho nên những điều chỉnh trong

điều hành chính sách tiền tệcủa NHNN chưa theo kịp diễn biến của nền kinh tế

và kết quả đạt chưa cao . 41

2.7.1.3 Rủi ro do sựthanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quảcủa NHNN . 41

2.7.1.4 Rủi ro do hệthống thông tin quản lý còn bất cập . 42

2.7.2 Nguyên nhân thuộc vềcác ngân hàng thương mại . 43

2.7.2.1 Thông tin tín dụng không đầy đủvà chính xác . 43

2.7.2.2 Lạm dụng tài sản thếchấp . 44

2.7.2.3 Thiếu kiểm tra giám sát vốn vay . 44

2.7.2.4 Sựlỏng lẻo trong công tác kiểm soát nội bộngân hàng . 45

2.7.2.5 Năng lực của đội ngũcán bộtín dụng còn hạn chế. 45

2.7.2.6 Rủi do do sựcạnh tranh giữa các tổchức tín dụng chưa thực sự

lành mạnh, việc chạy theo quy mô, bỏqua các tiêu chuẩn, điều kiện trong cho

vay, thiếu quan tâm đến chất lượng khoản vay . 46

2.7.2.7 Sựhợp tác giữa các NHTM lỏng lẻo, vai trò của CIC chưa thực sựhiệu

quả: . 46

2.7.3 Nguyên nhân thuộc vềkhách hàng . 47

2.7.3.1 Do năng lực tài chính của khách hàng yếu kém . 47

2.7.3.2 Do năng lực quản trị điều hành kinh doanh yếu kém . 47

2.7.3.4 Do khách hàng gian lận . 48

2.7.4 Nguyên nhân khách quan . 48

2.7.4.1 Rủi ro do sựthay đổi của môi trường tựnhiên như: thiên tai, dịch bệnh,

bão lụt gây tổn thất cho khách hàng vay vốn kinh doanh. . 48

2.7.4.2 Rủi ro do sựbiến động quá nhanh và không dự đoán được của thị

trường thếgiới. . 49

Kết luận chương 2 . 49

Chương 3: MỘT SỐGIẢI PHÁP HẠN CHẾRỦI RO TÍN DỤNG CỦA CÁC

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN BÌNH PHƯỚC . 50

3.1 Định hướng phát triển kinh tế- xã hội Bình Phước đến năm 2020 . 50

3.1.1 Quan điểm phát triển và mục tiêu tổng quát . 50

3.1.2 Mục tiêu cụthểphát triển kinh tế- xã hội Bình Phước đến năm 2020 . 50

3.2 Định hướng phát triển hệthống NHTM Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn

đến năm 2020 . 51

3.2.1 Đối với NHNN . 51

3.2.2 Đối với các TCTD . 52

3.2.3 Vềhội nhập kinh tếquốc tế. 53

3.3 Định hướng phát triển các ngân hàng thương mại Bình Phước đến năm 2020 . 54

3.3.1 Mục tiêu định hướng . 54

3.3.2 Định hướng phát triển hoạt động tín dụng . 54

3.4 Những giải pháp ởcấp độvĩmô . 55

3.4.1 Giải pháp từchính phủ. 55

3.4.1.1 Lựa chọn cấp độ độc lập tựchủcho phù hợp với NHNN thời kỳmới: . 55

3.4.1.2 Chính phủnên kịp thời hỗtrợTrung tâm thông tin tín dụng

(TTTTTD) tưnhân ra đời . 55

3.4.1.3 Tạo điều kiện đểphát triển thịtrường mua bán nợxấu của các NHTM 56

3.4.1.4 Đềnghịsửa điều 476 trong Bộluật dân sựliên quan đến quy định về

trần lãi suất: . 57

3.4.2 Giải pháp từngân hàng nhà nước Việt Nam . 58

3.4.2.1 Cơcấu lại căn bản, toàn diện tổchức và hoạt động của NHNN: . 58

3.4.2.2 Cải cách toàn diện hệthống thanh tra, giám sát ngân hàng . 59

3.4.2.3 Nâng cao chất lượng Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN (CIC) . 59

3.4.2.4 Cho phép thành lập các Trung tâm thông tin tín dụng tưnhân . 60

3.4.2.5 NHNN phải thống nhất khi thực hiện phân loại nợtheo quyết định 493:61

3.5 Những giải pháp ởcấp độvi mô . 61

3.5.1 Giải pháp từbản thân các NHTM Bình Phước . 61

3.5.1.1 Hoàn thiện và tuân thủnghiêm ngặt quy trình cho vay . 61

3.5.1.2 Đa dạng hóa danh mục cho vay và sản phẩm dịch vụngân hàng nhằm

giảm thiểu rủi ro . 64

3.5.1.3 Thành lập bộphận nghiên cứu, phân tích và dựbáo kinh tếvĩmô . 64

3.5.1.4 Nâng cao vai trò của công tác kiểm soát nội bộngân hàng . 65

3.5.1.5 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực . 65

3.5.1.6 Tham gia thanh lý các khoản nợxấu thông qua thịtrường mua bán nợ. 66

3.5.1.7 Yêu cầu các NHTM áp dụng hệthống quản lý chất lượng ISO

9001:2000 . 66

3.5.1.8 Chú trọng chiến lược đầu tưphát triển công nghệ. 67

3.5.2 Các giải pháp hỗtrợkhác . 68

3.5.2.1 Các NHTM cần giúp các DNV&N lập phương án kinh doanh . 68

3.5.2.2 Yêu cầu báo cáo tài chính của các DN được kiểm toán và phải có chếtài

để đảm bảo tính minh bạch vềthông tin tài chính . 68

3.5.2.3 Thành lập công ty thẩm định giá tài sản . 68

Kết luận chương 3: . 69

KẾT LUẬN . 70

TÀI LIỆU THAM KHẢO . 71

PHỤLỤC 1 . 72

pdf81 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3043 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Bình Phước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năm 2007 tương đương đạt tốc độ tăng trưởng 20,6%; tháng 3 năm 2009 là 4.844 tỷ đồng (chiếm 66,8%) và tỷ trọng cho vay trung, dài hạn giảm dần qua các năm, cụ thể: 39 năm 2007 là 2.298 tỷ đồng (chiếm 41,4% ); năm 2008 là 2.354 tỷ đồng (chiếm 37,5%); tháng 3 năm 2009 là 2.405 tỷ đồng (chiếm 33,2%). Ngân hàng đã có kế hoạch và nổ lực chuyển đổi cơ cấu cho vay, cụ thể: cơ cấu tín dụng có sự chuyển biến theo hướng giảm dần tỷ trọng cho vay loại hình DN nhà nước và tăng dần tỷ trọng cho vay loại hình kinh doanh cá thể, DNV&N (DNTN, công ty TNHH, công ty cổ phần). Cơ cấu này cũng chuyển dịch theo chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh: tăng dần tỷ trọng của ngành công nghiệp – xây dựng, thương mại – dịch vụ và giảm dần tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp. Tuy nhiên dư nợ trong ngành nông, lâm nghiệp vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn dù đã giảm dần qua các năm, đến tháng 3/2009, tỷ trọng cho vay ngành nông lâm nghiệp chiếm 50,52%. NH đã tích cực phát triển kênh phân phối như mở rộng chi nhánh, phòng giao dịch, số lượng máy ATM về các khu vực đông dân cư trên khắp các huyện, xã của tỉnh để nâng cao năng lực phục vụ khách hàng và thu hút khách hàng mới, nâng cao chất lượng dịch vụ và cho ra đời nhiều sản phẩm gắn bó với người dân, từ đó đặt nền móng để nâng cao hiệu quả kinh doanh, thương hiệu và khả năng cạnh tranh của NH. Thu nhập từ hoạt động tín dụng qua các năm chiếm trên 90% tổng thu nhập, còn thu nhập từ dịch vụ tuy có tăng dần qua các năm nhưng còn rất nhỏ. Hầu hết dư nợ cho vay của các NHTM là có đảm bảo tài sản thế chấp, chiếm khoảng 95% so với tổng dư nợ cho vay. 2.6.2 Một số tồn tại trong hoạt động tín dụng Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một số tồn tại cần được khắc phục để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động kinh doanh NH nói chung và hiệu quả hoạt động tín dụng nói riêng, cụ thể: - Tỷ lệ nợ quá hạn giảm dần qua các năm nhưng tỷ lệ này vẫn còn cao hơn so với tỷ lệ bình quân của của ngành NH, cụ thể: năm 2007 là 9%, năm 2008 là 7,1%, tháng 3/2009 là 6,0%. Tỷ lệ nợ xấu tuy vẫn dưới mức cho phép của NHNN nhưng lại có xu hương tăng dần qua các năm: năm 2007 là 1,5%, năm 2008 là 1,66%, tháng 3/2009 là 2,3%. Hơn nữa, việc xử lý nợ xấu, thu hồi lãi và gốc còn gặp nhiều khó khăn, nguy cơ gia hạn nợ và phát sinh nợ quá lớn, ngay cả đối với một số món nợ chưa đến hạn nhưng chất lượng tín dụng không cao. - Trong thời gian qua, do áp lực cạnh tranh và tạo ra lợi nhuận từ hoạt động tín dụng, các NHTM khi cho vay chỉ chú trọng đến tài sản thế chấp mà không phân tích 40 kỹ tính hiệu quả của phương án kinh doanh và kỹ năng, kinh nghiệm kinh doanh của khách hàng vay vốn cho nên có những khách hàng có phương án kinh doanh không hiệu quả vẫn được vay, điều này làm phát sinh nợ quá hạn. Còn những khách hàng có phương án kinh doanh hiệu quả, có kỹ năng, kinh nghiệm kinh doanh nhưng chưa có tài sản thế chấp thì bị bỏ qua, điều này sẽ làm mất khách hàng tiềm năng của NH. - Danh mục cho vay chưa thật đa dạng: hoạt động tín dụng là hoạt động truyền thống, mang lại thu nhập chủ yếu cho NHTM nên hiệu quả hoạt động kinh doanh của NH phụ thuộc nhiều vào hoạt động cho vay vốn là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro cho NH. 2.7 Những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng 2.7.1 Tác động của chính sách kinh tế vĩ mô (Chính phủ và NHNN) 2.7.1.1 Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi và sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương trong việc triển khai Sau hơn 10 năm ban hành, Luật NHNN Việt Nam, Luật các tổ chức tín dụng đã góp phần xây dựng khung pháp lý cho tổ chức và hoạt động của NHNN Việt Nam và các tổ chức tín dụng trong thời gian qua. Tuy nhiên, trước tình hình phát triển kinh tế với tốc độ khá nhanh, yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, đối phó với tình hình khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế ở nhiều nước trên thế giới, đến thời điểm hiện nay, hai Luật này đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập cần được sửa đổi, hoàn thiện như: trách nhiệm và thẩm quyền của NHNN trong điều hành các công cụ thực thi chính sách tiền tệ: Luật NHNN Việt Nam chưa trao đầy đủ thẩm quyền cho NHNN với tư cách là một Ngân hàng Trung ương do vậy đã phần nào hạn chế khả năng chủ động và tính linh hoạt của NHNN trong việc thực hiện các chức năng của một Ngân hàng Trung ương như các quy định liên quan đến cơ chế tài chính, cơ cấu tổ chức của NHNN. Việc điều hành thông qua cơ chế “hai giá ”, vừa duy trì lãi suất trần vừa áp dụng lãi suất thỏa thuận, tưởng chừng là lối thoát tài chính hợp lý cho các NHTM, nhưng vô hình trung đã nắn dòng chảy tín dụng ngày càng trở nên bất cập. Do sức hấp dẫn của chênh lệch lãi suất, vốn tín dụng tất yếu chảy dồn vào các kênh tiêu dùng, đáng kể nhất trong thời gian qua là bất động sản và chứng khoán. Đây là hai lĩnh vực nhạy cảm, cấu thành chính của bộ phận “kinh tế ảo”, có nguy cơ tạo ra nhiều cơn sốt bất thường một khi công tác quản lý Nhà nước thiếu chặt chẽ. Chiều hướng này đã tác động tiêu cực đến lĩnh vực trực tiếp sản xuất, bộ phận “kinh tế thực” phải 41 vật lộn với nhiều thử thách do ảnh hưởng suy giảm toàn cầu có nguy cơ đối diện với tình trạng khan hiếm vốn. Ngày 22/4/2005, NHNN đã ban hành quyết định 493/2005/QĐ-NHNN về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các TCTD, NHNN yêu cầu đến tháng 4/2008, các TCTD phải hoàn thành xây dựng và chính thức áp dụng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ theo điều 7 quyết định 493 nhưng đến nay nhiều NHTM vẫn chưa thực hiện mà vẫn phân loại nợ theo điều 6, điều này làm cho việc phân loại nợ không phản ánh đúng thực chất của nó. Điều này tạo ra một cuộc chơi thiếu công bằng giữa NHTM phân loại nợ theo điều 7, như ngân hàng đầu tư và phát triển (BIDV) chẳng hạn. 2.7.1.2 Công tác thống kê, dự báo còn hạn chế, cho nên những điều chỉnh trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN chưa theo kịp diễn biến của nền kinh tế và kết quả đạt chưa cao Năm 2007, dự báo về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ban đầu là 12 tỉ USD, sau tăng lên 16 tỉ, đến cuối năm dự đoán là 20 tỉ nhưng thực tế cuối cùng là 21 tỉ, NHNN phải mua vào số lượng lớn ngoại tệ là một trong những nguyên nhân khiến lạm phát tăng cao. Lúc này, NHNN phải áp dụng chính sách thắt chặt tiền tệ và NHNN khó để lường trước hết được những ảnh hưởng không tốt của chính sách này: - Đã đẩy các NHTM vào tình trạng khan vốn tiền đồng, tạo áp lực tăng lãi suất huy động khiến cho các doanh nghiệp, nhất là các DNV&N rất khó tiếp cận với nguồn vốn của tín dụng, làm tình hình kinh tế bị trì trệ, thất nghiệp tăng cao. Điều này làm cho các NHTM gặp rủi ro tín dụng tăng cao. - NHNN không lường hết những phản ứng phụ nảy sinh đối với một số NHTM đã sử dụng vốn vay trên thị trường liên ngân hàng để tăng trưởng dư nợ, chưa thực hiện đầy đủ quy định của NHNN về đảm bảo an toàn. 2.7.1.3 Rủi ro do sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của NHNN Hoạt động thanh tra, kiểm tra ngân hàng chưa có sự cải thiện căn bản về chất lượng; năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, đặc biệt một số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới thì một số Thanh tra ngân hàng còn chưa theo kịp. Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát lạc hậu, chậm được đổi mới. Thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát nội bộ thị trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu. Thanh tra ngân hàng còn hoạt động một cách thụ 42 động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh, ít khi có khả năng ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro và vi phạm. Hoạt động giám sát vẫn còn nhiều bất cập: phương pháp giám sát hiện đại về hình thức, song nội dung giám sát bị hạn chế do các chỉ tiêu giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu của chuẩn mực quốc tế, đội ngũ cán bộ mỏng và khả năng phân tích, đánh giá cũng như dự báo còn hạn chế; giám sát từ xa chưa gắn chặt với phân tích, xử lý thông tin; công khai tài chính còn xa với chuẩn mực quốc tế; hệ thống thông tin chưa đáp ứng được yêu cầu giám sát; kiểm toán nội bộ chưa phát huy được vai trò, trong nhiều trường hợp chỉ là hình thức để hợp lý hóa; việc giám sát các lĩnh vực mới (rửa tiền, thanh toán điện tử...) chưa được thực hiện; sự phối hợp đồng bộ giữa 3 bộ phận giám sát (từ xa, tại chỗ, xử phạt) chưa đạt được sự đồng bộ, đặc biệt là chưa bảo đảm được sự độc lập của cơ quan giám sát. 2.7.1.4 Rủi ro do hệ thống thông tin quản lý còn bất cập Hiện hệ thống TTTD ở nước ta bao gồm Trung tâm TTTD (CIC) thuộc NHNN và bộ phận thực hiện nghiệp vụ TTTD tại các chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đây là khối các tổ chức cung cấp TTTD thuộc khu vực công, trong đó vai trò quan trọng nhất vẫn là CIC (thành lập năm 1993 trên cơ sở tổ chức lại Trung tâm Phòng ngừa rủi ro thuộc Chi nhánh NHNN TP. HCM; đến năm 1999 được thành lập lại theo Quyết định của Thống đốc NHNN). CIC thu thập và cung cấp dịch vụ TTTD cho NHNN, các TCTD, tổ chức và cá nhân khác nhằm góp phần bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng, phục vụ công tác quản lý của NHNN, phòng ngừa, hạn chế RRTD và phát triển kinh tế - xã hội. Đến nay, CIC đã đưa ra được hơn 20 sản phẩm thông tin xung quanh hoạt động tín dụng. Trong đó, hai sản phẩm thông tin được xem là cần thiết và quan trọng nhất đối với các TCTD cũng như các tổ chức kinh tế khác, đó là xếp loại tín dụng doanh nghiệp và thông tin về các doanh nghiệp nước ngoài. Tuy nhiên, thông tin cung cấp còn đơn điệu, thiếu cập nhật, chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu tra cứu thông tin. Chẳng hạn như là: - Hệ thống cung cấp thông tin của CIC mới chỉ cung cấp được số liệu dư nợ và phân loại nợ vay của các doanh nghiệp tại các TCTD, chưa có thông tin phi tài chính, khả năng quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp. - Việc cung cấp thông tin còn chậm và chưa kịp thời làm ảnh hưởng đến cơ hội kinh doanh của các TCTD. 43 - Thông tin về khách hàng chưa được CIC cập nhật kịp thời. Đối với khách hàng chưa từng có quan hệ tín dụng với các TCTD nào thì CIC hoàn toàn không hề có thông tin gì về khách hàng. Các NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố cũng bố trí cán bộ và trang thiết bị kết nối với CIC. Các NHTM cũng xây dựng mạng lưới thu thập, cung cấp thông tin từ các chi nhánh về trung tâm điều hành và kết nối với CIC, xây dựng tổ chức bộ máy riêng thực hiện việc cung cấp TTTD gắn với việc thực hiện quản trị rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, việc xây dựng và phát triển hệ thống TTTD tại hầu hết các NHTM còn manh mún, thiếu tính liên kết và tinh thần hợp tác nên vẫn chưa thật hiệu quả và còn phụ thuộc vào CIC. Về cơ bản, hiện ở Việt Nam CIC vẫn là tổ chức chính thức và có thể nói là duy nhất thực hiện chức năng cung cấp TTTD cho nền kinh tế, trong đó chủ yếu tập trung vào các định chế tài chính trung gian. Thực tiễn cho thấy, sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, đặc biệt là quy mô tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế, đã vượt ra ngoài khả năng kiểm soát các rủi ro tín dụng và năng lực đáp ứng yêu cầu về mặt TTTD toàn diện, chất lượng và kịp thời của CIC. Đặc biệt, tốc độ tăng trưởng nhanh của tín dụng tiêu dùng, đặc biệt là thẻ tín dụng càng đòi hỏi về TTTD nhiều hơn, mà một cơ quan như CIC chưa thể đáp ứng đầy đủ được. 2.7.2 Nguyên nhân thuộc về các ngân hàng thương mại Để giảm rủi ro cho hoạt động tín dụng thì các NHTM phải thường xuyên thực hiện phân tích các khoản cho vay đã gây ra tổn thất cho ngân hàng nhằm rút ra bài học kinh nghiệm. Để phân tích chính xác nguyên nhân gây ra tổn thất, các NHTM phải thu thập đầy đủ thông tin về chính sách cho vay, chứng từ cho vay, cán bộ tín dụng giải quyết hồ sơ, tình hình biến động của khách hàng, quá trình kiểm tra giám sát vốn vay,…Sau đây là những trường hợp sai sót trong lĩnh vực tín dụng của các NHTM trên địa bàn Bình Phước : 2.7.2.1 Thông tin tín dụng không đầy đủ và chính xác Thông tin tín dụng đầy đủ và chính xác là yếu tố quyết định để đánh giá khả năng trả nợ và thiện chí trả nợ của người vay, đồng thời là cơ sở để mở rộng tín dụng. Trong hồ sơ tín dụng của khách hàng, các NHTM cần phải có các thông tin rõ ràng, đặc biệt là các báo cáo tài chính như: bảng cân đối kế toán, báo cáo thu nhập, báo cáo lưu chuyển tiền tệ,… Và thông tin tín dụng cũng cần minh chứng cụ thể mục đích, yêu cầu vay, kế hoạch dự định và nguồn chi trả, báo cáo tiến độ và giám sát. 44 Các DNV&N ở Bình Phước chiếm tỷ lệ lớn (trên 90%) và có đặc điểm chung là sổ sách kế toán còn mang tính đối phó với cơ quan thuế, thiếu sự minh bạch về thông tin tài chính, cho nên hầu như các NHTM bị thiếu thông tin khi thẩm định và khi ra quyết định cho vay, từ đó dẫn đến những quyết định cho vay sai lầm. 2.7.2.2 Lạm dụng tài sản thế chấp Do thiếu thông tin trung thực về khách hàng nên ngân hàng luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống RRTD. Tuy nhiên, dần dần ngân hàng trở nên dựa dẫm quá nhiều vào tài sản thế chấp, không đánh giá tính khả thi của phương án kinh doanh nên sẽ dễ dẫn đến tâm lý ỷ lại và khi ấy sẽ dễ mắc sai lầm chủ quan. Điều này rất nguy hiểm vì khoản vay cần được trả nợ bằng dòng tiền tạo ra bởi phương án sản xuất kinh doanh chứ không phải bằng tiền bán tài sản thế chấp. Tài sản thế chấp chỉ là sự đảm bảo cuối cùng khi phương án kinh doanh của khách hàng gặp rủi ro ngoài dự kiến mà thôi. Hơn nữa, nếu rủi ro xảy ra thì ngân hàng cũng sẽ gặp những khó khăn trong quá trình xử lý tài sản thế chấp để thu nợ, chẳng hạn như là: nếu không thỏa thuận được việc xử lý tài sản với chủ tài sản thì ngân hàng không thể tự xử lý được, việc bán tài sản đảm bảo cũng đòi hỏi ngân hàng thực hiện hàng loạt các thủ tục rườm rà, thực hiện chậm và thậm chí giá trị tài sản thanh lý sau cùng thu về có thể thấp hơn giá trị nợ phải thu hồi,… 2.7.2.3 Thiếu kiểm tra giám sát vốn vay Trong thời gian cho vay, cán bộ tín dụng cần thực hiện đầy đủ việc kiểm tra giám sát khoản vay để có thể nắm được những thay đổi trong hoạt động kinh doanh của khách hàng, việc sử dụng vốn vay của khách hàng có đúng mục đích hay không? tài sản đảm bảo có được quản lý tốt hay không? Để bảo đảm được khả năng hoàn trả nợ vay của khách hàng. Vì vậy, đây là trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Tuy nhiên, trong thời gian qua, các NHTM chưa thực hiện tốt công tác này, nguyên nhân là: - Mặc dù các NHTM có quy định rõ về việc kiểm tra giám sát sau khi cho vay nhưng vẫn còn lỏng lẻo trong việc kiểm soát sự tuân thủ của nhân viên tín dụng, vì thế các nhân viên tín dụng đã không thực hiện đầy đủ quy định này hoặc nếu có thực hiện thì cũng chỉ mang tính hình thức, đối phó. - Do tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng nên cán bộ tín dụng chưa quan tâm đúng mức đến công tác kiểm tra giám sát sau khi cho vay. 45 2.7.2.4 Sự lỏng lẻo trong công tác kiểm soát nội bộ ngân hàng Kiểm soát nội bộ ngân hàng là tổng thể hệ thống các văn bản và các quy định về Ngân hàng, các cơ chế kiểm soát được cài đặt trong tất cả các nghiệp vụ thuộc hệ điều hành của ngân hàng, hệ thống thông tin báo cáo để kiểm soát hoạt động quản lý, điều hành, tác nghiệp và đảm bảo tính tuân thủ nhằm hạn chế và kiểm soát rủi ro có thể phát sinh trong quy trình nghiệp vụ và hoạt động của ngân hàng. Kiểm soát nội bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời gian vì nó nhanh chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh. Kiểm soát nội bộ cần phải được xem như hệ thống “thắng” của cỗ xe tín dụng. Cỗ xe càng lao đi với vận tốc lớn thì hệ thống thắng này phải càng an toàn, hiệu quả thì mới tránh cho cỗ xe khỏi đi vào những ngã rẽ rủi ro vốn luôn luôn tồn tại thường trực trên con đường đi tới. Nếu làm tốt, công tác này sẽ trở thành lá chắn thứ nhất đảm bảo an toàn cho ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động kiểm soát nội bộ của các NHTM trong thời gian qua chưa theo kịp với tốc độ tăng trưởng tín dụng. Công tác này chưa thực hiện đúng nhiệm vụ của nó mà mang nặng tính hình thức. Các báo cáo kiểm soát nội bộ thường chỉ là tổng hợp, phân tích, thống kê các số liệu từ báo cáo của bộ phận tín dụng nên chưa thể hiện được tính độc lập, tính kiểm tra và cảnh báo của mình. Nguyên nhân là do lãnh đạo của các NHTM hầu như chưa thực sự chú trọng đến công tác này và do thiếu nhân sự có đủ trình độ chuyên môn để thực hiện. 2.7.2.5 Năng lực của đội ngũ cán bộ tín dụng còn hạn chế Trong năm 2007, do việc mở rộng quy mô nên các NHTM tuyển dụng lao động đa phần là từ nguồn cán bộ mới ra trường nên chưa đủ kinh nghiệm để thực hiện việc thẩm định cho vay, chưa nhận thức được đầy đủ về yêu cầu và tính phức tạp của công tác tín dụng trong môi trường mới. Họ chưa đáp ứng được những đòi hỏi của cơ chế thị trường, cũng như khả năng và trình độ đánh giá đúng hiệu quả và mức độ rủi ro của phương án, dự án còn yếu kém. Không nhận biết được những dấu hiệu rủi ro đôi khi xuất hiện ngay từ giai đoạn tiếp xúc khách hàng. Chưa chấp hành đầy đủ quy trình, quy chế nghiệp vụ tín dụng đã ban hành, công tác thẩm định không kỹ về các mặt. Hơn nữa, các NHTM chưa chú trọng nhiều vào việc đào tạo, bồi dưỡng, trao đổi kinh nghiệm, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho các cán bộ tín dụng 46 Ngoài nguyên nhân về năng lực chuyên môn thì vấn đề đạo đức của nhân viên tín dụng cũng là nguyên nhân gây rủi ro cho hoạt động tín dụng. Thực tế, nhiều món vay kém chất lượng, tồn đọng không có khả năng thu hồi và có nguy cơ mất trắng đều có nguyên nhân thẩm định sơ sài, hồ sơ có vấn đề, thiếu kiểm tra kiểm soát. Điều đó một phần là do năng lực của cán bộ liên quan, nhưng một phần không nhỏ gây nên tình trạng đó là một bộ phận cán bộ tín dụng, cán bộ thẩm định,…liên quan đến công tác cho vay bị sa sút về phẩm chất, đạo đức, thiếu trách nhiệm. 2.7.2.6 Rủi do do sự cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng chưa thực sự lành mạnh, việc chạy theo quy mô, bỏ qua các tiêu chuẩn, điều kiện trong cho vay, thiếu quan tâm đến chất lượng khoản vay Trong năm 2007, hầu hết các NHTM mở rộng và đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng, mở rộng mạng lưới, mở rộng cho vay tiêu dùng. Khi có càng nhiều ngân hàng, càng nhiều chi nhánh và phòng giao dịch được thành lập thì sự cạnh tranh trên thị trường càng trở nên gay gắt. Hậu quả của việc mở rộng quá mức mạng lưới chi nhánh, phòng giao dịch là sự tranh giành khách hàng, hạ tiêu chuẩn và các nguyên tắc thận trọng an toàn trong cùng một ngân hàng. Hơn nữa, tăng trưởng quá nhanh so với năng lực quản lý cũng là vấn đề hiện tại của các NHTM VN. Thực tế thời gian qua cho thấy mức độ tăng trưởng tài sản và dư nợ, số lượng chi nhánh của các NHTM VN cũng tăng trưởng quá mức, vượt tầm kiểm soát (vượt năng lực quản lý) của ngân hàng. Trong năm 2008, do NHNN thắt chặt chính sách tiền tệ nên đẩy các NHTM vào tình trạng thanh khoản yếu, nhất là các NHTMCP mới thành lập, do đó đã có một cuộc chạy đua lãi suất huy động không lành mạnh: lãi suất huy động ngắn hạn cao hơn lãi suất huy động dài hạn, lãi suất huy động gần chạm với trần lãi suất cho vay…mục đích là giữ chân người gửi tiền, điều này đã làm cho cả NHTM và các DN, người cần vốn tín dụng gặp rủi ro trong hoạt động của mình. 2.7.2.7 Sự hợp tác giữa các NHTM lỏng lẻo, vai trò của CIC chưa thực sự hiệu quả: Kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay hay nói cách khác đi vay để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là không thể tránh khỏi, các ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do nhu cầu quản lý rủi ro đối với cùng một khách hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều ngân hàng. Trong quản trị tài chính, khả năng trả nợ của một khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối đa của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin, dẫn đến việc nhiều ngân hàng cùng cho vay một khách hàng đến mức 47 vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không chừa một ngân hàng nào. Trong tình hình cạnh tranh giữa các NHTM ngày càng gay gắt như hiện nay, vai trò của CIC là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác để các ngân hàng có quyết định cho vay hợp lý. Đáng tiếc là hiện nay ngân hàng dữ liệu của CIC chưa đầy đủ và thông tin còn quá đơn điệu, chưa được cập nhật và xử lý kịp thời. 2.7.3 Nguyên nhân thuộc về khách hàng Ngoài các nhân tố chủ quan xuất phát từ phía ngân hàng, còn có nhân tố khách quan xuất phát từ phía khách hàng dẫn đến rủi ro tín dụng. Cụ thể như: 2.7.3.1 Do năng lực tài chính của khách hàng yếu kém Quy mô tài sản và nguồn vốn nhỏ, tỷ lệ nợ so với vốn tự có cao là đặc điểm chung của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và của Bình Phước nói riêng. Với năng lực tài chính như vậy nên để hoạt động được thì họ phải dựa vào số vốn vay ngân hàng, tỷ trọng vốn tự có tham gia vào dự án kinh doanh không đáng kể. Cho nên mọi thua lỗ, rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp sẽ tác động ngay tới ngân hàng, nếu doanh nghiệp bị thua lỗ, phá sản thì ngân hàng có nguy cơ mất vốn. Ngoài ra, các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho các NHTM khi đề nghị vay vốn nhiều khi mang tính chất hình thức hơn thực chất. Và hiện nay chưa có bất cứ chế tài nào buộc các doanh nghiệp phải kiểm toán báo cáo tài chính của mình nên sổ sách kế toán của DN làm NH không đủ tin tưởng để căn cứ vào đó quyết định cho vay. Đây cũng là nguyên nhân vì sao các NHTM vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng. 2.7.3.2 Do năng lực quản trị điều hành kinh doanh yếu kém Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Trong khi năng lực quản trị điều hành kinh doanh của người quản lý doanh nghiệp còn yếu kém là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế. 2.7.3.3 Do sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trả nợ 48 Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Để đảm bảo khả năng trả nợ theo như kế hoạch kinh doanh đã thẩm định thì đòi hỏi doanh nghiệp phải sử dụng nguồn vốn đã giải ngân vào đúng mục đích kinh doanh đã giải trình thì mới đảm bảo vòng quay vốn và dòng tiền về đúng hạn trả nợ. Tuy nhiên, trong thực tế nhiều khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích. Điều này rất nguy hiểm, sẽ ảnh hưởng đến dòng tiền của doanh nghiệp và làm ảnh hưởng đến khả năng trả nợ vay cho ngân hàng, hệ quả là dẫn đến phát sinh nợ xấu. Thậm chí có cả trường hợp là sau khi kết thúc chu kỳ kinh doanh, mặc dù có lợi nhuận nhưng khách hàng vẫn cố tình chây ỳ, không chịu trả nợ nhằm mục đích chiếm dụng vốn NH và điều này đã gây khó khăn trong quá trình thu hồi nợ. 2.7.3.4 Do khách hàng gian lận Gian lận liên quan đến báo cáo tài chính hoặc gian lận kế toán: hình thức gian lận này xảy ra khi một công ty cố tình khai man các số liệu trên báo cáo tài chính. Gian lận liên quan đến tài sản đảm bảo: hình thức gian lận này xảy ra khi bên đi vay cố tình khai man về sự tồn tại của tài sản đảm bảo cho khoản vay như: một tài sản được đem thế chấp tại nhiều ngân hàng khác nhau, dùng tài sản không thuộc sở hữu của mình để thế chấp, vay vốn,…. Gian lận liên quan đến việc ngụy tạo uy tín để lợi dụng vay tiền như: tạo cơ sở niềm tin ban đầu với ngân hàng bằng việc trả vốn và lãi đầy đủ trong những lần vay vốn đầu tiên với số tiền nhỏ và khi đã tạo được tín nhiệm mới tìm cách vay những khoản lớn hoặc tạo ra các dự án khống để vay khoản tiền lớn và trốn chạy hay móc nối, hối lộ cán bộ ngân hàng để vay được tiền, trì hoãn nợ,… 2.7.4 Nguyên nhân khách quan Ngoài các nguyên nhân chính từ phía ngân hàng và khách hàng, không thể không kể đến một số tác động khác gây rủi ro cho hoạt động tín dụng đến từ môi trường kinh tế bên ngoài. Cụ thể là: 2.7.4.1 Rủi ro do sự thay đổi của môi trường tự nhiên như: thiên tai, dịch bệnh, bão lụt gây tổn thất cho khách hàng vay vốn kinh doanh. Bình Phước là tỉnh nông nghiệp với thế mạnh về các mặt hàng nông sản như: cao su, tiêu, điều,… và có tỷ trọng xuất khẩu cao hàng năm. Đặc điểm của ngành nghề này là rất nhạy cảm với sự thay đổi của thời tiết và dịch bệnh. Các hộ gia đình, các doanh nghiệp vay vốn tại các NHTM để kinh doanh nông sản, chăn nuôi gia 49 cầm, gia súc…bị ảnh hưởng bởi thiên tai, dịch bệnh đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc trả nợ vay. 2.7.4.2 Rủi ro do sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế giới. Trong năm 2008 vừa qua

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfRủi ro tín dụng và giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Bình Phước.pdf
Tài liệu liên quan