LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA VẤN ĐỀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI CÔNG BẰNG TRONG PHÂN PHỐI THU NHẬP 2
I. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng 2
1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế về công bằng và phân phối thu nhập 2
1.1. Khái niệm và bản chất của tăng trưởng kinh tế 2
1.2. Quan niệm về công bằng dưới góc độ kinh tế 3
2. Các thước đo bất bình đẳng về phân phối thu nhập: 4
2.1. Đường cong Lorenz 4
2.2. Hệ số GINI 5
3. Thực chất của mối quan hệ giữa tăng trưởng với công bằng trong phân phối thu nhập 5
3.1 Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với việc đáp ứng mức độ phúc lợi cho con người 6
3.2 Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với bất bình đẳng và tốc độ giảm nghèo 7
II. Quan điểm giải quyết vấn đề công bằng về thu nhập trong quá trình phát triển 7
1. Mô hình chữ U ngược của Simon Kuznets 7
2. Mô hình tăng trưởng trước, bình đẳng sau của A.Lewis 8
3. Mô hình tăng trưởng đi đôi với bình đẳng của H.Oshima 9
4. Mô hình phân phối lại cùng với tăng trưởng kinh tế (của ngân hàng thế giới WB) 10
III. Nguyên nhân của tình trạng bất bình đẳng trong quá trình phát triển 11
1. Nguyên nhân khách quan: sự điều tiết của thị trường 11
2. Nguyên nhân chủ quan: các chính sách, công cụ điều tiết của Nhà nước 12
IV. Tại sao cần phải quan tâm đến vấn đề bất bình đẳng trong quá trình phát triển 13
1. Bất bình đẳng gia tăng dẫn đến sự gia tăng về nghèo đói 13
2. Bất bình đẳng làm gia tăng sự bất công về cơ hội giữa các thế hệ về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội 13
3. Bất bình đẳng dẫn đến sự bất ổn định về mặt chính trị của quốc gia 14
4. Bất bình đẳng dẫn đến cản trở sự đầu tư cho giáo dục 14
V. Kinh nghiệm thực tế của các quốc gia trong việc giải quyết vấn đề bất bình đẳng 15
1. Tăng trưởng đi đôi với bất bình đẳng ở Brasil 15
2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và bình đẳng ở Hàn Quốc 15
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ BẤT BÌNH ĐẲNG Ở VIỆT NAM 17
I. Thực trạng tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng ở Việt Nam 17
1. Thập niên 1990 – 2002 17
2. Giai đoạn 2002 – nay: giai đoạn tăng trưởng mới, đi vào hội nhập 22
II. Đánh giá chung về tăng trưởng kinh tế kết hợp với công bằng và tiến bộ xã hội ở Việt Nam 25
CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG VỀ GIẢI PHÁP TĂNG TRƯỞNG ĐI ĐÔI VỚI CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 27
1. Tạo ra sự tăng trưởng đồng đều giữa các vùng, các ngành và các thành phần kinh tế 27
2. Thực hiện chính sách đầu tư phát triển, chính sách tín dụng, tăng cường vốn cho các địa phương gặp nhiều khó khăn. 27
3. Thực hiện các chính sách đầu tư về vốn và người đảm bảo người nghèo được hưởng lợi ích từ các dịch vụ công như giáo dục, y tế, cơ sở hạ tầng 28
4. Tăng cường hệ thống an sinh xã hội 29
5. Chống tham nhũng và buôn lậu 29
6. Nâng cao chất lượng công tác hoạch định chính sách và tăng cường sự tham gia của người dân vào công tấc kế hoạch hóa 30
7. Tiếp tục đẩy nhanh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế 30
KẾT LUẬN 31
35 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2672 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
từ đặc điểm sản xuất nông nghiệp Châu Á, đó là sản xuất lúa nước có tính thời vụ cao và cho rằng quá trình tăng trưởng cần được bắt đầu từ khu vực nông nghiệp. Chính quá trình này sẽ dẫn đến hạn chế sự bất bình đẳng trong quá trình tăng trưởng. Theo Oshima, trước hết khoảng cách thu nhập giữa nông thôn và thành thị sẽ được cải thiện ngay từ giai đoạn đầu, do việc tập trung phát triển khu vực nông thôn dựa trên chính sách cải cách ruộng đất, dựa trên sự trợ giúp của Nhà nước về giống, kĩ thuật, đồng thời việc mở rộng và phát triển ngành nghề đã làm cho thu nhập ở khu vực nông thôn (vốn là khu vực có thu nhập thấp nhất trong xã hội) được tăng dần. Tiếp đó là quá trình cải thiện dần khoảng cách thu nhập giữa xí nghiệp có quy mô lớn và xí nghiệp quy mô nhỏ ở thành thị, cũng như giữa nông trại lớn và nông trại nhỏ ở nông thôn. Quá trình này có thể chia làm hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, khoảng cách thu nhập tăng lên do các cơ sở sản xuất lớn tận dụng được lợi thế về quy mô và có điều kiện áp dụng kỹ thuật mới. Sau đó, do lợi ích của cơ sở hạ tầng và khả năng áp dụng kĩ thuật mới tăng lên ở các cơ sở nhỏ, làm cho khoảng cách về thu nhập giảm dần. Vậy điều này có tác động như thế nào đến tăng trưởng? Theo Oshima, tiết kiệm sẽ tăng lên ở các nhóm dân cư, kể cả các nhóm có thu nhập thấp nhất, vì thu nhập ở họ dần dần thỏa mãn được các khoản chi và khi đó họ bắt đầu tiết kiệm để trả nợ các khoản vay đầu tư trước đó và tiếp tục đầu tư phát triển sản xuất và đầu tư giáo dục đào tạo cho con em họ.
4. Mô hình phân phối lại cùng với tăng trưởng kinh tế (của ngân hàng thế giới WB)
Phân phối lại cùng với tăng trưởng kinh tế là cách thức phân phối lại các thành quả của tăng trưởng kinh tế sao cho cùng với thời gian, phân phối thu nhập dần dần được cải thiện hoặc ít nhất là không xấu đi trong khi quá trình tăng trưởng vẫn tiếp tục. Điều này tùy thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó sự lựa chọn các giải pháp chính sách phân phối lại tài sản (của cải) và chính sách phân phối lại từ tăng trưởng.
Cần phải có những chính sách phân phối lại tài sản là vì: theo phân tích của WB, nguyên nhân cơ bản của tình trạng bất công trong phân phối thu nhập của các cá nhân ở hầu hết các nước đang phát triển là do sự bất công trong vấn đề sở hữu tài sản. Lý do chính vì sao gần 20% dân số nhận được hơn 50% thu nhập là vì 20% này có thể đã sở hữu và kiểm soát trên 70% các nguồn lực sản xuất, đặc biệt là vốn vật chất, đất đai, thậm chí cả vốn nguồn lực (dưới hình thức học vấn cao). Chính sách đã được áp dụng phổ biến ở các nước đang phát triển để phân phối lại tài sản là chính sách cải cách ruộng đất, chính sách nhằm tăng cường cơ hội giáo dục cho nhiều người. Tuy nhiên trong thực tế, các chính sách nói trên như chính sách cải cách ruộng đát chỉ thực sự là công cụ có tác động đối với phân phối lại thu nhập khi có sự kết hợp với các chính sách tín dụng nông nghiệp nông thôn, chính sách tiêu thụ nông sản, chính sách công nghệ.
III. Nguyên nhân của tình trạng bất bình đẳng trong quá trình phát triển
1. Nguyên nhân khách quan: sự điều tiết của thị trường
Trong một nền kinh tế thị trường thuần tuý, thu nhập được quyết định bởi những nguồn tài nguyên thanh toán mà các cá nhân và hộ gia đình nhận được trên thị trường các nguồn tài nguyên. Mức lương, lãi suất, tiền thuê và lợi nhuận nhận được được quyết định bởi giá các nguồn tài nguyên trên thị trường và số lượng các nguồn tài nguyên được sở hữu bởi các cá nhân và hộ gia đình. Những hộ gia đình này cùng với những loại hàng hoá có giá trị cao nhất nhận được thu nhập cao nhất. Số lượng đất đai, vốn và nhân lực (ở mức độ nào đó), một phần được quyết định bởi thu nhập nhận được do các thế hệ trong quá khứ của gia đình. Hệ thống quyết định thu nhập này có thể dẫn tới một sự phân phối thu nhập hoàn toàn bất bình đẳng.
Để đánh giá ảnh hưởng của tăng trưởng kinh tế đến việc cải thiện đời sống vất chất cho dân cư cần nghiên cứu phân phối thu nhập để biết được các cá nhân có được thu nhập là bao nhiêu và nguồn gốc để tạo ra thu nhập là từ đâu? Để phục vụ cho mục đích trên các nhà kinh tế thường quan tâm đến phân phối thu nhập theo chức năng và phân phối lại thu nhập.
Phân phối thu nhập (phân phối lần đầu) được xác định chủ yếu dựa vào quyền sở hữu các yếu tố sản xuất và vai trò của từng yếu tố trong quá trình sản xuất. Do vậy, phân phối theo chức năng có vai trò quan trọng vì nó được coi là nguyên nhân dẫn đến mức độ phúc lợi khác nhau giữa các nhóm dân. Điều này được thể hiện ở hình 3.
Hình 3: Phân phối thu nhập theo chức năng và thu nhập cá nhân
(hộ gia đình)
Sản xuấtt
Tiền lương
Tiền thuê
Lợi nhuận
Hộ gia đình 1
Hộ gia đình 2
Hộ gia đình 3
Hộ gia đình 4
Trong hình nêu trên, hộ gia đình chỉ có sức lao động (hộ gia đình 3) sẽ chỉ nhận được thu nhập bằng tiền lương; còn hộ gia đình có cổ phần trong doanh nghiệp, có đất đai cho thuê và có sức lao động (hộ gia đình 2) sẽ nhận được thu nhập từ tất cả các yếu tố.
Phương thức phân phối lại thu nhập là sự phân phối tiến hành sau phân phối ban đầu nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu về nhiều mặt của xã hội và điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư. Phân phối lại thu nhập được tiến hành chủ yếu thông qua các chính sách và biện pháp của Chính phủ như: ngân sách nhà nước, tín dụng, lãi suất, thuế, giá cả, tiền lương, dịch vụ có thu tiền...Phân phối lại thu nhập nhằm mục đích duy trì bộ máy nhà nước, điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư để bảo đảm công bằng xã hội, góp phần mở rộng và phát triển nền sản xuất, mở rộng phúc lợi xã hội, cũng như tăng mức thu nhập và tiêu dùng thực tế của nhân dân.
2. Nguyên nhân chủ quan: các chính sách, công cụ điều tiết của Nhà nước
Các chính sách về giáo dục, chính sách đầu tư cho giáo dục của Nhà
nước. Sự phân bổ vốn cho giáo dục tạo ra sự khác nhau giữa các nhóm dân số. Người nghèo khó tiếp cận các nguồn vốn đầu tư hơn người giàu và mất đi cơ hội đầu tư lẽ ra có thể mang lại lợi suất cao hơn. Chi phí giao dịch làm nản lòng và không tạo kích thích cho người nghèo đầu tư kể cả đầu tư vào vốn con người. Hệ quả là bất bình đẳng về phân phối thu nhập không giảm, mà về dài hạn còn bất lợi cho tăng trưởng. Thực tế về mối quan hệ giữa nghèo đói, khía cạnh phân phối và tăng trưởng đã làm cho vai trò của chính sách xã hội đối với quá trình tăng trưởng ngày càng trở nên quan trọng hơn.
Trong một phân tích, 20 nước có thu nhập trung bình trong giai đoạn 1972 – 1992 cho thấy: để duy trì tốc độ tăng trưởng Brasil đã thực hiện chính sách ưu đãi trong một thời gian dài thông qua tài trợ trực tiếp từ ngân sách cho các đầu tư trong và ngoài nước, trợ giá, ưu đãi thuế, tín dụng. Đầu tư cho ngân sách giáo dục thì lại chỉ chú trọng giáo dục ĐH và CĐ, thiếu đầu tư cho giáo dục trung học và tiểu học. Ngân sách Nhà nước luôn trong tình trạng căng thẳng, nguồn lực dành cho giáo dục, y tế và khu vực xã hội thấp. Đó chính là nguyên nhân của bất bình đẳng về phân phối thu nhập và phân phối cơ hội ở Brasil rất cao. Tương đối trái ngược với Brasil, Chính phủ Hàn Quốc thực hiện sự hỗ trợ có chọn lọc. Đồng thời, Chính phủ ưu tiên đầu tư nhiều hơn cho giáo dục và ngân sách công cho giáo dục được ưu tiên cho giáo dục cơ bản. Nhờ đó, Hàn Quốc khá thành công trong phát triển nguồn nhân lực và hệ số GINI về giáo dục hay sự bất bình đẳng trong giáo dục đã giảm nhanh chóng và tăng trưởng thực sự đi đôi với giảm nghèo.
IV. Tại sao cần phải quan tâm đến vấn đề bất bình đẳng trong quá trình phát triển
1. Bất bình đẳng gia tăng dẫn đến sự gia tăng về nghèo đói
Trong một thế giới của sự phát triển khoa học kỹ thuật ngày càng tăng, khi mà xã hội lẽ ra phải đang được hưởng những lợi ích từ sự đi lên của kinh tế, thì nhiều nước đang phải đối mặt với tình trạng mà trong đó sự chênh lệch giữa người giàu và người nghèo "đang gia tăng với tốc độ đáng báo động". Mục tiêu của sự tăng trưởng kinh tế là đem đến một cuộc sống no đủ cho mọi người dân. Giảm tỷ lệ nghèo đói, nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người trên toàn thế giới. Tuy nhiên, khi tăng trưởng kinh tế đi cùng với bất bình đẳng sẽ khiến cho nghèo đói giảm chậm, và khi bất bình đẳng tăng lên sự gắn kết xã hội giảm đi, người nghèo bị tụt hậu bị xa lánh.“Công bằng giúp chúng ta theo đuổi mục tiêu thịnh vượng lâu dài” Francois Bourguignon, chuyên gia kinh tế, đồng thời là Phó Chủ tịch Kinh tế học Phát triển của Ngân hàng Thế giới, đã phát biểu như vậy. “Sự công bằng tăng lên sẽ đem lại lợi ích kép cho xóa đói giảm nghèo. Công bằng giúp làm cho phát triển toàn diện bền vững, và nó đem lại nhiều cơ hội hơn cho những nhóm nghèo nhất trong xã hội.”
Công bằng khuyến khích đầu tư nhiều hơn và hiệu quả hơn dẫn đến tăng trưởng nhanh hơn. Hố sâu ngăn cách của sự bất bình đẳng trong giàu nghèo và trong cơ hội, kể cả trong nội bộ giữa các quốc gia đã góp phần dẫn đến sự nghèo khổ cùng cực kéo dài dai dẳng đối với một bộ phận lớn dân số. Điều này làm lãng phí tiềm năng con người và trong nhiều trường hợp có thể làm chậm lại tốc độ tăng trưởng kinh tế bền vững.
2. Bất bình đẳng làm gia tăng sự bất công về cơ hội giữa các thế hệ về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội
Bất bình đẳng về cơ hội là sự khác biệt về cơ hội xuất phát từ các yếu tố về màu da giới tính, nhóm xã hội, nơi sinh, nghề nghiệp, học vấn của cha mẹ - các yếu tố được định trước và không thể thay đổi. Bất bình đẳng về cơ hội là nguy cơ dẫn đến sự lãng phí tiềm năng con người và có thể làm giảm mức phát triển. Đôi khi một số đứa trẻ có năng lực tốt không có điều kiện học hết tiểu học nhưng nhiều đứa trẻ khác năng lực kém hơn lại tốt nghiệp đại
học. Bất bình đẳng về cơ hội cũng gây ảnh hưởng xấu đến các thể chế kinh tế, chính trị, xã hội đang có. Vậy tại sao bất bình đẳng về cơ hội vẫn tồn tại dai dẳng? Tại sao những bất bình đẳng đó cứ tái diễn mãi? Câu trả lời ngắn gọn là hệ thống chính trị không phải lúc nào cũng coi trọng các cá nhân như nhau. Chính sách và thể chế không sinh ra từ một nhà lập kế hoạch xã hội tốt bụng, người mong muốn tối đa hóa giá trị hiện tại của phúc lợi xã hội. Chúng là kết quả của quá trình kinh tế chính trị trong đó các nhóm khác nhau tìm cách bảo vệ lợi ích của chính mình. Do đó, bất bình đẳng về cơ hội tiếp tục truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Con cái nhà nghèo và địa vị thấp kém được hưởng ít hơn cơ hội về giáo dục, y tế, thu nhập và địa vị.
3. Bất bình đẳng dẫn đến sự bất ổn định về mặt chính trị của quốc gia
Ngày nay, thế giới đang phải gánh chịu sự bất bình đẳng về kinh tế gay gắt. Hai cực giàu nghèo càng ngày càng doãng rộng ra thêm, đồng thời càng thúc đẩy sự chống đối. Sự phân hóa giàu nghèo và sự bất công xã hội gia tăng đã gây nên nỗi bất bình chính đáng ở các nước và các tầng lớp nhân dân nghèo khổ. Sự chống đối ngày càng quyết liệt không chỉ ở các nước đang phát triển, mà còn xảy ra ngay cả trong các nước phát triển phương Tây. Ở Mỹ, vấn đề bất công xã hội ngày càng chiếm phần lớn thời gian của các cuộc tranh luận chính trị. Do Mỹ có khả năng to lớn trong việc truyền bá những tình thế tiến thoái lưỡng nan của mình ra cả thế giới, nỗi lo về sự bất bình đẳng của Mỹ đã lan toả sang những quốc gia nơi mà sự bất công không có sự thay đổi nhiều.
Bất bình đẳng sẽ mang đến những rủi ro về mặt chính trị. Nếu có bất công và đối xử không công bằng trong quá trình tăng trưởng, thì xã hội sẽ mất ổn định và sự ổn định về chính trị sẽ bị đe dọa. Chỉ cần bật tivi hoặc xem một tờ báo là có thể ý thức được vị trí của mình trong trật tự thứ bậc kinh tế toàn cầu. Sự lo lắng về bất bình đẳng càng tăng thêm do nỗi sợ hãi khủng bố hoặc bùng nổ nhập cư trái phép; trong cả hai trường hợp, sự không công bằng có thể cuối cùng sẽ dẫn tới mối đe doạ trực tiếp đối với sự sống còn. Nguy hiểm hơn nó có thể dẫn tới sự bất ổn định về mặt xã hội trên toàn thế giới. Khi đó tất cả mọi người trong chúng ta đều phải trả giá.
4. Bất bình đẳng dẫn đến cản trở sự đầu tư cho giáo dục
Các chính sách về giáo dục, chính sách đầu tư cho giáo dục của Nhà
nước. Sự phân bổ vốn cho giáo dục tạo ra sự khác nhau giữa các nhóm dân số. Người nghèo khó tiếp cận các nguồn vốn đầu tư hơn người giàu và mất đi cơ hội đầu tư lẽ ra có thể mang lại lợi suất cao hơn. Chi phí giao dịch làm nản lòng và không tạo kích thích cho người nghèo đầu tư kể cả đầu tư vào vốn con người. Những người nghèo không có đủ chi phí để thỏa mãn tất cả các nhu cầu của cuộc sống, thu nhập của họ chỉ để dành cho chi trả những nhu cầu tối thiểu như ăn, mặc, ở, đi lại. Thậm chí những nhu cầu đó cũng chỉ đáp ứng được một phần. Họ không còn có cơ hội đầu tư cho giáo dục, con đường ngắn nhất giúp họ thoát khỏi nghèo đói cùng cực. Bất bình đẳng trong giáo dục sẽ càng làm sâu thêm mối bất bình đẳng giàu nghèo, đồng thời ngăn cản những thế hệ sau có thể đạt đến một tương lai sang lạn, gây ra sự lãng phí về tiềm năng con người cho sự phát triển đối với chính bản thân người nghèo cũng như đối với toàn xã hội.
V. Kinh nghiệm thực tế của các quốc gia trong việc giải quyết vấn đề bất bình đẳng
1. Tăng trưởng đi đôi với bất bình đẳng ở Brasil
Dù là một nước lớn với những nguồn tài nguyên phong phú và một nền kinh tế khá mạnh, Brasil hiện vẫn có hơn 22 triệu người sống dưới mức nghèo khổ. Gộp cả những người sống trong tình trạng khá nghèo (có thu nhập không đủ cho những nhu cầu cơ bản), con số này có thể lên tới hơn 53 triệu người (khoảng 30% dân số). Đây là vấn đề đáng báo động, và nó góp phần vào sự bất bình đẳng kinh tế của đất nước, nước này được coi là đứng hàng đầu thế giới theo hệ số Gini. (GINI = 0.6)
Nỗ lực gần đây nhất nhằm giảm nhẹ tình trạng này đang được tổng thống đương nhiệm Luiz Inacio Lula da Silva thử nghiệm. Ông đã đề xuất một chương trình loại trừ nạn đói (Fome Zero)và tăng ngân sách dành cho các chương trình phân phối công bằng từng được đưa ra trước đó, nhưng có nhiều tranh cãi về hiệu quả thực sự của những chương trình này.
2. Mối quan hệ giữa tăng trưởng và bình đẳng ở Hàn Quốc
Những năm 1960, bức tranh nông nghiệp Hàn Quốc khá ảm đạm với những cánh đồng khô cằn, hiệu quả kinh tế thấp. Nguyên nhân của tình trạng trì trệ này là do việc sản xuất dựa trên kinh nghiệm là chính khiến lợi tức thấp, nông dân không có khả năng tái đầu tư nên tiếp tục rơi vào vòng luẩn quẩn đói nghèo. Trước tình trạng này, Chính phủ quyết định phá vỡ sự bế tắc đó bằng cách thực hiện biện pháp “hai mũi giáp công đồng bộ”: đưa kỹ thuật sản xuất mới (giống mới, phân bón và nông dược, cung cấp tín dụng đầy đủ và xác định giá nông sản nâng đỡ cho nhà nông); thay đổi cơ chế chính sách nông nghiệp (cải cách ruộng đất để mọi nông dân đều có đất canh tác, đồng thời ban hành Luật hợp tác xã và xây dựng hợp tác xã nông nghiệp đa mục tiêu khuyến khích nông dân tham gia).
Hợp tác xã nông nghiệp đa mục tiêu của Hàn Quốc có nhiệm vụ hướng dẫn và đào tạo kỹ năng sản xuất cho bà con; cung cấp các phương tiện cần thiết cho an sinh xã hội; làm dịch vụ tiêu thụ sản phẩm và cung cấp vật tư nông nghiệp cho xã viên từ đồng ruộng đến chợ hàng hoá (bao gồm sản xuất, chế biến và bán ra thị trường); dịch vụ ngân hàng và bảo hiểm (bao gồm kinh doanh tài chính nông nghiệp, tín dụng và tiết kiệm của các hợp tác xã nông nghiệp thành viên); dịch vụ về chăn nuôi các loại gia súc, gia cầm, từ sản xuất, chế biến và tiêu thụ.
Tại từng làng bản, các tổ chức cộng đồng được nông dân thành lập. Các lãnh đạo dân bầu dân chủ thực sự nắm quyền tổ chức mọi hoạt động phát triển, từ xây dựng cơ sở hạ tầng đến tổ chức khuyến nông. Họ nắm tiền nhà nước và huy động dân cùng đầu tư xây dựng nông thôn. Lãnh đạo của nông dân tham gia các cuộc họp Chính Phủ. Tổng thống đi hết từng làng bàn bạc và khuyến khích dân tự chủ. Nhân dân tổ chức đánh giá và công khai kết quả phong trào. Làng nào làm tốt mới được đầu tư tiếp.
Sau 30 năm thực hiện, những nông dân đói nghèo trở nên tự tin. Khu vực nông thôn trở thành xã hội năng động, có khả năng tự tích luỹ, tự đầu tư, và nhờ đó mà có khả năng tự phát triển. Điều này đã “vực” nền nông nghiệp Hàn Quốc từ yếu ớt trở nên ổn định.
Bài học của Hàn Quốc rất gần gũi với Việt Nam cả về địa lý và hoàn cảnh khi Việt Nam đang tăng tốc công nghiệp hóa. Với đóng góp của nông nghiệp trong tổng GDP chỉ hơn 20% mà còn tới gần 70% dân số và lao động tắc lại nông thôn, từ mức thu nhập bình quân hiện nay khoảng 800 USD/người, mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam căn bản trở thành một nước công nghiệp là vô cùng khó khăn. Chạy theo mục tiêu tăng trưởng vội bằng mọi giá thì “tam nông” sẽ trở thành quả tạ lớn phá tan quá trình cất cánh công nghiệp hóa, nhưng khôn khéo, hài hòa gắn công nghiệp với nông nghiệp, nông thôn với đô thị thì “tam nông” lại chuyển thành động lực tăng tốc đem lại cả thành công về chính trị, kinh tế và môi trường cho một đất nước Việt Nam bay lên.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ BẤT BÌNH ĐẲNG
Ở VIỆT NAM
I. Thực trạng tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng ở Việt Nam
1. Thập niên 1990 – 2002
Do sự khởi đầu mạnh mẽ của công cuộc đổi mới, Việt Nam đã có được những thành công đáng kể về mặt phát triển và tăng trưởng kinh tế. Với tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 7% trong cả giai đoạn, Việt Nam là một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới. Cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á và dịch SARS cũng không chấm dứt được thành tựu nổi bật này cho dù tốc độ tăng trưởng kinh tế đầu những năm 1990 không quá cao. Trong cả giai đoạn, tốc độ tăng dân số đã giảm đáng kể nên tốc độ tăng trưởng thu nhập đầu người trung bình trong cả giai đoạn là 5%. Ngoài ra, chỉ số HDI cũng tăng lên cho thấy những dấu hiệu phát triển tích cực.
Bảng 2: Các chỉ số tăng trưởng và phát triển của Việt Nam từ 1980- 2001
Các chỉ số
1980-1986
1987-1991
1992-1997
1988-2001
1987-2001
Tăng trưởng GDP thực tế hàng năm (%)
4.88
5.05
8.77
6.04
6.8
Tốc độ tăng dân số hàng năm (%)
2.2
1.9
1.9
1.5
1.8
Tăng trường GDP theo đầu người (%)
2.66
3.15
6.87
4.54
5
GDP đầu người tính theo sức mua tương đương và giá cố định năm 1996 (nghìn VND)
1045,986 (1984)
1190,056 (1990)
1521,767 (1995)
1957,481 (1999)
Dân số (triệu người)
54 (1980)
66 (1990)
72 (1995)
78 (2000)
HDI
0,582 (1985)
0.603 (1990)
0.646 (1995)
0.688 (2000)
Nguồn: Tổng cục Thống kê, cơ sở dự liệu tăng trưởng vì người nghèo của Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng thế giới (2003) và UNDP
Từ năm 1998, một giai đoạn tăng trưởng mới đã bắt đầu trong đó tận dụng nguồn nội lực cho tăng trưởng là chủ yếu trong khi việc tự do hoá khu vực đối ngoại vẫn tiếp diễn. Việt Nam đã ra nhập khu vực tự do mậu dịch của ASEAN (AFTA) năm 1995, trở thành thành viên chính thức của diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC) năm 1998, ký hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ vào tháng 12/2001.
Bảng 3 : Các chỉ số về nghèo ở Việt Nam giai đoạn 1990 – 2002
Các chỉ số về nghèo và bất bình đẳng (%)
1990
1993
1998
2002
Tỷ lệ nghèo quốc gia (GSO)
65
58.1
37.4
28.9
Tỷ lệ nghèo lương thực (GSO)
24.9
15.0
10.9
Chênh lệch nghèo (GSO)
18.5
9.5
6.9
Chênh lệch nghèo bình phương
8.3
3.6
2.6
Tỷ lệ nghèo của Bộ LĐ-TB-XH (cả nước)
25
16
12.4
Tỷ lệ 1$/ngày theo quốc tế
50.8
39.9
16.4
13.6
Tỷ lệ 2$/ngày theo quốc tế
87
80.5
65.4
58.2
Nguồn: Ngân hàng thế giới (2003), Uỷ ban lãnh đạo của CPRGS (2003) và MPI
Bảng 3 cho thấy công cuộc đổi mới đã mang lại kết quả khá ấn tượng cho việc giảm nghèo ở Việt Nam. Dù chuẩn nghèo nào được áp dụng thì tất cả các số liệu trên đều cho thấy là sau khi thực hiện các cải cách kinh tế, tỷ lệ nghèo của Việt Nam đã giảm hơn một nửa chỉ trong một thập kỷ. Mức độ và sự nghiêm trọng của tình trạng nghèo thậm chí còn giảm xuống nhanh hơn.
Sự giảm nghèo của ở các nước đang phát triển khác trên thế giới gần như không thể so sánh với Việt Nam (nghiên cứu của Ngân hàng thế giới 2003). Thành tựu này không hề bị giảm sút ngay cả khi so sánh với các nước Châu Á khác, mà còn cho thấy mức độ cần thiết của sự cải thiện nhanh chóng lạ thường này nếu Việt Nam muốn bắt kịp với các nước láng giềng. Ví dụ, Trung Quốc đã giảm tỷ lệ nghèo tuyệt đối (được tính bằng thu nhập bình quân $1/ngày) từ 32% năm 1990 xuống còn khoảng 2% năm 1999; trong khi Thái Lan giảm từ 11% năm 1985 xuống còn khoảng 2% và Malaysia đã xoá bỏ nghèo sau khi giảm từ mức khá thấp 5,6% năm 1989 xuống mức thấp kỷ lục là 1% năm 1995. Tỷ lệ nghèo ở Lào là gần nhất so với Việt Nam với lần đầu đạt mức 26.3% vào năm 2001.
Bảng 4 : Các chỉ số về sự bất bình đẳng ở Việt Nam giai đoạn 1993 – 2002
CHỈ SỐ BẤT BÌNH ĐẲNG (Tỷ lệ %)
1993
1998
2002
Hệ số Gini (GSO)
0.34
0.35
0.42
Tỷ lệ chi tiêu của người giàu và người nghèo (WB/GSO)
4.97
5.49
6.03
Nguồn: Ngân hàng thế giới(2003), GSO
Số liệu ở Bảng 4 cho thấy hệ số Gini của Việt Nam là tương đối thấp trong thời kỳ đầu cải cách, rõ ràng là hậu quả một thời kỳ xã hội chủ nghĩa dài. Tuy nhiên, hệ số GINI đã tăng đáng kể đặc biệt là từ 1998. Ngoài ra, khoảng cách ngày càng tăng giữa chi tiêu của người giàu và người nghèo đã cho thấy những dấu hiệu của sự mất cân đối trong phân phối ngày càng tăng.
Hình 4: Xu hướng chính về sự tăng trưởng, giảm nghèo và sự bất bình đẳng
Nguồn: Bảng(2) – Bảng(4)
Khu vực nông thôn chiếm gần 90% dân số nghèo, nhưng phân phối thu nhập khá bình đẳng. Trong khi khu vực thành thị có tỷ lệ nghèo thấp hơn nhưng mức độ bất bình đẳng cao hơn.
Hình 5: Đường Lorenz về chi tiêu của khu vực thành thị và nông thôn năm 2002
Nguồn: Xây dựng dựa vào số liệu của cuộc ĐTMS dân số năm 2002
Dưới góc độ vùng, mức độ bất bình đẳng cao hơn ở hai vùng giàu nhất nước là Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Hồng.
Hình 6: Đường Lorenz về chi tiêu của 8 vùng kinh tế năm 2002
Nguồn: Xây dựng dựa vào số liệu của cuộc ĐTMS dân số năm 2002
Đầu tư của gia đình ở nông thôn và nhóm thu nhập thấp cho giáo dục của con em mình còn rất thấp so với thành thị và nhóm giàu nhất. Nếu xét từng khoản chi , người giàu sẵn sàng trả tiền để con em mình được tiếp cận các trường có chất lượng giáo duc tốt và bồi bưỡng thêm kiến thức ngoài giờ chính quy.
Bảng 5: chênh lệch về chi tiêu cho đầu người đi học/1 năm theo khoản chi
Đơn vị: 1000 đồng
Quần áo
Sách giáo khoa
Dụng cụ học tập
Học thêm
Học phí và trái tuyến
Đóng góp cho nhà trường
Nhóm nghèo nhất
23,53
40,23
38,03
23,96
41,21
49,1
Nhóm giầu nhất
82,53
108,21
82,19
357,25
476,36
97,7
Tỷ lệ cho của nhóm nghèo so với nhóm giầu
28,5%
37,2%
46,3%
6,7%
8,7%
50,3%
Nguồn: ĐTMSDC 2001 – 2002, TCTK, 2004
Do trình độ học vấn là một yếu tố dẫn đến chêch lệch về cơ hội có được việc làm với năng suất cao, nên tình trạng đầu tư cho giáo dục theo phân tích trên là một thực trạng cần phân tích kĩ lưỡng. Đối với con em người nghèo, chi phí cơ hội cho việc đi học là rất cao. Trong khi nhu cầu về thu nhập trước mắt quan trọng hơn thì chi phí cho giáo dục caoo sẽ không khuyến khích người nghèo đi học. Xét về tổng thể nền kinh tế thì tình trạng này là bất lợi cho tăng trưởng bền vững.
Hình 7: Đường Lorenz về giáo dục năm 2005
Nguồn: tính toán dựa vào số liệu ĐTMSDC 2002.
Hình 7 mô tả mức độ bất bình đẳng về phân phối giáo dục là kết quả của đầu tư vào giáo dục trong quá khứ. Có thể thấy phân phối giáo dục trở nên bất bình đẳng hơn từ cấp trung học phổ thông trở lên và trong số lao động từ 15 tuổi trở lên có trình độ Đại học, Cao đẳng thì 35,8% thuộc nhóm giàu nhất. Mặc dù mức độ bất bình đẳng chưa cao, nhưng nếu xu hướng này tăng thì có thể sẽ bất lợi cho tăng trưởng gắn với cải thiện phúc lợi và xóa đói giảm nghèo.
2. Giai đoạn 2002 – nay: giai đoạn tăng trưởng mới, đi vào hội nhập
Kinh tế thị trường đã đem lại sự tăng trưởng khá nhanh và ổn định cho nền kinh tế, với tốc độ GDP tăng từ 6,9% năm 2001 lên 8,3% năm 2007. Mức sống của các tầng lớp dân cư trong những năm vừa qua ở cả thành thị và nông thôn, các vùng miền trên phạm vi cả nước tiếp tục được cải thiện. Thu nhập bình quân đầu người một tháng chung cả nước theo giá cả hiện hành có xu hướng tăng mạnh qua các năm.
Bảng 6: Sự bất bình đẳng giữa nhóm nghèo nhất và nhóm giàu nhất 2002
Các chỉ tiêu chủ yếu
Nhóm nghèo nhất
Nhóm giàu nhất
1. Tỷ lệ biết chữ (%)
2. Chi tiêu cho giáo dục bình quân năm (nghìn đồng)
3. Tỷ lệ đến khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế (%)
4. Chi tiêu cho y tế bình quân năm (nghìn đồng)
5. Số giờ làm việc trung bình tuần (giờ)
6. Thu nhập bình quân đầu người tháng (nghìn đồng)
7. Chi tiêu cho đời sốngbình quân/người/tháng (nghìn đồng)
8. Diện tích ở bình quân nhân khẩu (m2)
9. Tỷ lệ hộ sử dụng nước máy (%)
83,9
236
16,5
395,03
25
108
123,3
9,5
1,28
97
1418
22
1181,43
42,4
873
547,53
17,5
34,93
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2004). Kết quả ĐTMS hộ gia đình năm 2002
Sự bất bình đẳng giữa các nhóm dân cư khá rõ nét, các hộ nghèo ít có cơ hội tiếp cận đối với giáo dục, y tế, việc làm và các hoạt động văn hoá, tinh thần... so với các hộ giàu. Nhóm giàu nhất có thu nhập/người/tháng là 873 nghìn, gấp 8,1 lần nhóm nghèo nhất (108 nghìn).
Trong giai đoạn 2004 – 2006, thu nhập bình quân một người/tháng theo giá hiện hành tăng bình quân 14,6%/năm và giai đoạn 2002 – 2004 tăng 16,6%, cao hơn mức tăng 6%/năm của giai đoạn 1999 – 2001. Như vậy, thu nhập bình quân đầu người tăng khá qua các năm, điều đó
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6037.doc