Đề tài Thực trạng tiết kiệm vật tư trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

Lời nói đầu 1

ChươngI: cơ sở lý luận về tiết kiệm vật tư của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh 3

1. Các khái niêm cơ bản về vật tư và tiết kiệm vật tư 3

1.1. vật tư 3

1.1.1. Khái niệm 3

1.1.2. Phân loại vật tư – kỹ thuật 3

1.2. Định mức tiêu dùng vật tư 4

1.3. Tiết kiệm vật tư 4

2. Vai trò của tiết kiệm vật tư trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 4

2.1. Giảm chí phí trong quá trình sản xuất sản phẩm từ đó làm giảm giá thành của sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm 4

2.2. Làm tăng quy mô sản xuất từ đó tạo nhiều sản phẩm hơn cho xã hội 5

2.3. Góp phần nâng cao công xuất của máy móc thiết bị 5

2.4. Thúc đẩy áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản xuất 5

2.5. Tăng khả năng cạnh tranh ở cấp độ sản phẩm, doanh nghiệp, toàn nền kinh tế quốc dân 6

3. Những biện pháp cơ bản nhằm sử dụng hợp lý và tiết kiệm vật tư 6

3.1. Hạ thấp trọng lượng thực của sản phẩm, sử dụng hiệu quả nguyên vật liệu chính trên cơ sở bảo đảm chất lượng 6

3.2. Không ngừng giảm bớt phế liệu sinh ra, tích cực sử dụng phế liệu, sử dụng tổng hợp nguyên vật liệu 6

3.3. Sử dụng vật liệu thay thế trên cơ sở bảo đảm chất lượng sản phẩm với hiệu quả kinh tế cao 8

3.4. Tăng cường công tác quản lý sử dụng vật tư 8

 

doc32 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1232 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng tiết kiệm vật tư trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệu được thay thế; nghiên cứu việc thay thế vật liệu ngay trong thiết kế sản phẩm và đồng thời phải cải tiến quy trình công nghệ, cải tiến máy móc thiết bị cho phù hợp điều kiện mới. 3.4. Tăng cường công tác tổ chức quản lý sử dụng vật tư Đi đôi với các biện pháp tổ chức kỹ thuật phải rất coi trọng áp dụng các biện pháp tổ chức và quản lý, như tăng cường công tác kiểm tra và hạch toán vật tư, thực hiện tốt các chế độ quản lý vật tư, chế độ trách nhiệm vật chất và khuyến khích lợi ích vật chất Chương II Thực trạng tiết kiệm vật tư trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp A. Những đặc trưng cơ bản của kinh tế Việt Nam trong thời kỳ hội nhập. 1. Việt Nam và hội nhập kinh tế quốc tế 1.1. Nền kinh tế Việt Nam khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế Nền kinh tế của nước ta là một nền kinh tế mở quy mô nhỏ, do đó chịu nhiều sức ép từ bên ngoài. Hiện nay việt nam đã tiến hành mở rộng và quan hệ thương mại với các nước. Đến naty, Việt Nam đã ký kết trên 70 hiệp định thương mại song phương, trong đo, đáng chú ý là hiệp định thương mại Việt-Mỹ ký năm 2001. Việt Nam đã lần lượt tham gia vào nhiêu tổ chức kinh tế, thương mại quốc tế. Bước phát triển có ính đột phá của quá trình này là Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN ngày 25/7/1995và tham gia các cơ chế liên kết ASEAN trong các lĩnh vức đầu tư sở hữu trí tuệ, công nghệ thông tinTháng11/1998 Việt Nam trở thành thành viên chính thức của diến đàn Hợp tác kinh tế châu A thái bình dương (APEC), Khối kinh tế khu vực lớn nhất thế giới, chiếm hơn 80% kim ngạch buôn bán, gần 2/3 đầu tư và hơn 50% viện trợ nước ngoài tại Việt Nam. Tháng 12/1994 Việt Nam gửi đơn xin gia nhập tổ chức Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan(GATT). Tiền thân của Tổ chức thương mại thế Giới (WTO), một tổ chức thương mại toàn cầu với 145 thành viên, hiện kiểm soát trên 90% tổng giá trị thương mại giao dịch thế giới. Cho đến nay Việt Nam đã tiến hành chuẩn bị giai đoạn đàm phán thực chất về mở cửa thị trường với các nước thành viên WTO. Đầu năm 2002 Việt Nam cùng với các nước ASEAN tiến hành đàm phán với Trung Quốc về thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc “Đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới” là một chủ trương sáng suốt của Đại hội VIII Đảng ta, thể hiện tầm nhìn chiến lược, tư duy khoa học phù hợp với nhu cầu của đất nước và thực tiễn của thời đại. Mọi người đều biết : Nhiều thế kỷ trước, những tiến bộ trong kỹ thuật hàng hải và công nghệ đóng tầu, khai phá đường giao thông, những bước phát triển của thị trường hàng hóa đã tạo điều kiện mở mang giao lưu buôn bán giữa các quốc gia. Trải qua quá trình phát triển lâu dài, quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng trở nên phổ biến, bao quát nhiều lĩnh vực với nhiều hình thức. Đặc biệt vài chục năm gần đây, xuất hiện những nhân tố kinh tế - kỹ thuật rất mới dẫn đến bước phát triển nhảy vọt là toàn cầu hóa các quan hệ kinh tế. Đó là : Lực lượng sản xuất vươn mạnh ra ngoài biên giới quốc gia cùng nhiều công nghệ hiện đại, nhất là cuộc cách mạng thông tin đã tạo nên cuộc cách mạng thông tin liên hoàn toàn cầu; những tiến bộ mới trong giao thông vận tải đã rút ngắn thời gian giao tiếp giữa các vùng lãnh thổ biên giới... Nhưng điều kiện vật chất có tính quyết định đó làm cho các hoạt động kinh tế lan tỏa khắp toàn cầu. Sự phân công lao động quốc tế vừa phổ cập trên diện rộng, vừa phát triển theo chiều sâu. Các quan hệ thương mại, các dòng vốn đầu tư, các hoạt động dịch vụ phát triển rộng khắp chưa từng có giữa các nước. Mức độ liên kết thống nhất của thị tường thế giới được tăng cường : không còn hiện tượng tách rời thị trường XHCN ( khu vực I) với thị trường TBCN ( khu vực II) ; các cường quốc công nghiệp không còn phân chia thị trường thế giới thành những vùng ảnh hưởng rõ rệt của riêng từng nước ; các công ty đa quốc gia phát triển nhanh chong, trong cùng một lúc, thậm nhập thị trường nhiều nước; quy mô và tốc độ chu chuyển vốn, hàng hóa, dịch vụ, lao động, công nghệ tăng lên rất nhanh, diễn ra đồng thời trên cả ba cấp : quốc gia, khu vực, toàn cầu. Đúng như nhận định của Mác-Ănghen trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng Sản: “Đại công nghiệp tạo ra thị trường thế giới. Thay cho tình trạng cô lập trước kia của các địa phương và dân tộc tự cung tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thược phổ biến giữa các dân tộc”. Hoặc như mọi suy tưởng khác của các nhà kinh điển cho rằng: Giá rẻ của sản phẩm là những trọng pháo bắn thủng vạn lý trường thành của các quốc gia. 1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam Bức tranh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế cực kỳ đa dạng và phức tạp. Do đó, hiện có tình hình là trên thế giới cũng như trong một nước, thậm chí trong cùng một trường đại học, một cơ quan nghiên cứu lý luận, đang có những quan niệm và nhìn nhận khác nhau, thậm chí đối lập nhau về toàn cầu hóa và hội nhập quốc té, thể hiện ở rất nhiều tài liẹu nghiên cứu và sách báo xuất bản, mặc dầu hầu như không một ai phủ nhận trên thực tế có sự tông tại của xu thế toàn cầu hóa và hoạt động hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh đó, đối với nước ta, điều dặc biết quan trọng là phải xuất phất từ lợi ích và điều kiện cụ thể của nước ta, chủ động xem xét nhận biết xu thế diễn biến của kinh tế thế giới, tự mình nhìn nhận những gì là thời cơ, lợi thế có thể và cần tranh thủ, những gì là thách thức cần đối phó, là tiêu cức cần phòng hốn, để độc lập xác định thái độ, chủ trương, phương án hội nhập một cách thích hợp, nhằn mục tiêu: đi đôi với khai thác tối đa mọi tiềm năng nội lực, cần ra sức tanh thủ các nguồn ngoại lực như là những nguồn lực bổ sung rất quan trọng cho phát triển kinh tế-xã hội, tạo cho nền kinh tế nước ta vị thế có lợi trong phân công lao động quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và định hướng XHCN, bảo đảm an ninh quốc gia và bản sắc dân tộc. Nếu chỉ hạn chế trong nguồn lực hạn hẹp hiện có thì không thể đẩy nhanh nhịp đọ phất triển kinh tê, khoong thể giải quyết sớm những vấn đề xã hội bức xúc nhhuw việc lạm, xóa đói giảm nghèo... Thậm chí nguy cơ tụt hậu xa hơn sẽ trở thành hiện thực nghiệt ngã, phất sinh nhiều vấn đề kinh tế xã hội rất phức tạp. Ai cũng biết trên thị trường thế giới, rất dồi dào thiết bị, bật tư và nhiều nguồn vốn đầu tư. Nhưng không hội nhập quốc tế, đứng ngoài quan hện đa phương, song phương thì việc tận dụng các nguồn vật chất đó nhất đọnh gặp nhiều khó khăn, hạn chếm phải trả giá cao hơn: nợ lần khó vay, khó trả, thạm chó không trả được, hậu họa sẽ rất lớn. Đối với nước ta, xuất phát từ nhiệm vụ trung tâm là đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa, hội nhập quốc tế sẽ tạo điều kiện thu hút những nguồn vật chất như vốn, thiết bị, vật liệu mà nước ta rất thiếu và rất cần; những tiến bộ khoa học công nghệ, những kiến thức hiện đại về quản lý kinh tế cần nắm bắt và vận dụng ; những thị trường mới cần thâm nhập để tăng nhanh xuất khẩu, phục vụ mục tiêu thay thế nhập khẩu một các có hiệu quả ; những đối tác mới cần thu hút nhằm thực hiện tốt hơn chủ trương đa phương hóa, chống vị thế độc quyền của bất kỳ ai trên bất cứ lĩnh vực nào của nền kinh tế nước ta. Thực trạng kinh tế nước ta cho thấy: tiềm lực kinh tế rất lớn, phong phú và đa dạng, bao gồm nhiều lĩnh vực, trải rộng khắp các vùng lãnh thổ. Nhưng thực trạng trước mắt cũng cho thấy: để khai thác nhanh những tiềm lực đó, trong không ít trường hợp, rất cân sự tác động tích cực, có hiệu quả của các nguồn kinh tế bên ngoài như là những nhân tố không thể thiếu để khai thác, phát huy nội lực. Nói cách khác, phát huy nội lực là chính, nhưng phải kịp thời tận dụng các ngoại lực; kết hợp nội lực với ngoại lực thành sức mạnh tổng hợp tiến quân mạnh vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mặt khác, thách thức cần đối phó không phải nhỏ: làm thế nào giữ vững được chủ quyền quốc gia và định hướng XHCN trong suốt quá trình hội nhập quốc tế? Làm thế nào không để xẩy ra thua thiệt, thâm chí thất bại trên thương trường nội địa và quốc tế do khả năng cạnh tranh quá yếu; không để xẩy ra sơ hở, thua lý. Không bị động trước những biến động lớn xẩy ra lơ là, mất cảnh giác trước những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch.. Để tận dụng có hiệu quả mọi thời cơ thuận lợi, đồng thời đối phó thành công với các loại thách thức, bảo đảm nguyên tắc bình đẳng, các bên cùng có lợi, điều quyết định là: Chủ động hội nhập quốc tế bằng một chương trình tổng thể với những nội dung và lộ trình hợp lý; không bị động, lôi cuốn chạy theo, nhưng không do dự, bỏ lỡ thời cơ, thậm chí phải biết sử dụng hội nhập quốc tế làm động lực thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của nền kinh tế. Thực tế vừ qua cho thấy : doanh nghiệp nào chấp nhận cạch tranh, kể cả cạnh tranh quốc tế, ra sức cải tiến quản lý và công nghệ thì không những làm chủ thị trường nội địa mà còn đứng vững trên thương trường quốc tế. Không ít tiến bộ trong nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ đều là kết quả của sự kết hợp nhân tố bên trong với nhân tố bên ngoài Chương trình hội nhập phải phù hợp với chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội , phải đáp ứng yêu cầu của những định chế kinh tế quốc tế mà nước ta cam kết Tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa , hiện đại hóa với chất lượng và hiệu quả ngày càng cao , nhằm khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước , tạo ra những chuyển biến to lớn về cơ cấu lao động, ngành nghề, vùng lãnh thổ, về hiện đại hóa từng bước nền kinh tế quốc dân theo hướng kinh tế tri thức, gắn chặt thị trường trong nước với thị trường quốc tế, tham gia ngày càng nhiều vào phân công lao động quốc tế một cách có lợi nhất ... Kiên trì đương lối đỏi mới , đưa đổi mới lên bước phát triển cao hơn là xây dựng nhanh thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN : củng cố vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đi đôi với tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển ; cải tiến chế độ phân phối , kết hợp tăng trưởng kinh tế với giải quyết các nhu cầu xã hội ; xây dựng quy hoạch, kế hoạch kinh tế ; kết hợp “cung”; với “cầu”, coi “cầu” là điểm xuất phát , là đối tượng của “cung”; lấy chất lượng và hiệu quả làm tiêu chuẩn hàng đầu ; kịp thời điều chỉnh bổ sung các chính sách thương mại , tài chính, ngân hàng ; tăng cường và đổi mới chức năng quản lý của Nhà nước. Nâng cao không ngừng khả năng cạnh tranh trên cả ba mặt : sản phẩm hàng hóa ( chất lượng, giá cả) : doanh nghiệp (năng lực công nghệ , trình độ quản lý , hiệu quả sản xuất kinh doanh ); tổng thể nền kinh tế ( kinh tế vĩ mô ổn định, phát triển nhanh và bền vững ; hệ thống pháp luật, chính sách hoàn chỉnh, thông thoáng, môi trường hấp dẫn, sự tín nhiệm quốc tế ...). Ra sức xây dựng doanh nghiệp, công ty, nhất là doanh nghiệp Nhà nước thành những đơn vị mạnh về công nghiệp, giỏi về quản lý, năng động, sáng tạo trong làm ăn. Muốn vậy, với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, cần kiêm quyết, khẩn trương tiến hành cải cách, đổi mới hệ thống doanh nghiệp Nhà nước dựa trên tư duy mới về vai trò, vị trí và trách nhiệm của doanh nghiệp Nhà nước, về cơ chế quản lý , chứ không chỉ dừng lại ở sắp xếp giản đơn, thuần túy về số lượng nhiều ít. Gấp rút đào tạo một đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ về cả hai mặt nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức. Dựa trên mục tiêu, chủ trương chung, kết hợp chặt chẽ với hoạt động của các ngành kinh tế với các ngành văn hóa, an ninh, quốc phòng, hình thành sức mạnh tổng hợp của cả nước... Kết hợp chặt chẽ chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại, nhằm nâng cao vị thế của nước ta trên chính trường quốc tế, đồng thời tạo thế đứng vững chắc, có lợi thế kinh tế nước ta trên thương trường tòan cầu và khu vực. Trên thực tế, nền kinh tế nước ta đã hội nhập quốc tế từ lâu, nếu kể từ khi nước ta tham gia Hội đồng tương trợ kinh tế của các nước XHCN (SEV) và những hoạt động tích cực, đa dạng của nước ta mấy năm gần đây trên lĩnh vực quan trọng này. Thực tế cũng cho thấy những gì nước ta thu nhận được từ hội nhập quốc tế, đã góp phần xứng đáng với những thành tựu kinh tế to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng của thời gian qua. Những gì đã thực hiện, đã giành được chứng minh rằng : Đảng ta, Nhà nước và nhân dân ta có đủ bản lĩnh và khả năng khai thác những gì lợi thế của hội nhập quốc tế , đồng thời đối phó thành công với nhiều loại thách thức phức tạp. Thực tế vừa qua về cả hai mặt “được” và “chưa được” đều là những kinh nghiệm, bài học bổ ích giúp chúng ta mạnh dạn chuyển qua bước phát triển mới của hội nhập quốc tế. B. Những lợi thế và bất lợi của doanh nghiệp trong cạnh tranh và nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm của doanh nghiệp Trong thời kỳ hội nhập cuả nền kinh tế, cạnh tranh trên thương trường diễn ra vô cùng gay gắt và khốc liệt, do đó đẩy mạnh khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trong thời kỳ này là vô cùng quan trọng và cấp thiết. Đặc biệt trong vấn đề cạnh tranh về sản phẩm khi người tiêu dùng đang có xu thế tin tưởng vào nhãn hiệu sản phẩm. Khi hội nhập nền kinh tế nước ta với thế giới thị trường được mở rộng, các doanh nghiệp nước ngoài sẽ tăng cường đầu tư công nghệ vào Việt Nam hơn nữa do đó doanh nghiệp sẽ có điều kiện tiếp súc với thị trường rộng lớn trên thế giới và nâng cao khả năng công nghệ sản xuất sản phẩm của mình. Hội nhập cũng đồng nghĩa với việc mở rộng thị trường trong nước cho các doanh nghiệp nước ngoài vào Việt Nam sản xuất và kinh doanh. Khi đó mức độ cạnh tranh trên thị trường sẽ cao hơn rất nhiều, người tiêu dùng trong nươc do tiếp cận với nhiều sản phẩm với mẫu mã khác nhau do đó yêu cầu về mẫu mã và chất lượng sản phẩm của họ là cao hơn. Khi đó để đứng vững trên thị trường nội địa và thế giới doanh nghiệp không chỉ không ngừng nâng cao chất lượng của sản phẩm, mà còn phải có cách thức sản xuất, quản lý để giảm giá thành của sản phẩm, nâng cao uy tín, tiếng tăm của doanh nghiệp, sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường nội địa và thế giới. C. Tiết kiệm để cạnh tranh Trong xu thế hội nhập với thị trường khu vực và thế giới, hàng hóa đòi hỏi những tiêu chuẩn khá khắc khe về mẫu mã, chủng loại, chiến lược và giá thành. Những năm gần đây, nhiều ngành công nghiệp trong nước nói chung, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng đầu tư khá nhiều thiết bị máy móc hiện đại thuộc thế hệ mới. Song, trong đó cũng có không ít những nhà máy, cơ sở sản xuất còn đang sử dụng những thiết bị “cổ lỗ”. Ngành Nhựa cũng không thoát khỏi vẫn đề này. Sản phẩm nhựa hiện nay đa dạng, phong phú hấp dẫn được người tiêu dùng, nhưng giá thành vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu cạnh tranh nếu chúng ta bước vào hội nhập. Vấn đề đặt ra là làm sao có giá thành hấp dẫn mà không phải tổn thất nhiều tiền cho đầu tư công nghệ mới trong ngành Nhựa. Mới đây, Tiến sỹ Nguyễn Thế Bảo cùng các đồng sự là kỹ sư Nguyễn Thị Ngọc Thọ, Kỹ sư Trương Quang Vũ thuộc Sở Khoa học công nghệ và Môi trường Thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai đề tài “Kiểm soát năng lượng và các biện pháp tiết kiệm năng lượng trong các nhà máy trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh”. Vì là chương trình điểm nên các nhà khoa học chỉ thực hiện trong ba nhà máy sản xuất của ngành Nhựa và đã cho thấy kết quả đáng phấn khởi, nếu chúng ta biết thực hiện tiết kiệm năng lượng. Kỹ sư Nguyễn Thế Bảo cho biết : “Thực tế hiện nay, các doanh nghiệp sản xuất cố gắng đầu tư thiết bị, công nghệ mới nhằm tăng năng xuất , với xu hướng tiến tới việc quản lý chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế ISO. Nhưng mặt khác, lại chưa quan tâm đúng mức việc quản lý các nguồn nguyên liệu đầu vào, nhất là vấn đề năng lượng, làm giảm đi khả năng cạnh tranh của sản phẩm đồng thời gây lãng phí tài nguyên...”. Đề tài trên chỉ thực hiện trong phạm vi ba nhà máy và ở một điều kiện hạn chế, kể cả thời gian cũng như kinh phí, nhưng những nhà khoa học đã khẳng định một số biện pháp tiết kiệm có thể áp dụng được cho các nhà máy Nhựa. Thực tế cho thấy, hầu hết nguồn năng lượng chủ yếu dùng để cung cấp các quy trình công nghệ là nguồn điện từ lưới điện quốc gia và nguồn nước làm nguội khuôn, nếu không mua từ nguồn nước thành phố thì doanh nghiệp tự khai thác, bắt buộc phải dùng bơm và như vậy lại tăng chi phí sử dụng điện. Tuy nhiên, hầu hết các nguồn nước này, các nhà máy chưa có kế hoạch thu hồi. Trong sử dụng điện, theo kết quả đo được chế độ tải hiện thời, cùng với những chứng từ của nhà máy cung cấp cho thấy, các động cơ hoạt động ở chế độ non tải, khoảng 60%, điều này làm giảm hiệu suất của động cơ, gây lãng phí năng lượng. Hiện nay, các nhà máy sản xuất trong ngành Nhựa sử dụng công nghệ ép phun và công nghệ ép đùn, mà các lọai máy này đều có bộ phận sinh nhiệt để nung keo đến trạng thái nóng chảy để ép kéo tạo ra sản phẩm. Các vòng gia nhiệt này có nhiệt độ khá cao, trên 2000C, nhưng lại để trần gây mất nhiệt rất nhiều. Điều này dẫn đến tổn thất điện năng dùng để gia nhiệt cho điện trở bù vào phần nhiệt bị mất đi, đồng thời làm cho môi trường làm việc nóng hơn, phải dùng nhiều quạt gió hơn để giải nhiệt nên việc sử dụng điện nhiều hơn. Từ việc kiểm toán năng lượng thí điểm ở một số nhà máy cho thấy, tiềm năng tiết kiệm năng lượng rất lớn, nếu các điều kiện kinh tế, kỹ thuật cho phép thì nhiều nhà máy sản xuất trong ngành Nhựa tiết kiệm được một khoản năng lượng từ 20 - 40%. Tuy nhiên, việc tiết kiệm năng lượng trong ngành Nhựa về mặt kỹ thuật nên chia làm 2 phần đó là tiết kiệm về mặt kỹ thuật và tiết kiệm về các biện pháp quản lý. Trong quản lý, cần có cản bộ chuyên trách quản lý năng lượng, định mức suất tiêu hao năng lượng, tránh thời gian máy chạy không tải, dừng máy không lý do, tuyên truyền nâng cao ý thức tiết kiệm năng lượng... Trong biện pháp kỹ thuật, cần bố trí hệ thống dây dẫn hợp lý, nhất là việc cân bằng tải ở 3 pha các nhánh của hệ thống điện trong nhà máy. Biện pháp này khá đơn giản nhưng có khả năng tiết kiệm được 3% tổng lượng điện tiêu thụ của nhánh đó. Khi dòng điện 3 pha không cân bằng, chúng có thể phân tích thành 3 thành phần thứ tự là thứ tự thuận, thứ tự nghịch và thứ tự không. Thành phần thứ tự nghịch và thứ tự không có thể gây nên tổn thất trong hệ thống phân phối, ít nhất cũng trên đường dây truyền tải. Bên cạnh đó, dòng thứ tự không trên dây trung tính có thể gây hư hỏng thiết bị, gây mất an toàn cho người vận hành. Việc bọc bảo ôn những nơi có nhiệt độ cao gây thất thoát nhiệt ra môi trường xung quanh như đầu lò nung keo của nhà máy ép phun, đầu lò của máy thổi, bọc nòng xi lanh gia nhiệt... có thể tiết kiệm được 10% tổng năng lượng tiêu thụ. Đã có doanh nghiệp sử dụng công nghệ máy ép đùn chạy bằng động cơ VS, thay đổi tốc độ bằng khớp nối từ có hiệu suất truyền động thấp, gây tổn thất lớn (mất hiệu suất qua khớp nối từ nên số vòng quay của puli chỉ còn tối đa 1.200 vòng/phút so với số vòng quay trên trục động cơ là 1.460 vòng/phút, tổn thất năng lượng qua khớp nối từ biến thành nhiệt), khi được thay thế bằng động cơ thường (động cơ lồng sóc) và bộ Inverter để thay đổi tốc độ vô cấp, đồng thời tiết kiệm điện năng hơn 20% tổng năng lượng tiêu thụ. Trong khi đó, mặc dù máy chỉ chạy 80-85% công suất. Tại một doanh nghiệp, các nhà khoa học đã thử nghiệm trên một máy thổi sử dụng động cơ VS công suất 15 HP. Sau khi bọc bảo ôn phần đầu lò (nơi có nhiệt độ từ 1250C-2000C nên gây thất thoát nhiệt rất lớn, gây hao phí năng lượng điện), thay thế động cơ VS bằng động cơ thường và lắp Inverter, thì số liệu thu thập được trong vòng một tháng so sánh với trước khi thực hiện đã tiết kiệm khoảng 26% và thời gian hoàn vốn cho việc cải tiến trong vòng 11 tháng, ứng với giá điện như hiện nay, nếu giá điện tăng, thời gian hoàn thành còn ngắn hơn. Với điều kiện nguồn năng lượng hiện nay cũng như sự khan hiếm, thiếu hụt năng lượng trong tương lai, thiết nghĩ, lãnh đạo các nhà máy sản xuất trong ngành Nhựa nói riêng và những ngành công nghiệp khác nói chung, cần có sự quan tâm đúng mức về việc tiết kiệm năng lượng trong sản xuất. Đây là một trong những yếu tố thúc đẩy tính cạnh tranh của giá thành sản phẩm trên thị trường nội địa và thế giới, đồng thời còn đóng góp vào việc bảo vệ môi trường của chúng ta trong xu hướng phát triển bền vững. D. Hệ số sử dụng vật tư hiện nay ở Việt Nam. Trong quá trình sử dụng vật tư ở khâu sản suất ra sản phẩm của doanh nghiệp thì hệ số sử dụng vật tư được đánh giá bởi các chỉ tiêu sau: 1. Đánh giá trình độ hoàn thành kế hoạch sứ dụng vật tư 1.1. Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch tổng khối lượng dùng vật tư, là chỉ tiêu so sánh giữa khối lượng vật tư thực tế đã sử dụng(M1) với tổng khối lượng vật tư hạn t tư. Tổng khối lượng vật tư thực tế đã dùng xác định bằng công thức: mức kế hoạch(Mn) trong thời kỳ đó, chỉ tiêu này tính riêng cho từng loại vật tư M1 = M2 + M3 – M4 Trong đó: M1: Lượng vật tư thực tế đã dùng trong kỳ M2: Lượng vật tư còn lại đầu kỳ M3: Lượng vật tư nhận trong kỳ M4: Lượng vật tư còn lại cuối kỳ Chỉ tiêu lượng vật tư thực tế dùng có thể cao hay thấp không những do trình độ sử dụng tiết kiệm hay lãng phí vật tư, mà còn phụ thuộc ở mức hoàn thành kế hoạch sản xuất sản phẩm vượt hay hụt mức kế hoạch. Do đó, phải xét đến chỉ tiêu hoàn thành định mức tiêu dùng vật tư. 1.2. Tỷ lệ hoàn thành định mức tiêu dùng vật tư (Im) là chỉ tiêu so sánh giữa mức tiêu dùng vật tư thực tế cho đơn vị sản phẩm (m1) với định mức tiêu dùng vật tư (mn) mà xí nghiệp giao cho phân xưởng. Chỉ tiêu này nêu lên trình độ chấp hành định mức tiêu dùng vật tư, tình hình sử dụng tiết kiệm hay lãng phí vật tư của phân xưởng trong mỗi thời kỳ. Im = m1*100/ mn 1.3. Các chỉ tiêu sử dụng nguyên liệu, vật liệu thường dùng để đánh giá trình độ lợi dụng nguyên liệu, vật tư trong phân xưởng gồm có các chỉ tiêu sâu đây: 1.3.1. Hệ số thành phẩm (hay là hệ số sử dụng có hiệu quả nguyên vật liệu)(Kt) là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả thu được bằng thành phẩm (Qt) trên lượng đơn vị tiêu dùng nguyên vật liệu chính (M). Hệ số Kt này càng cao biểu hiện khối lượng sản phẩm được sản xuất ra trên đơn vị nguyên vật liệu càng nhiều Công thức tình hệ số này là: Kt =Qt/ M 1.3.2. Hệ số phế liệu (Kp) là chỉ tiêu phản ánh lượng phế liệu sinh ra (P1) với khối lượng nguyên, vạt liệu bỏ vào chế biến ra thành phẩm(M). Hệ số Kp càng cao lại càng chứng tỏ việc sử dụng nguyên, vật liệu càng nhiều lãng phí. Công thức tính hệ số này là: Kp = P1/ M Giữa hai hệ số trên có quan hệ lấn nhau, với cùng khối lượng nguyên vật liệu tiêu dùng (M), hệ số thành phẩm càng lớn thì hệ số phế liệu càng nhỏ tương ứng. Do đó, ta còn có thể tính được các hệ số trên như sau: Kp=1 - Kt hoặc là Kt=1 - Kp 1.3.3. Hệ số sử dung phế liệu (Klp) là chỉ tiêu phản ánh trình độ sử dụng lượng phế liệu sinh ra dùng lại làm vật liệu hoặc để sản xuất mặt hàng khác, là tỷ số giữa lượng phế liệu được thu hồi, lợi dụng (Lp) với lưọng phế liệu sinh ra (P1). Công thức tính hệ số này là: Klp = Lp/P1 Để đánh giá trình độ thực hiện kế hoạch, ta có thể đối chiếu chỉ tiêu thực tế trên đây với mức quy định trong kế hoạch. 2. Các chỉ tiêu cơ bản trong thống kê cung ứng vật tư Do đặc điểm của đối tượng chi phối, do ý nghĩa nội dung kinh tế của đối tượng phản ánh, nên trong thống kê cung ứng vật tư kỹ thuật có nhiều loại chỉ tiêu khác nhau, phổ biến là dùng các chỉ tiêu khối lượng và chỉ tiêu chất lượng, chỉ tiêu hiện vật và chỉ tiêu giá trị: Chỉ tiêu khối lượng biểu hiện quy mô của vật tư kỹ thuật được cung ứng; chỉ tiêu chất lượng nói rõ trình độ chất lượng, hiệu qủa của cung ứng vật tư kỹ thuật. Chỉ tiêu hiện vật nêu lên quy mô cung ưng vật tư kỹ thuật biểu hiện bằng hình thái tự nhiên hay hiện vật quy ước của vật tư kỹ thuật. Các chỉ tiêu trên có quan hệ mật thiết với nhau phản ánh nhiều mặt hoạt động cung ứng vật tư kỹ thuật trong thời gian và không gian cụ thể và được tập hợp thành hệ thống chỉ tiêu thống kê cung ứng vật tư kỹ thuật. Hệ thống chỉ tiêu thống kê cung ưng vật tư kỹ thuật phản ánh một cách cụ thể, đầy đủ, kịp thời và sâu sắc toàn bộ hoạt động cung ứng vật tư kỹ thuật của nền kinh tế quốc dân. Hệ thống chỉ tiêu thống kê cung ứng vật tư kỹ thuật phải phù hợp với chỉ tiêu kế hoạch cung ứng vật tư kỹ thuật về tên gọi, nội dung, ý nghĩa kinh tế và phương pháp xác định, làm cơ sở xây dựng và kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch cung ứng. Ngoài ra, để có thể tiến hành nghiên cứu và phân tích một cách toàn diện sâu sắc các hiện tượng và quá trình cung ứng. Thống kê còn sử dụng một số các chỉ tiêu khác có liên quan. Quá trình phân phối, lưu thông vật tư kỹ thuật trong nền kinh tế quốc dân thường diễn ra qua nhiều lần cung ứng, sử dụng vật tư kỹ thuật. Xét trên giác độ nền kinh tế quốc dân, tổng mức cung ứng và tổng mức sử dụng vật tư kỹ thuật trong từng thời kỳ nhất định có thể nhất trí với nhau. Tuy nhiên, đối với từng ngành hoặc từng đơn vị cơ sở, thì mức cung úng và mức sử dụng không hoàn toàn nhất trí, vì có một bộ phận vật tư kỹ thuật còn lưu lại dưới hình thức dự trữ để đảm bảo cho quá trình sản xuất và xây dựng khỏi bị gián đoạn. Do đó, thống kê cung ứng vật tư kỹ thuật không những nghiên cứu tình hìng cung ứng, tình hình nhập vật tư kỹ thuật mà còn nghiên cứu tình hình sử dụng và dự trữ vật tư đã được cung ứng. Trong thống kê chất lượng vật tư cung ứng được đánh giá qua một số phương pháp sau: 2.1. So sánh tỷ trọng các loại phẩm cấp. Căn cứ tiêu chuẩn chất lượng, người ta chia một loại vật tư ra nhiêu loại phẩm cấp thể hiện sự khác

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0862.doc
Tài liệu liên quan