Các ngân hàng, tổ chức tài chính thực hiện cho vay các đối tượng chính sách và các chương trình kinh tế theo chỉ định của Chính phủ, được Chính phủ bảo đảm các điều kiện để thực hiện thông qua các chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong từng thời kỳ. Trong trường hợp này, lãi suất cho vay theo mức lãi suất do Chính phủ quy định. Ngoài ra, Nghị định cũng quy định, TCTD có chính sách miễn, giảm lãi đối với khách hàng tham gia mua bảo hiểm trong nông nghiệp để khuyến khích khách hàng vay vốn tham gia mua bảo hiểm nhằm hạn chế rủi ro đối với TCTD. Khoanh nợ không tính lãi trong trường hợp thiên tai, dịch bệnh.
45 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3736 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng tín dụng phát triển nông nghiệp nông thôn và nợ xấu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam chi nhánh tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhiều tích luỹ, nên nguồn vốn huy động tại địa phương đạt thấp so với nhu cầu vay vốn trên địa bàn. Tuy nhiên, NHNo là một trong số những ngân hàng có mạng lưới rộng khắp các địa bàn trong tỉnh, đã nhiều năm gắn bó với thị trường nông nghiệp nông thôn; nên nguồn vốn huy động và dư nợ cho vay phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn chiểm tỷ lệ 2/3 số dư bình quân hàng năm của hệ thống.
- Được sự quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương, sự phối hợp chặt chẽ với các Hội, Đoàn thể trong hoạt động ngân hàng;
NHNo đã sớm xác định:
+ Thị trường chính là nông nghiệp nông thôn; khách hàng chủ yếu là hộ sản xuất, kinh doanh tư nhân, cá thể, doanh nghiệp nhỏ và vừa. Để mở rộng và nâng cao hiệu quả và chất lượng dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là thị trường nông thôn, khách hàng là nông dân thì phải củng cố mở rộng thị phần, phát triển được thị trường, phân đoạn thị trường...để có cái nhìn từng lĩnh vực kinh tế rõ hơn, có sự phân biệt mức độ phát triển, quy mô, thuận lợi, khó khăn; từ đó có những biện pháp cụ thể như: phân công cán bộ, xác định mức đầu tư theo định mức kinh tế kỹ thuật, sử dụng các hình thức tín dụng, khả năng tài chính, tập quán từng địa phương.v.v…xác định mức vốn đầu tư theo từng ngành nghề, vùng miền và chi tiết đến từng hộ, doanh nghiệp, từng cơ sở, cân đối với thị trường đầu vào, đầu ra.
+ Tập trung cho vay các chương trình kinh tế trọng điểm để nhanh chóng tạo ra vùng sản xuất hàng hóa có khối lượng lớn như: sản xuất chè, cây lấy gỗ, chăn nuôi lợn xuất khẩu, bò thịt, cây ăn quả đặc sản và phát triển làng nghề...
+ Tích cực mở rộng tuyên truyền, quảng cáo, thông tin đến mọi người dân, các tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, thể lệ chế độ, các sản phẩm ngân hàng; thực hiện xã hội hóa hoạt động tín dụng Ngân hàng.
2.2. Thực trạng tín dụng phát triển nông nghiệp nông thôn và nợ xấu của Ngân hàng
2.2.1. Thực trạng dư nợ
Với nhiều chương trình và kế hoạch nâng cao chất lượng tín dụng, ngân hàng đã đạt được những kết quả như sau:
Bảng 2.1. Diễn biến dư nợ qua 3 năm 2008 - 2010
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
2008
2009
2010
Dư nợ cho vay nền kinh tế
3.495
4.322
5.125
Tăng tuyệt đối
-
827
803
Tăng tương đối (%)
-
24
18,5
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh 3 năm 2008-2010)
Biểu đồ 2.1. Diễn biến dư nợ qua 3 năm 2008 - 2010
Từ bảng 2.1 ta thấy: tình hình dư nợ của ngân hàng có xu hướng tăng lên trong 3 năm. Cụ thể:
Năm 2008, tổng dư nợ cho vay đạt 3.495 tỷ đồng, đến năm 2009, vẫn tiếp tục thực hiện đề án nâng cao chất lượng tín dụng mang lại hiệu quả cao, kết quả là tổng dư nợ cho vay đạt 4.322 tỷ đồng, tăng 827 tỷ đồng so với đầu năm, bằng 24%. Có được kết quả này là do chi nhánh đã thực hiện tốt công tác tín dụng, chỉ đạo và rà soát điều chỉnh lãi suất cho vay, phù hợp với lãi suất huy động vốn, đảm bảo lãi suất cho vay thực dương.
Bước sang năm 2010, chi nhánh đã bám sát định hướng mục tiêu và kế hoạch kinh doanh để đầu tư hiệu quả và có chất lượng, nâng cao mức tổng dư nợ cho vay nền kinh tế lên 5.125 tỷ đồng, tăng 803 tỷ đồng so với đầu năm, bằng 18,5%.
Qua những phân tích trên, ta thấy chi nhánh chủ yếu tập trung vào cho vay nền kinh tế, nó luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng dư nợ cho vay của chi nhánh. Về cơ bản, qua những năm qua, chi nhánh đã thực hiện tốt cơ chế cho vay, nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo lợi ích cho khách hàng và Ngân hàng. Diễn biến dư nợ được thấy rõ hơn qua biểu đồ 1 trên.
Để thấy được cơ cấu dư nợ của chi nhánh, chúng ta sẽ cùng nhau đi phân tích sâu hơn về dư nợ theo thời hạn và dư nợ theo loại tiền tệ.
2.2.1.1. Dư nợ theo thời hạn
Bảng 2.2. Cơ cấu dư nợ theo thời hạn
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
2008
2009
2010
Số
tiền
Tỷ trọng (%)
Số
tiền
Tỷ trọng (%)
Số
tiền
Tỷ trọng (%)
Ngắn hạn
1.703
48,7
2.205
51
2.624
51,2
Trung hạn
1.555
44,5
1.845
42,7
2.195
42,8
Dài hạn
237
6,8
272
6,3
306
6
Tổng
3.495
100
4.322
100
5.125
100
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh 3 năm 2008-2010)
Bảng 2.2 cho thấy chi nhánh thực hiện cho vay ngắn hạn là chủ yếu và có xu hướng tăng dần qua các năm. Năm 2008, dư nợ ngắn hạn là 1.703 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 48,7% tổng dư nợ, dư nợ trung hạn là 1.555 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 44,5% tổng dư nợ, còn lại là dư nợ dài hạn đạt 237 tỷ đồng, chỉ chiếm 6,8% tổng dư nợ. Sang năm 2009, những con số này đã tăng lên, dư nợ ngắn hạn đã đạt 2.205 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 51% tổng dư nợ, dư nợ trung và dài hạn đã giảm xuống, chỉ còn chiếm 49% trong tổng dư nợ. Bước vào năm 2010, dư nợ ngắn hạn tăng lên, đạt 2.624 tỷ đồng, vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ là 51,2%, còn lại là tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn.
Nguyên nhân là do chi nhánh đã thực hiện các chính sách phòng ngừa rủi ro trong cho vay. Nguồn vốn trung và dài hạn luôn mang lại nhiều rủi ro cho ngân hàng hơn nguồn vốn ngắn hạn. Vì vậy, ngân hàng đặt ra chủ trương cho vay tập trung vào ngắn hạn, nguồn vốn cho vay trung và dài hạn đạt dưới 52% trong tổng dư nợ cho vay. Có được những dấu hiệu đáng mừng trên là nhờ chi nhánh đã nỗ lực không ngừng trong việc hoàn thiện các chủ trương, chính sách cho vay, trong việc quản lý và thực hiện tốt các đề án nâng cao chất lượng tín dụng.
2.2.1.2. Dư nợ theo loại tiền tệ
Bảng 2.3. Cơ cấu dư nợ theo loại tiền tệ
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
2008
2009
2010
Số
tiền
Tỷ trọng (%)
Số
tiền
Tỷ trọng (%)
Số
tiền
Tỷ trọng (%)
Nội tệ
3.226
92
4.050
93,6
4.845
95
Ngoại tệ (quy đổi VNĐ)
269
8
272
6,3
280
5
Tổng
3.495
100
4.322
100
5.125
100
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh 3 năm 2008-2010)
Việc sử dụng loại tiền tệ cho vay sao cho hợp lý cũng là điều cần thiết đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong thời kỳ nền kinh tế thế giới đang có nhiều khủng hoảng, lạm phát tăng cao, giá cả có nhiều biến động, sự dao động thất thường của giá vàng và USD. Vì vậy, dư nợ nội tệ luôn chiếm tỷ trọng cao trong tổng dư nợ. Từ bảng 2.3 cho thấy: Năm 2008, dư nợ nội tệ là 3.226 tỷ đồng, chiếm đến 92% tổng dư nợ, dư nợ ngoại tệ (quy đổi ra VND) đạt 8% trong tổng dư nợ, tức 269 tỷ đồng. Năm 2009, dư nợ nội tệ tăng theo xu hướng tăng của tổng dư nợ, đạt 4.050 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 93,6% tổng dư nợ, dư nợ ngoại tệ (quy đổi ra VND) chỉ đạt 272 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 6,3% tổng dư nợ. Đến năm 2010, dư nợ nội tệ cũng tăng cao, đạt 4.845 tỷ đồng, chiếm đến 95% tổng dư nợ, trong khi đó, dư nợ nội tệ cũng tăng lên đạt 280 tỷ đồng nhưng chỉ chiếm 5% tổng dư nợ.
Ta nhận thấy doanh số dư nợ nội tệ cũng tăng lên cùng xu hướng với doanh số dư nợ và luôn chiếm tỷ trọng lớn, tăng dần theo các năm, tuy nhiên dư nợ ngoại tệ (quy đổi ra VND) cũng tăng nhưng lại chiếm tỷ trọng giảm dần trong tổng dư nợ. Điều này là do ngân hàng đã thực hiện tốt nhiệm vụ đầu mối, đảm bảo cung ứng kịp thời nguồn vốn nội tệ và ngoại tệ cho nền kinh tế, tổ chức kiểm đếm chính xác, đảm bảo an toàn kho quỹ với 8 loại ngoại tệ đang giao dịch tại đơn vị, chấn chỉnh các chi nhánh thực hiện nghiêm túc thực hiện tỷ giá và trạng thái ngoại hối do Giám đốc NHNo tỉnh quy định. Tuy nhiên, với tình hình nền kinh tế khủng hoảng hiện nay, hạn chế sử dụng nguồn dư nợ ngoại tệ sẽ giúp ngân hàng tránh được rủi ro hối đoái, tránh được các sai sót trong kinh doanh, đảm bảo mang lại lợi ích cho ngân hàng và cho cả khách hàng.
2.2.2. Tình hình dư nợ phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn
Với chủ trương bám sát chương trình tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn, thực hiện tốt cơ chế cho vay, cải tiến các thủ tục vay vốn, trong những năm qua, cho vay nông nghiệp nông thôn luôn được chú trọng và dư nợ của năm sau luôn cao hơn năm trước. Cụ thể:
Bảng 2.4. Tình hình dư nợ phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
2008
2009
2010
Dư nợ cho vay phát triển NN - NT
2.348
2.910
3.756
Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế
3.495
4.322
5.125
Tăng tuyệt đối
-
562
846
Tăng tương đối (%)
-
24
29
Tỷ trọng dư nợ cho vay phát triển NN-NT/Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế (%)
67,2
67,3
73,3
(Nguồn: Báo cáo tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển NN - NT)
Biểu đồ 2.2. Diễn biến dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn
Nhìn bảng 2.4 trên ta thấy dư nợ cho vay phát triển NN - NT của ngân hàng tăng dần qua các năm và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ cho vay nền kinh tế. Năm 2008 dư nợ cho vay phát triển NN - NT chỉ đạt 2.348 tỷ đồng, đạt mức tỷ trọng 67,2%, thì đến năm 2009 đã đạt dư nợ 2.910 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 67,3%, tăng 562 tỷ đồng so với năm 2008, bằng 24%. Vào năm 2010, con số này lên tới 3.756 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 73,3%, tăng 846 tỷ đồng so với năm 2009, bằng 29%. Để đạt được điều này là do sự cố gắng nổi bật của ngân hàng đó là ngân hàng đã mạnh dạn nới lỏng một số biện pháp tín dụng cho phù hợp với thực tế, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển NN - NT, vừa tăng trưởng tín dụng, mà vẫn đảm bảo chất lượng tín dụng, hạn chế rủi ro.
Các định mức trong cho vay quy định chỉ cho vay tối đa 70% giá trị tài sản thế chấp cầm cố. Song với khách hàng truyền thống, đáng tin cậy thì các hộ sản xuất có thể cho vay tới 80% giá trị tài sản thế chấp hoặc 90% giá trị của sổ tiết kiệm đem cầm cố. Bên cạnh đó, việc thẩm định, đánh giá tài sản thế chấp, việc kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay đều do một cán bộ tín dụng trực tiếp cho vay thực hiện để thủ tục được nhanh gọn hơn, tránh rườm rà đến khách hàng. Đây là những biện pháp giúp cho nguồn vốn cho vay phát triển NN - NT ngày càng tăng và có doanh số cao theo từng năm. Sự tăng trưởng này còn được thể hiện rõ trên biểu đồ 3 như trên.
Đây là những cố gắng lớn của chi nhánh bởi vì đầu tư vốn vào phát triển NN - NT đòi hỏi phải có vốn tự có, có tài sản thế chấp, nhưng đối với hộ sản xuất tài sản thế chấp còn gặp nhiều khó khăn về mặt giấy tờ pháp lý thì cán bộ tín dụng làm công tác cho vay phải sàng lọc, xem xét nghiên cứu giấy tờ thế chấp đảm bảo. Mặc dù lực lượng cán bộ của chi nhánh hiện nay còn mỏng, song cán bộ thường xuyên quan hệ chặt chẽ với địa phương, các vùng lân cận để tìm hiểu về khách hàng, xem tư cách làm ăn có đúng đắn không rồi mới cho vay. Để thấy được thực trạng cho vay phát triển NN - NT ở NHNo&PTNT chi nhánh tỉnh Phú Thọ qua 3 năm 2008 - 2010 ta xem xét cơ cấu cho vay phát triển NN - NT như sau:
2.2.2.1. Dư nợ cho vay nông nghiệp nông thôn theo thời hạn
Bảng 2.5. Cơ cấu cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn theo thời hạn
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
2008
2009
2010
Số
tiền
Tỷ trọng (%)
Số
tiền
Tỷ trọng (%)
Số
tiền
Tỷ trọng (%)
Ngắn hạn
1.029
43,8
1.297
44,6
1.916
51
Trung dài hạn
1.319
56,2
1.613
55,4
1.840
49
Tổng
2.348
100
2.910
100
3.756
100
(Nguồn: báo cáo tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển NN - NT)
Đây là một kết quả đáng mừng đối với toàn chi nhánh, bởi tỷ lệ dư nợ cho vay được nâng lên rõ rệt qua từng năm. Trong quá trình đầu tư, chi nhánh đã đặc biệt quan tâm chuyển dịch cơ cấu dư nợ theo loại cho vay, chủ yếu là cho vay ngắn hạn, cho vay trung và dài hạn có tỷ trọng giảm dần trong tổng dư nợ cho vay phát triển NN - NT, vì vậy đã mang lại kết quả sau:
Năm 2008, dư nợ ngắn hạn là 1.029 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 43,8% tổng dư nợ cho vay phát triển NN - NT, dư nợ trung và dài hạn đạt 2.348 tỷ đồng, chiếm đến 56,2% tổng dư nợ. Năm 2009, dư nợ ngắn hạn đã tăng lên, đạt 1.297 tỷ đồng, chiếm 44,6% tổng dư nợ cho vay phát triển NN - NT, dư nợ trung và dài hạn đạt 1.623 tỷ đồng, có tỷ trọng giảm so với năm 2008 và bằng 55,4% tổng dư nợ cho vay phát triển NN - NT. Tình hình này vẫn tiếp tục cho đến năm 2010, dư nợ ngắn hạn đạt 1.916 tỷ đồng, chiếm đến 51% tổng dư nợ cho vay phát triển NN - NT, trong khi đó dư nợ trung và dài hạn giảm xuống còn chiếm 49% tổng dư nợ cho vay phát triển NN - NT, đạt 1.840 tỷ đồng.
Kết quả đạt được như trên là do chi nhánh đã thực hiện tốt việc rà soát và điều chỉnh cơ cấu đầu tư, cho vay phát triển NN - NT; tập trung vốn chủ yếu vào ngắn hạn để phục vụ lĩnh vực sản xuất ở khu vực nông nghiệp nông thôn; nguồn vốn trung và dài hạn là cần thiết để đáp ứng tốt hướng đổi mới quản lý nông nghiệp, nông thôn, thực hiện tốt các chính sách đến hộ sản xuất và khuyến khích hộ sản xuất tự chủ trong trang bị máy móc, công cụ nhỏ trong khâu sản xuất… vì vậy vẫn phải tập trung tăng nguồn vốn trung và dài hạn. Tuy nhiên, do tính chất rủi ro của nguồn vốn trung dài hạn, đặc biệt khi tình hình thiên tai, dịch bệnh đang lan tràn trong suốt thời gian qua khiến cho nguồn vốn này đang phải giảm tỷ trọng xuống mức cho phép, nhằm đảm bảo thu hồi được nợ, giảm thiểu nợ xấu, nợ khó đòi.
2.2.2.2. Dư nợ cho vay nông nghiệp nông thôn theo thành phần kinh tế
Bảng 2.6. Cơ cấu cho vay nông nghiệp nông thôn theo thành phần kinh tế
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
2008
2009
2010
Số
tiền
Tỷ trọng (%)
Số
tiền
Tỷ trọng (%)
Số
tiền
Tỷ trọng (%)
Cá nhân, HSX
2.295
97,7
2.840
97,6
3.660
97,4
Doanh nghiệp
53
2,3
70
2,4
96
2,6
Tổng
2.348
100
2.910
100
3.756
100
(Nguồn: báo cáo tín dụng ngân hàng phục vụ phát triển NN-NT)
Qua bảng 2.6 ta nhận thấy, tổng dư nợ cho vay đối với cá nhân, hộ sản xuất và doanh nghiệp ngày càng tăng. Dư nợ cho vay đối với cá nhân, hộ sản xuất luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng dư nợ cho vay phát triển NN - NT nhưng giảm dần theo các năm. Điều này là do chi nhánh đã và đang trú trọng đến cho vay bám sát các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn hộ kinh doanh ở các làng có ngành nghề truyền thống. Cụ thể:
Năm 2008, dư nợ cho vay cá nhân, HSX đạt 2.295 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 97,7% tổng dư nợ cho vay phát triển NN - NT, trong khi đó, dư nợ cho vay doanh nghiệp chỉ đạt 53 tỷ đồng, chiếm một tỷ trọng nhỏ 2,3% tổng dư nợ cho vay phát triển NN - NT. Năm 2009, dư nợ cho vay cá nhân, HSX đạt 2.840 tỷ đồng, chiếm 97,6% tổng dư nợ cho vay phát triển NN - NT, dư nợ cho vay doanh nghiệp đạt 70 tỷ đồng và chiếm 2,4% tổng dư nợ cho vay phát triển NN - NT. Trong năm 2010, tỷ trọng dư nợ cho vay cá nhân, HSX đã giảm xuống, còn chiếm 97,4% tổng dư nợ cho vay phát triển NN - NT, đạt 3.660 tỷ đồng, dư nợ cho vay doanh nghiệp đã tăng lên, đạt 96 tỷ đồng, chiếm 2,6% tổng dư nợ cho vay phát triển NN - NT.
Nhìn chung kết quả hoạt động cho vay phát triển NN - NT trong 3 năm qua là tốt. Đạt được kết quả trên là nhờ chi nhánh đã có cơ chế tín dụng khá rõ ràng, đầy đủ, phương pháp làm việc của cán bộ ngân hàng đã có những tiến bộ rõ rệt trong vấn đề giải quyết cho vay. Mặt khác, qua cơ cấu dư nợ theo thành phần kinh tế ta thấy được đường lối chiến lược trong cho vay bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tập trung cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
2.2.3. Một số cơ chế chính sách của ngân hàng cho ngành nông nghiệp trên địa bàn tỉnh
Xác định vai trò đặc biệt quan trọng của nông nghiệp nông thôn trong nền kinh tế đất nước, Chính phủ, các cấp và các ngành Ngân hàng đã có nhiều chủ trương, chính sách, cơ chế chỉ đạo đầu tư cho toàn ngành nói chung và cho ngành nông nghiệp và nông thôn nói riêng. Các chính sách cụ thể như sau:
Về nguồn vốn cho vay:
NHNo&PTNT Việt Nam chi nhánh tỉnh Phú Thọ sử dụng nguồn vốn từ các dự án ủy thác đầu tư của Trung Ương để tập trung vào các dự án nông nghiệp trọng điểm của tỉnh, đặc biệt là các dự án trồng chè, trồng bưởi…, đây là nguồn vốn lớn đối với phát triển NN - NT.
Bảng 2.7. Tổng nguồn vốn các dự án ủy thác đầu tư Trung Ương
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
2008
2009
2010
Tổng nguồn vốn
210
225
256,4
Số tăng tuyệt đối
-
15
31,3
Số tăng tương đối (%)
-
7,1
14
(Nguồn: Báo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2008,2009,2010)
Cụ thể: theo nguồn báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh, năm 2008, nguồn vốn này đạt 210 tỷ đồng, tăng 68 tỷ đồng so với đầu năm, bằng 48%. Trong đó: dự án chè AFD tăng 60 tỷ đồng, dự án bưởi ADB tăng 8 tỷ đồng. Đến năm 2009, con số này đã lên đến 225 tỷ đồng, tăng 14,5 tỷ đồng so với năm 2008, bằng 30%, tuy nhiên dự án ADB đã giảm 1,5 tỷ đồng và thực hiện rút vốn dự án chè AFD đợt 3 tăng 33, 3 tỷ đồng. Năm 2010, tổng nguồn vốn các dự án đạt 256,4 tỷ đồng, tăng 31,3 tỷ so với đầu năm do rút vốn dự án mới Tài chính nông thôn RDF 3, đây sẽ là nguồn tốt để thực hiện hoạt động tín dụng cho lĩnh vực nông nghiệp và sản xuất.
Ngoài ra, ngân hàng còn sử dụng nguồn vốn huy động, nguồn vốn sử dụng của NHNo Việt Nam để cho vay phát triển NN - NT.
Đối tượng cho vay:
NHNo&PTNT Việt Nam huy động và cân đối đủ vốn, đáp ứng yêu cầu tăng khối lượng tín dụng cho nhu cầu phát triển NN - NT bao gồm: cho vay đối với các chương trình trọng điểm của tỉnh, cho vay phát triển NN - NT khác,…
Bảng 2.8. Kết quả cho vay vốn 6 chương trình phát triển kinh tế nông nghiệp trọng điểm của tỉnh
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Thực hiện
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Chương trình sản xuất lương thực
56,3
59
62,7
Chương trình phát triển cây chè
220,2
291,7
341
Chương trình phát triển cây ăn quả
12,2
12,4
15,2
Chương trình phát triển thủy sản
33,9
39,1
43,5
Chương trình phát triển chăn nuôi lợn xuất khẩu, bò thịt, bò sữa
259,5
283,3
295,6
Chương trình hỗ trợ nông dân mua máy phục vụ Sản xuất nông nghiệp
0,1
0,5
1,5
Tổng cộng
582,2
686
759,5
(Nguồn: báo cáo tín dụng Ngân hàng phục vụ phát triển NN - NT)
Từ bảng trên ta thấy, chi nhánh luôn đáp ứng được nhu cầu tăng nguồn vốn tín dụng trong cho vay phát triển kinh tế nông nghiệp trọng điểm của tỉnh. Cụ thể: tổng số cho vay năm 2008 là 582,2 tỷ đồng, chủ yếu cho vay để trồng chè, phát triển chăn nuôi lợn; đến năm 2009, đã đạt mức 686 tỷ đồng tăng 103,8 tỷ đồng, chủ yếu vẫn là phát triển 2 loại nói trên. Sang năm 2010, tổng số cho vay đã tăng đáng kể, lên tới 759,5 tỷ đồng. Điều này là do chi nhánh đã thực hiện tốt cơ chế chính sách phát triển NN - NT trong toàn tỉnh, tập trung vào các đối tượng vay vốn đầy tiềm năng và có hiệu quả.
Ngoài ra, việc cho vay phục vụ phát triển kinh tế xã hội, NN - NT khác cũng được chi nhánh chú trọng đến. Mức cho vay cũng là con số đáng kể. Cụ thể là:
Bảng 2.9.Cho vay phục vụ phát triển kinh tế xã hội NN - NT khác:
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Thực hiện
Năm 2008
Năm 2009
Năm 2010
Cho vay xuất khẩu lao động
20,4
13,6
11,7
Cho vay xây dựng kết cấu hạ tầng, cơ sở cung ứng giống cây trồng vật nuôi, phát triển nguyên liệu phục vụ xuất khẩu gắn với công nghiệp chế biến các sản phẩm nông, lâm ngư nghiệp.
139,3
160,8
162,4
Cho vay các ngành nghề (cơ khí, sữa chữa, chế biến, mô hình hợp tác xã, tiểu thủ công nghiệp, vận tải, xây dựng, khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống…)
208,6
236,6
325,3
Cho vay phục vụ đời sống
339,6
492,9
695,5
Cho vay phục vụ các mục tiêu khác
80,8
128,2
175,7
Tổng cộng
788,7
1.032,1
1.370,6
(Nguồn: báo cáo tín dụng Ngân hàng phục vụ phát triển NN - NT)
Từ bảng ta thấy, nguồn vốn cho vay phát triển kinh tế xã hội, NN - NT khác cũng tăng dần theo các năm. Năm 2008 tổng doanh số cho vay là 788,7 tỷ đồng, đến năm 2010 đã là 1.370,6 tỷ đồng.
Như vây, với chính sách tín dụng tập chung chủ yếu cho “Tam Nông”, nguồn vốn của NHNo đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, gắn vùng nguyên liệu với cơ sở chế biến, tiêu thụ, xuất khẩu; nâng tỷ trọng ngành chăn nuôi trong nông nghiệp, gắn với chuyển giao khoa học công nghệ trong phát triển NoNT; phát triển các mô hình điển hình như: trang trại tổng hợp (VAC, VACR,…), nâng cao thu nhập trên một đơn vị canh tác, tăng mùa vụ, thâm canh, chuyên canh, sen canh,…
Bên cạnh những đóng góp tích cực vào sự chuyển biến về kinh tế của tỉnh, NHNo góp phần giải quyết các vấn đề xã hội như giải nquyết công ăn việc làm cho nguời lao động nhàn rỗi, đời sống của nhân dân được nâng cao, tệ nạn xã hội giảm, khoảng các giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn được thu hẹp. Nguồn vốn của NHNo dễ dàng đến tay người vay nên hạn chế được nạn cho vay nặng lãi, hụi, họ...
Lãi suất cho vay:
Theo nghị định 41/2010/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn vừa được Thủ tướng Chính phủ ký ban hành, những khoản cho vay đối với NN - NT của các TCTD do Chính phủ hoặc các tổ chức cá nhân ủy thác thì mức lãi suất được thực hiện theo quy định của Chính phủ hoặc theo thỏa thuận với bên ủy thác.
Còn các tổ chức tài chính quy mô nhỏ cho vay các đối tượng trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn theo lãi suất thỏa thuận với khách hàng, phù hợp với quy định của pháp luật.
Các ngân hàng, tổ chức tài chính thực hiện cho vay các đối tượng chính sách và các chương trình kinh tế theo chỉ định của Chính phủ, được Chính phủ bảo đảm các điều kiện để thực hiện thông qua các chính sách đối với nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong từng thời kỳ. Trong trường hợp này, lãi suất cho vay theo mức lãi suất do Chính phủ quy định. Ngoài ra, Nghị định cũng quy định, TCTD có chính sách miễn, giảm lãi đối với khách hàng tham gia mua bảo hiểm trong nông nghiệp để khuyến khích khách hàng vay vốn tham gia mua bảo hiểm nhằm hạn chế rủi ro đối với TCTD. Khoanh nợ không tính lãi trong trường hợp thiên tai, dịch bệnh.
Hiện nay, lãi suất cho vay đã có biến động tăng mạnh, mức lãi suất cho vay nông nghiệp lên đến 17%, cho vay sản xuất nông nghiệp nông thôn từ 14,5-17%/năm (trước chỉ từ 14,5 - 15%/năm).
Thời hạn cho vay:
Về thời hạn cho vay, căn cứ vào thời gian luân chuyển vốn, khả năng hoàn vốn của dự án, phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng, và khách hàng thỏa thuận thời hạn vay vốn phù hợp. Trường hợp khách hàng chưa trả được nợ đúng hạn cho ngân hàng do nguyên nhân khách quan (thiên tai, dịch bệnh...), ngân hàng được xem xét cơ cấu lại thời hạn nợ cho khách hàng theo quy định hiện hành, đồng thời căn cứ dự án, phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả, có khả năng trả được nợ của khách hàng để xem xét cho vay mới, mà không phụ thuộc vào dư nợ cũ của khách hàng chưa trả nợ đúng hạn. Trường hợp thiên tai, dịch bệnh xảy ra trên diện rộng, khi có thông báo của cấp có thẩm quyền, ngoài việc xem xét cơ cấu lại thời hạn nợ cho khách hàng, Chính phủ có chính sách hỗ trợ cụ thể đối với tổ chức, cá nhân vay vốn bị thiệt hại nặng, không có khả năng trả nợ. Ngân hàng cho vay được thực hiện khoanh nợ không tính lãi cho người vay đối với dư nợ hiện còn tại thời điểm xảy ra thiên tai, dịch bệnh được công bố tại địa phương. Thời gian khoanh nợ tối đa 2 năm và số lãi ngân hàng đã khoanh cho khách hàng được giảm trừ vào lợi nhuận trước thuế của ngân hàng.
Bảo đảm tiền vay:
Về cơ chế bảo đảm tiền vay, Nghị định 41/2010/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn vừa được Thủ tướng Chính phủ ký ban hành quy định, ngân hàng được xem xét cho khách hàng vay trên cơ sở có bảo đảm hoặc không có bảo đảm bằng tài sản theo quy định hiện hành. Đồng thời, ngân hàng quy định rõ mức cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, điều kiện và thủ tục cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với từng đối tượng khách hàng, phù hợp với các quy định của pháp luật hiện hành về cho vay của ngân hàng đối với khách hàng. Ngoài ra, ngân hàng xem xét cho vay tín chấp đối với các đối tượng khách hàng là cá nhân, hộ gia đình trên cơ sở có bảo đảm của các tổ chức chính trị - xã hội ở nông thôn theo quy định hiện hành.
2.2.4. Thực trạng nợ xấu qua các năm
Tuy chi nhánh có chất lượng tín dụng tốt, nhưng tỷ lệ nợ xấu cho vay vẫn còn tồn tại.
Bảng 2.10. Diễn biến tổng dư nợ xấu cho vay
Đơn vị: tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
2008
2009
2010
Nợ xấu cho vay
170
102
66
Giảm tuyệt đối
-
68
36
Giảm tương đối (%)
-
40
35
Nợ xấu/Tổng dư nợ (%)
4,87
2,37
1,31
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh 3 năm 2008-2010)
Biểu đồ 2.3. Diễn biến tổng dư nợ xấu cho vay
Qua bảng 2.10 ta thấy tình hình nợ xấu có xu hướng giảm dần qua các năm, tuy nhiên giảm mạnh nhất là vào năm 2009, đến năm 2010 thì mặc dù có giảm nhưng tốc độ giảm chậm lại. Điều đó cho thấy khả năng quản lý nợ của ngân hàng đã đạt được hiệu quả, công tác thu hồi nợ cũng được nâng cao. Cụ thể:
Năm 2008, tổng nợ xấu là 170 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu là 4,87%. Đến năm 2009, tổng nợ xấu chỉ còn là 102 tỷ đồng, giảm so với đầu năm 68 tỷ đồng, bằng 40%, tỷ lệ nợ xấu 2,37%, đảm bảo kế hoạch NHNo Việt Nam giao thấp hơn 3%. Bước sang năm 2010 với nhiều biện pháp và hướng đi cụ thể, tổng nợ xấu đã giảm xuống còn 66 tỷ đồng, giảm 36 tỷ đồng so với đầu năm, bằng 35%, tỷ lệ nợ xấu 1,31%. Có thể thấy rõ hơn diễn biến này qua biểu đồ 3 như trên.
Theo quy định của NHNN thì tỷ lệ nợ xấu đạt dưới 5% là được, nhưng các ngân hàng vẫn nên duy trì ở mức càng thấp càng tốt. Theo số liệu ở bảng trên thì tỷ lệ này đã giảm từ 4,87% (năm 2008) về còn 1,31% (năm 2010), đây là thành công lớn của ngân hàng. Có được những kết quả đó là do công sức bỏ ra không nhỏ của toàn chi nhánh ngân hàng. Năm 2008, nợ xấu cao là do tình trạng chung của nền kinh tế đang có dấu hiệu suy thoái, làm phát tăng cao, giá cả một số mặt hàng diễn biến thất thường như giá xăng dầu, sắt thép… Nhưng dần đến các năm sau, nợ xấu giảm dần là do kết quả của gói kích cầu, nhiều doanh nghiệp và khách hàng vay vốn có kết quả kinh doanh tốt, trả nợ đúng thời hạn. Ngoài ra, chi nhánh cũng luôn tổng kết và tiếp tục thực h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng tín dụng phát triển nông nghiệp nông thôn và nợ xấu tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam chi nhánh tỉnh Phú Thọ.doc