Trong số155 hộmà chúng tôi điều tra thì số hộ nuôi quy mô gia
trại(có 5 lợn nái hoặc 20 lợn thịt trở lên) chiếm tỷlệcao nhất54,84 % (85
hộ). Số hộ nuôi quy mô trang trại (từ 20 lợn náihoặc 100 lợn thịt trở lên)
chiếm tỷlệthấpnhất3,87 % (6 hộ). Còn lại là quy mô nhỏ chiếm 41,29 %
(64 hộ).
Qua bảng1 cho thấy, mặcdù nhậnthứcvềchăn nuôi trong mộtquận
nộithành đã dầndần ăn nhậpvào ý thứcngườidân song do điềukiệnchật
chội, nhiềugia đình kinh tếvẫncòn khó khăn nên việctậndụngcác
nguyên vậtliệu đểlàm chuồngtrạimộtcách tạmbợ, tậndụngthức ăn dư
thừacủagia đình hay đi xin đượchoặcmua được vớigiá rẻ đểlàm thức ăn
chăn nuôi vẫncòn phổbiến. Và hơn thếnữa, tuy là những phườngcó
phong trào chăn nuôi mạnhvà khá phát triểnnhưng chăn nuôi lợnphân tán,
quy mô nhỏ, chăn nuôi theo phương thứctậndụngvẫnchiếmtỉlệcao
(41,29 %), chăn nuôi quy mô trang trạirấtít (3,7 %).
Một điều đángnói nữalà chăn nuôi theo quy mô nhỏnên hầuhếtcác
chủchăn nuôi đềuít quan tâm, chú ý đếnchuồngtrại, vệsinh môi trường,
thức ăn, nướcuống Hơn nữavớiquy mô chăn nuôi nhỏthì chủyếulà tận
dụng, tựtúc, tựcấprấtkhó áp dụngcác tiếnbộkỹthuậtchăn nuôi – thú y
vào sảnxuất. Đây cũnglà đặcthùchăn nuôi ởMiềnBắccònởcác tỉnh
phía Nam hầuhếtlàchăn nuôi gia trại, trang trạitập trung, chăn nuôi phân
tán hầunhưkhông còn nữa.
70 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 3026 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng tình hình chăn nuôi và hoạt động giết mổ với vấn đề ô nhiễm môi trường trên địa bàn quận Long Biên, Thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
– 10.000 vi khuẩn/100ml
+ Nước rất ô nhiễm, không dùng được chứa > 50.000 vi
khuẩn/100ml
Còn theo Lương Đức Phẩm (2000), ở Việt Nam khi dùng nước uống
và nước sản xuất thực phẩm thì theo tiêu chuẩn sau (tính trong 1ml) :
+ Số vi khuẩn nhỏ hơn 100 là nước tốt
+ Nước tạm dùng được chứa từ 100 – 500 vi khuẩn
- 27 -
+ Nếu lượng vi khuẩn chứa trên 500 thì nước đó hoàn toàn không
dùng được.
Theo quy định của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn về vệ
sinh thú y đối với lò mổ, điểm giết mổ thì: "Nước dùng trong lò mổ động
vật phải là nước sạch được Cục thú y kiểm tra và cấp giấy chứng nhận về
vệ sinh thú y" (Bộ Nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm, 1995). Lượng
nước phải đủ dùng trong tất cả các khu vực của lò mổ; trong trường hợp
lượng nước sạch bị thiếu mà cơ sở cần dùng loại nước khác vào công việc
vệ sinh sân, chuồng nhốt động vật, cạo lông, làm lòng, làm lạnh động cơ,
rửa trang thiết bị thì phải được Cục thú y kiểm tra và cho phép (Bộ nông
nghiệp và công nghiệp thực phẩm). Cơ sở phải có đủ nước nóng giết mổ
động vật, rửa thiết bị, dụng cụ, xử lý sản phẩm động vật.
Nước phải được định kỳ kiểm tra về mặt vi sinh vật và hoá học. Nếu
có dấu hiệu bất thường về nguồn nước cần được kiểm tra và xử lý ngay.
Theo TCVN 5452 – 91 (Dẫn theo Trương Thị Dung, 2000) thì nước dùng
cho cơ sở giết mổ gia súc phải là nước sạch có chỉ số Coliindex là 20, tổng
số vi sinh vật hiếu khí ≤ 300 và tuyệt đối không có mặt vi khuẩn
Clostridium perfringens, Salmonella cũng như các vi khuẩn gây bệnh khác.
2.5. Các bệnh đường hô hấp và tiêu hoá có liên quan tới ô nhiễm môi
trường trong chăn nuôi
2.5.1. Bệnh đường tiêu hoá
Bệnh đường tiêu hóa ở vật nuôi, đặc biệt là bệnh ỉa chảy ở gia súc
non được đánh giá như loại bệnh của môi trường. Phần lớn gia súc non đều
mắc bệnh tiêu chảy, đặc biệt là lợn con và bê nghé. Bệnh tiêu chảy ở lợn
con những tuần tuổi đầu tiên được xác định là bệnh phân trắng, lợn con sau
cai sữa thường bị tiêu chảy và phù đầu.
- 28 -
Các tác giả Nguyễn Thị Nội, Nguyễn Ngọc Nhiên.... khi nghiên cứu
về nguyên nhân và điều kiện phát sinh bệnh đều nhận thấy sự thay đổi của
thời tiết và sự kém vệ sinh trong môi trường chăn nuôi đã dẫn đến bệnh
dịch, ngoài ra các yếu tố như thức ăn, nước uống, nhiệt độ, độ ẩm và các
chất khí độc hại trong chuồng nuôi đều ảnh hưởng đến bệnh.
Nhiều tác giả đã chứng minh vai trò của E.coli, Salmonella và
Clostridium perfringens như là tác nhân chính gây ra bệnh tiêu chảy. Các vi
sinh vật này có mặt trong chất thải chăn nuôi như phân, nước uống và thức
ăn dư thừa. Quá trình chăn nuôi tập trung đã tạo ra sự ô nhiễm môi trường
do phân và chất phế thải không được xử lý theo đúng yêu cầu vệ sinh.
Bệnh lợn con ỉa phân trắng và bệnh tiêu chảy
Được xác định là do E.coli gây nên. Bệnh thường gặp ở lợn sơ sinh
từ 1-21 ngày tuổi.
E.coli luôn tồn tại trong đường tiêu hoá, trong điều kiện bình thường
chúng ở trạng thái cân bằng, cộng sinh với vật chủ, khi gặp điều kiện thuận
lợi, E.coli bội nhiễm và tăng độc lực trở thành nguyên nhân gây bệnh hoặc
làm cho bệnh nặng thêm. Nhìn chung gia súc chịu nhiều ảnh hưởng trực
tiếp của môi trường sống như : nóng, lạnh, mưa, nắng, ẩm… thất thường.
Do cơ thể còn non chưa phát triển hoàn chỉnh nên các phản ứng thích nghi
với môi trường con rất yếu, khi thời tiết thay đổi đột ngột, con con rất dễ bị
cảm lạnh và bệnh phân trắng xảy ra dễ dàng (Đào Trọng Đạt và cộng sự,
1995). Niconxki cho biết có khoảng 20-25% lợn con chết trong 10 ngày
đầu sau khi sinh nguyên nhân là do E.coli, đôi khi tỷ lệ này còn lên đến
100%.
Bệnh phó thương hàn
- 29 -
Bệnh phó thương hàn ở lợn được xác định là do Salmonella cholerae
suis và Sal.typhi mura tác động chủ yếu đến bộ máy tiêu hoá gây viêm dạ
dày, ruột, ỉa chảy, mụn loét ở ruột già. Bệnh xảy ra ở lợn con và xảy ra
quanh năm gắn liền với các yếu tố môi trường, vệ sinh chăn nuôi và thức
ăn.
Sal.cholera suis (gây thể cấp tính) vào cơ thể theo đường tiêu hoá,
vào hầu và ruột. Tuỳ theo độc lực của chúng và sức đề kháng của cơ thể mà
chúng sinh sản, phát triển rồi chui qua niêm mạc hầu, niêm mạc ruột, dạ
dày gây thuỷ thũng, hoại tử cục bộ, xuất huyết, viêm dạ dày, viêm ruột;
hoặc nếu có độc lực cao thì chúng vượt qua ống tiêu hoá vào các tổ chức
lâm ba ruột, từ hệ lâm ba vào hệ tuần hoàn, vào máu và gây bại
huyết....Ngoài ra, trong bệnh phó thương hàn cấp tính, Sal. Cholerae suis
sống hoại sinh sẵn trong ống tiêu hoá của lợn khoẻ nên không nhất thiết
phải có sự xâm nhập của mầm bệnh thì bệnh mới phát ra.
Bệnh thường xảy ra ở lợn con 2- 4 tháng tuổi, lợn trên 4 tháng tuối ít
khi mắc bệnh. Bệnh phát ra khi những điều kiện ngoại cảnh không thuận
lợi, vệ sinh kém, làm lợn giảm sức đề kháng; thức ăn quá nhiều hoặc quá ít
protein, thiếu muối kiềm, canxi và axit photphoric hoặc tỷ lệ không cân
bằng làm canxi bị bài xuất đi, thiếu vitamin, vận chuyển mệt nhọc, thời tiết
khí hậu xấu....Trong những điều kiện ngoại cảnh nói trên, vi khuẩn từ ống
tiêu hoá sẽ vào máu gây bệnh.
Ở thể mãn tính, bệnh phó thương hàn thường phát sinh do nhập lợn
đã mang trùng, lợn thường ỉa chảy dai dẳng, gầy còm và chết do kiệt
sức.Lợn nuôi trong điều kiện vệ sinh tốt thường mắc bệnh nhẹ và mau khỏi
bệnh hơn (Nguyễn Vĩnh Phước và cộng sự, 1978).
Bệnh thương hàn gà lại do Sal. Gallinarum- pollurum gây ra. Đây là
loại trực trùng nhỏ, hai đầu tròn, kích thước từ 0,4-0,6 × 1- 3 µ, gram âm,
- 30 -
hiếu khí, dễ nuôi cấy và không sinh nha bào. Vi khuẩn sống lâu trong phân
và đất nền chuồng. Salmonella gây viêm ruột, viêm buồng trứng ở gà làm
trứng méo mó dị hình và truyền nhiễm cho gà con nở ra từ trứng của gà mẹ
nhiễm bệnh.
Bệnh lây lan tự nhiên theo phương 2 thức: lây lan gián tiếp và lây lan
theo đường bào thai. Lây lan gián tiếp do gà bệnh và gà mang trùng bài
xuất mầm bênh ra ngoài theo phân làm ô nhiễm thức ăn, nước uống, dụng
cụ chăm sóc. chuồng nuôi....Ngoài ra dụng cụ vận chuyển gà con, máy ấp
trứng bị nhiễm trùng cũng có vai trò truyền bệnh đáng kể.
Bệnh viêm ruột hoại tử ở lợn
Bệnh này do Clostridium perfringens typ C gây ra, có biểu hiện trầm
trọng về tiêu chảy ra máu, có tỷ lệ tử vong cao. Do những cảm nhiễm vi
khuẩn kế phát, diễn biến bệnh thể hiện ở các mức độ trầm trọng khác nhau.
Thường thì da và phân lợn mẹ nhiễm vi khuẩn yếm khí này chính là vật
mang mầm bệnh lây sang cho lợn con.
2.5.2. Bệnh đường hô hấp
Bệnh hô hấp mãn tính ( CRD- Chronic Respiratory Disease)
Đây là một bệnh truyền nhiễm của nhiều loại gia cầm, phổ biến nhất
ở gà và gà tây. Bệnh gây viêm thanh dịch có fibrin ở niêm mạc mũi, niêm
mạc thành hô hấp trên và thành các túi hơi.
Bệnh đầu tiên được Nenxon miêu tả ở Bắc Mỹ năm 1963 và ông gọi
đó là bệnh «Coryza ». Về sau Smith (1948), Mackham và Iăng (1952) đã
chứng minh đồng thời cũng được chính Nenxon (1953) thừa nhận và thống
nhất gọi thành tên Micoplasma (Freund, 1955). Năm 1957 Atlơ và các cộng
sự sau khi thực hiện nhiều thí nghiệm cho thấy trong thiên nhiên có nhiều
- 31 -
chủng Micoplasma nhưng chỉ có một số chủng nhất định có khả năng gây
bệnh. (Dẫn theo Nguyễn Vĩnh Phước).
Bệnh hô hấp mãn tính do nhiều nguyên nhân tổng hợp gây ra, chủ
yếu là do micoplasma gallisepticum, có đặc tính gây ngưng kết hồng cầu
gà, chủng này có nhiều biến chủng nhưng nói chung có đặc tính kháng
nguyên đồng nhất. Chủng thứ 2 M. Gallinarum chỉ là thứ yếu.
Micoplasma thường là một bệnh kế phát. Bệnh chỉ phát thành triệu
chứng khi sức đề kháng của cơ thể giảm sút do các bệnh virus, vi khuẩn,
bệnh ký sinh trùng và các yếu tố về dinh dưỡng. Các vi khuẩn thường làm
kế phát Micoplasma là E.coli, salmonella, pasteurella...Ngoài ra các tác
nhân Stress khác như dinh dưỡng kém, chuồng trại không đạt yêu cầu vệ
sinh...đều góp phần làm cho sức đề kháng của con vật giảm sút và dễ mắc
bệnh.
Trong thực tế bệnh lây lan trực tiếp thường không khí, nguồn truyền
bệnh chủ yếu là gà mang bệnh hoặc đang nung bệnh. Ở những gà này căn
bệnh có nhiều trong nước mắt, nước mũi, miệng, khi hắt hơi mầm bệnh bắn
ra ngoài không khí, gà lành hít phải sẽ nhiễm bệnh. Ngoài ra mầm bệnh còn
truyền qua phôi thai trứng. Ngoài đường hô hấp thì đường sinh dục cũng là
con đường truyền bệ đáng lưu ý.
Sau khi xâm nhập vào cơ thể, Micoplasma gây viêm nhẹ niêm mạc
đường hô hấp, niêm mạc mũi và các xoang quanh mũi, thành các túi hơi.
Niêm mạc bị phù nhẹ, lớp dưới bị thâm nhiễm các tế bào limpho và
histocyt tạo thành các hạt lấm tấm. Nếu sức đề kháng của cơ thể tốt bệnh
phát triển nhẹ nhưng nếu sức đề kháng giảm sút, bệnh sẽ nặng lên và lan
tràn, trường hợp này thường thấy khi niêm mạc đường hô hấp bị tổn
thương do các virus viêm phế quản, đậu thanh khí quản, cúm...Bệnh càng
thể hiện rõ khi niêm mạc đường hô hấp có một số typ E.coli bội nhiễm .
- 32 -
Lúc đó niêm mạc sẽ bị viêm thanh dịch có fibrin. Trong trường hợp này gọi
là thể micoplasma tạp nhiễm: con vật gầy, kiệt sức dẩn rồi chết.
Bệnh nấm phổi do Aspergilus fumigatus
Bệnh nấm mốc ở phế quản và túi hơi gia cầm được Meyer phát hiện
lần đầu năm 1815 ở Đức. Từ năm 1841nấm phổi lần lượt được tìm thấy ở
các loại gia cầm, loài có vú và người. Năm 1855 Freusesius nghiên cứu
nấm ở cơ quan hô hấp gia cầm và đặt tên cho căn bệnh là Aspergillus
fumigatus. Từ đó bệnh có tên là Aspergillosis (dẫn theo Nguyễn Vĩnh
Phước).
Trong các khối u, nấm sợi có đường kính 3-4 µ, chia nhánh. Bào tử
nấm nằm hình tròn xếp thành chuỗi có kích thước 2-3 µ. Nấm bắt màu tối
với lactofucsin, xanh coton.
Nấm Aspergillus fumigatus có thể nuôi cấy dễ dàng trên thạch
Saboraud manto ở nhiệt độ 30ºC, khuẩn lạc màu trắng mịn sau chuyển sang
xanh khối. Nấm có sức đề kháng mạnh với nhiệt đọ và hóa chất. Đun sôi 5
phút nấm mới chết, hấp khô 120ºC trong 1 giờ, Formon 2,5% mới có thể
tiêu diệt được nấm.
Bệnh lây lan chủ yếu qua đường hô hấp. Nấm Aspergillus từ đất, nền
chuồng phát tán bào tử vào không khí, gia cầm khỏe hít phải sẽ nhiễm
bệnh. Vì vậy nếu nền chuồng ẩm ướt bẩn thỉu, chất độn chuồng không sạch
sẽ tạo điều kiện cho nấm tồn tại thường xuyên và bệnh phát sinh. Trong các
chuồng nuôi gà công nghiệp thiếu sự thông gió nên độ bụi không khí tăng
nên bệnh có nhiều nguy cơ xảy ra.
Bệnh nấm phổi chủ yếu do nấm A. Fumigatus gây ra, ngoài ra còn
một số chủng khác như A.flavus, A. Niger, A. Nidulaus, A.terreus cùng
tham gia gây bệnh. Sau khi vào niêm mạc đường hô hấp hoặc đường tiêu
- 33 -
hóa, bào tử nấm theo máu đến địa điểm kí sinh. Tại đây bào tử nấm nảy
thành sợi nấm tăng lên gấp bội tạo ra các u nấm to nhỏ màu trắng xám ở
phổi, thành các túi hơi và một số cơ quan thực thể. Cấu tạo của u nấm gồm
sợi nấm và bào tử, tế bào khổng lồ, tế bào lâm ba và dịch xuất. Trong quá
trình sinh sản các sản vật trao đổi chất- đó là các men phân giải Protein phá
hoại mô bào, tổ chức, ngoại độc tố gây nhiễm độc huyết. Kết quả làm xuất
hiện các triệu trứng trúng độc toàn thân và con vật chết.
PHẦN THỨ BA
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRA
3.1. NỘI DUNG
+ Khảo sát thực trạng chăn nuôi trên địa bàn Quận Long Biên
Mẫu điều tra thống nhất, mỗi hộ có một bản điều tra riêng
Nội dung bao gồm:
- Số hộ tham gia chăn nuôi gia súc, gia cầm.
- Số loại, số lượng gia súc, gia cầm của từng hộ.
- Quy mô, diện tích, kiểu chuồng trại chăn nuôi.
- Vị trí chuồng trại trong gia đình trong khu dân cư.
- Nguồn nước, thức ăn sử dụng trong chăn nuôi.
- Chất độn chuồng sử dụng trong chăn nuôi.
- Xử lý chất thải trong chăn nuôi.
- 34 -
+ Khảo sát thực trạng hoạt động giết mổ trên địa bàn quận Long
Biên.
Mẫu điều tra thống nhất, mỗi hộ một bản điều tra riêng.
Nội dung bao gồm:
- Số hộ tham gia hoạt động giết mổ.
- Loại hình, địa điểm xây dựng và điều kiện hoạt động của các
điểm giết mổ.
- Thiết kế, xây dựng, công suất các điểm giết mổ.
- Thực trạng vệ sinh và xử lý chất thải tại khu giết mổ.
3.2. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRA
- Điều tra theo bảng câu hỏi sẵn theo mẫu.
- Phỏng vấn trực tiếp chủ hộ chăn nuôi và hộ hoạt động giết mổ theo
bảng câu hỏi đã được xây dựng.
3.3. CHỌN MẪU ĐIỀU TRA
Đề tài được triển khai trên địa bàn quận Long Biên. Mẫu điều tra là
các hộ tham gia chăn nuôi, giết mổ tại các phường và được chọn một cách
ngẫu nhiên.
3.4. XỬ LÝ SỐ LIỆU
Xử lý số liệu bằng chương trình máy tính, phần mềm EXCEL.
3.5. THỜI GIAN THỰC TẬP
Thời gian thực tập từ 01/09/2006 đến 01/02/2007.
- 35 -
PHẦN THỨ TƯ
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1. VÀI NÉT CƠ BẢN VỀ ĐỊA PHƯƠNG THỰC TẬP
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
Đáp ứng yêu cầu phát triển mới của thủ đô, quận Long Biên được
thành lập theo nghị định 132/2003 NĐ/CP ngày 06/11/2003 của chính phủ
và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/01/2004. Quận nằm ở cửa ngõ
Đông - Bắc của thủ đô Hà Nội, trên trục tam giác kinh tế Hà Nội - Hải
Phòng - Quảng Ninh, là nơi tập trung nhiều đầu mối giao thông quan trọng
cả về đường bộ, đường sông, đường sắt và đường hàng không nên dân cư
tập trung rất đông bao gồm cả dân vãng lai về sinh sống, làm việc cũng như
học tập. Đây là điều kiện rất thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội của
quận.
Địa bàn quận Long Biên nhờ vào địa thế tự nhiên có hai con sông
Hồng và sông Đuống chảy qua, hàng năm diện tích đất ngoài đê được bồi
đắp phù sa màu mỡ tạo điều kiện cho cây trồng phát triển, chăn nuôi gia
súc, gia cầm ngày càng tăng lên về số lượng.
4.1.2. Điều kiện kinh tế, cơ sở hạ tầng
Số đơn vị hành chính của quận là 14 phường, nguyên là 10 và 3 thị
trấn của huyện Gia Lâm cũ, trên địa bàn quận còn có 1200 doanh nghiệp
trung ương và địa phương đang hoạt động.
Long Biên là quận mới thành lập có hệ thống đường giao thông, hệ
thống lưới điện, hệ thống bưu chính viễn thông,…..tương đối thuận lợi.
Quận có hơn 323 km đường giao thông trong đó đường nhựa và đường bê
- 36 -
tông là 243 km; 97 trạm biến áp với 65,5 km đường dây cao thế, 324 km
đường dây hạ thế, 100% số hộ đã sử dụng điện lưới quốc gia; trên 100 km
đường ống cấp nước, 88 km đường ống dẫn chuyển tải với trên 50% số hộ
dùng nước sạch, bình quân 106 lit/ngày, đêm.
Tuy nhiên cơ sở hạ tầng phục vụ trực tiếp cho sản xuất nông nghiệp
nhìn chung còn yếu, chưa được đầu tư đồng bộ. Một số vùng trong đồng có
hệ thống kênh tưới, tiêu tương đối đồng bộ nhưng lại nằm trong vùng quy
hoạch phát triển đô thị và khu công nghiệp. Còn những vùng, khu vực sản
xuất nông nghiệp có tính ổn định, đặc biệt là khu ngoài bãi thì hệ thống
kênh tưới, đường giao thông nội đồng, hệ thống điện phục vụ cho sản xuất
hầu như chưa được đầu tư.
4.1.3. Tình hình dân số, lao động
Dân số toàn quận là 185.661 người với trên 40 nghìn hộ dân, số hộ
tham gia sản xuất nông nghiệp chiếm 19,4%; số dân làm nông nghiệp
chiếm tới 37%. Ngoài dân cư của quận nơi đây còn có hàng ngàn công
nhân, học sinh, sinh viên đang làm việc, học tập và sinh sống ở các khu
công nghiệp như: Sài Đồng A, Sài Đồng B, Hanel, Đài Tư…, các nhà máy
xí nghiệp như công ty may 10, may 20, nhà máy bánh kẹo, các trường học
…
4.2. KẾT QUẢ ĐIỀU TRA TÌNH HÌNH CHĂN NUÔI
Chăn nuôi trên địa bàn quận đang tăng dần, có một số hộ đã chăn
nuôi theo hình thức công nghiệp, có sự tập trung đầy đủ về con giống,
chuồng trại, thức ăn; phần lớn số hộ còn lại vẫn chăn nuôi theo phương
thức bán công nghiệp và phương thức tận dụng. Bò sữa trong thời gian khai
thác sữa được chăm sóc, nuôi dưỡng đảm bảo kỹ thuật, còn lại đa số bò thịt
được chăn thả ở bãi ven đê. Chăn nuôi lợn vẫn còn mang tính tận dụng,
- 37 -
thức ăn thường là các sản phẩm dư thừa từ các nhà hàng ăn uống, từ sinh
hoạt trong gia đình, từ phế phụ phẩm ngành chế biến (bã bia, rượu…), từ
mùa màng…thức ăn công nghiệp chỉ mang tính chất bổ sung khẩu phần ăn
cho lợn. Người chăn nuôi chỉ đầu tư nhiều cám công nghiệp ở giai đoạn vỗ
béo cho lợn.
Về cơ bản 100% các hộ chăn nuôi đã đầu tư cho xây dựng chuồng
trại, các hộ chăn nuôi theo phương thức công nghiệp và một số hộ gia đình
khác có hệ thống chuồng trại đảm bảo về mặt kỹ thuật cho chăn nuôi và vệ
sinh môi trường (xử lý phân và chất thải bằng bể Bioga). Còn lại ở đại đa
số các nông hộ khác, tình trạng xây dựng chuồng trại chưa hợp lý còn phổ
biến. Có nhiều hộ gia đình để hố chứa phân bên ngoài chuồng lợn thậm chí
ngay trong chuồng hoặc có hộ thì cho nước thải chảy trực tiếp ra cống, rãnh
chung. Có hộ còn lắp ống cho toàn bộ phân, chất thải … thẳng xuống ao
nuôi cá mà không qua xử lý. Chính thực trạng phân, nước thải, rác thải
không được xử lý (ít ra là ủ nóng sinh học) mà đem dùng ngay đã gây ô
nhiễm môi trường trầm trọng. Mầm bệnh dễ dàng có điều kiện tồn tại, lây
lan khiến nguy cơ mắc bệnh của gia súc cũng như con người ở đây là rất
cao.
4.2.1. Quy mô chăn nuôi
Vốn được tách ra từ một huyện ngoại thành có truyền thống chăn
nuôi phát triển, song do điều kiện kinh tế xã hội lúc đó còn khó khăn nên
chăn nuôi ở đây phần lớn là quy mô nhỏ, chăn nuôi mang tính tận dụng là
chủ yếu. Mỗi hộ chỉ nuôi từ 2-3 con lợn, 10-20 con gà, còn bò thì do đòi
hỏi số vốn lớn và cần trình độ kỹ thuật chăn nuôi cac nên ít hộ nuôi hơn.
Hiện nay, điều kiện kinh tế, xã hội phát triển hơn trước, nhu cầu thực
phẩm ngày càng tăng cùng với nhận thức của người chăn nuôi được nâng
cao nên phong trào chăn nuôi phát triển mạnh mẽ. Các mô hình gia trại,
- 38 -
trang trại đang được thay thế dần cho mô hình chăn nuôi nông hộ quy mô
nhỏ. Chăn nuôi nông hộ với quy mô lớn hơn, đa số các hộ nuôi từ 10-30
con lợn có nhà nuôi đến 50 con.
Tiến hành điều tra tại các phường có chăn nuôi nhiều, chúng tôi có
kết quả sau :
Bảng 1 : Quy mô chăn nuôi tại cơ sở
Quy mô
nhỏ
Quy mô gia
trại
Quy mô
trang trại
STT Tên phường
Số
hộ
điều
tra
Số
hộ %
Số
hộ %
Số
hộ %
1 Cự Khối 10 0 0 10 100 0 0
2 Gia Thụy 12 5 0 7 58.33 0 0
3 Giang Biên 17 0 0 16 94.12 1 5.88
4 Long Biên 16 8 50 6 37.5 2 12.5
5 Ngọc Thụy 15 7 46.67 8 53.33 0 0
6 Phúc Đồng 10 8 80 2 20 0 0
7 Phúc Lợi 17 3 0 12 70.59 2 11.76
8 Sài Đồng 15 7 0 8 53.33 0 0
9 Thạch Bàn 11 7 63.64 4 36.36 0 0
10 Thượng Thanh 17 9 52.94 7 41.18 1 5.88
11 Việt Hưng 15 10 66.67 5 33.33 0 0
Tổng hợp 155 64 41.29 85 54.84 6 3.87
Trong số 155 hộ mà chúng tôi điều tra thì số hộ nuôi quy mô gia
trại (có 5 lợn nái hoặc 20 lợn thịt trở lên) chiếm tỷ lệ cao nhất 54,84 % (85
hộ). Số hộ nuôi quy mô trang trại (từ 20 lợn nái hoặc 100 lợn thịt trở lên)
chiếm tỷ lệ thấp nhất 3,87 % (6 hộ). Còn lại là quy mô nhỏ chiếm 41,29 %
(64 hộ).
Qua bảng 1 cho thấy, mặc dù nhận thức về chăn nuôi trong một quận
nội thành đã dần dần ăn nhập vào ý thức người dân song do điều kiện chật
- 39 -
chội, nhiều gia đình kinh tế vẫn còn khó khăn nên việc tận dụng các
nguyên vật liệu để làm chuồng trại một cách tạm bợ, tận dụng thức ăn dư
thừa của gia đình hay đi xin được hoặc mua được với giá rẻ để làm thức ăn
chăn nuôi vẫn còn phổ biến. Và hơn thế nữa, tuy là những phường có
phong trào chăn nuôi mạnh và khá phát triển nhưng chăn nuôi lợn phân tán,
quy mô nhỏ, chăn nuôi theo phương thức tận dụng vẫn chiếm tỉ lệ cao
(41,29 %), chăn nuôi quy mô trang trại rất ít (3,7 %).
Một điều đáng nói nữa là chăn nuôi theo quy mô nhỏ nên hầu hết các
chủ chăn nuôi đều ít quan tâm, chú ý đến chuồng trại, vệ sinh môi trường,
thức ăn, nước uống…Hơn nữa với quy mô chăn nuôi nhỏ thì chủ yếu là tận
dụng, tự túc, tự cấp rất khó áp dụng các tiến bộ kỹ thuật chăn nuôi – thú y
vào sản xuất. Đây cũng là đặc thù chăn nuôi ở Miền Bắc còn ở các tỉnh
phía Nam hầu hết là chăn nuôi gia trại, trang trại tập trung, chăn nuôi phân
tán hầu như không còn nữa.
4.2.2. Các kiểu chuồng trại trong chăn nuôi
Thực tế có 3 kiểu chuồng nuôi phổ biến :
- Chuồng nuôi truyền thống (quy mô nông hộ): Xây dựng kiểu tận
dụng tuỳ theo điều kiện diện tích đất đai và nhận thức của từng hộ gia đình
,không theo một mô hình thiết kế chung nào. Chuồng thường nằm ngay
cạnh nhà ở, gia súc thường ở trong một chuồng cố định không có sự thay
đổi theo độ tuổi hay tính biệt sản xuất: lợn thường nằm trên phân, chuồng
bò thường dựng bằng các đoạn tre gióng lại, có mái che mà không có
tường…Các loại chuồng nuôi (bò, lợn, gia cầm…) nằm san sát, lẫn lộn
nhau.
- Chuồng nuôi cải tiến: Có sự đầu tư về kinh phí của chủ hộ chăn
nuôi.Chuồng nuôi đã tách rời hố chứa phân, chất thải, nước rửa chuồng
- 40 -
được chảy dồn ra bên ngoài vào hố chứa phân. Chuồng nuôi cải tiến hàng
ngày được được dọn vệ sinh một hoặc hai lần tuỳ vào độ bẩn hay sạch của
chuồng. Trong chuồng đã có những chỗ quy định riêng để cho ăn, cho uống
hợp lý…
- Chuồng nuôi công nghiệp: Chuồng nuôi công nghiệp đối với gia
súc (bò, lợn) thì gia súc được nuôi theo từng ô phù hợp với sinh lý từng lứa
tuổi. Kiểu chuồng nuôi này thường được xây dựng theo mẫu thiết kế
chung, có hệ thống thông gió, hệ thống làm mát khi thời tiết nóng; có hệ
thống bạt che khi thời tiết lạnh. Kiểu chuồng nuôi công nghiệp thường
được áp dụng tại các mô hình chăn nuôi trang trại, có hệ thống máng ăn,
vòi nước uống tự động riêng biệt…
Kết quả điều tra được thể hiện qua bảng 2:
Qua bảng 2 cho thấy:
- Kiểu chuồng chăn nuôi cải tiến là chiếm tỷ lệ cao nhất: 63.87 % (99
hộ).
- Kiểu chuồng chăn nuôi theo quy mô công nghiệp chiếm tỷ lệ thấp
nhất: 3.87 %.
- Kiểu chuồng chăn nuôi theo tập quán tới nay đã không còn phù hợp
nên cũng giảm xuống còn 50 hộ trong tổng số 155 hộ điều tra, chiếm
tỷ lệ 32.26 %.
Thực tế cho thấy, kiểu chuồng nuôi cải tiến hiện nay đang phổ biến,
phù hợp với quy mô chăn nuôi gia trại, phù hợp với điều kiện kinh tế của
từng gia đình. Các hộ xây dựng chuồng trại chăn nuôi theo kiểu cải tiến đã
góp phần nâng cao năng suất chăn nuôi, vệ sinh chuồng trại được thuận tiện
và dễ dàng hơn. Các chất thải như phân, rác, nước thải, nước rửa chuồng…
được xử lý dễ dàng hơn chăn nuôi quy mô nhỏ, phân tán.
- 41 -
Bảng 2 : Các kiểu chuồng nuôi phổ biến
Chuồng
nuôi truyền
thống
Chuồng
nuôi cải
tiến
Chuồng
nuôi công
nghiệpSTT Tên phường Số
hộ
Số
hộ %
Số
hộ %
Số
hộ %
1 Cự Khối 10 3 30 7 70 0 0
2 Gia Thuỵ 12 6 50 6 50 0 0
3 Giang Biên 17 6 35.29 10 58.82 1 5.88
4 Long Biên 16 4 25 10 62.5 2 12.5
5 Ngọc Thuỵ 15 4 26.67 11 73.33 0 0
6 Phúc Đồng 10 4 40 6 60 0 0
7 Phúc Lợi 17 4 23.53 11 64.71 2 11.76
8 Sài Đồng 15 5 33.33 10 66.67 0 0
9 Thạch Bàn 11 5 45.45 6 54.55 0 0
10 Thượng Thanh 17 4 23.53 12 70.59 1 5.88
11 Việt Hưng 15 5 33.33 10 66.67 0 0
Tổng hợp 155 50 32.26 99 63.87 6 3.87
Tuỳ theo điều kiện chuồng nuôi khác nhau mà mức độ gây ô nhiễm
môi trường khác nhau. Chuồng nuôi truyền thống do số lượng vật nuôi còn
ít (1 – 2 con) nên mức độ gây ô nhiễm môi trường chưa lớn. Chuồng nuôi
kiểu cải tiến mặc dù sạch sẽ dễ quét dọn nhưng do số lượng nhiều (5 – 10
lợn nái, 50 – 70 lợn thịt, 4 – 5 bò…) nên gây ô nhiễm môi trường xung
quanh nhiều hơn bởi lượng phân và nước thải lớn. Mặc dù các hộ có xây bể
biogas nhưng vẫn chưa chú ý đến môi trường và việc xử lý chất thải. Thậm
chí có những hộ do nuôi gia súc với số lượng lớn, trong khi đó bể biogas
được xây dựng với dung tích nhỏ nên nhiều khi phân, rác thải, nước thải
chảy tràn ra ngoài rất ảnh hưởng đến môi trường xung quanh do ruồi nhặng
bay đến và mùi hôi thối bốc lên.
- 42 -
Đối với các hộ xây dựng chuồng trại theo hướng công nghiệp, nói
chung là sạch sẽ. Tuy nhiên, nếu không chú ý việc xử lý chất thải chăn
nuôi, không thiết kế hệ thống xử lý phân phù hợp, theo quy trình kỹ thuật
sẽ gây ô nhiễm môi trường ở mức độ lớn hơn nhiều so với tất cả các hình
thức chăn nuôi khác.
4.2.3. Vị trí chuồng trại chăn nuôi
Một trong những nguyên nhân góp phần gây ô nhiễm môi trường là
vị trí chuồng nuôi. Qua điều tra chúng tôi thấy: hầu hết các chuồng trại nằm
ngay trong khu vực gia đình hay khu dân cư, rất ít chuồng trại xây dựng
ngoài khu dân cư. Do đặc điểm Long Biên là quận có mật độ dân số cao,
đất bình quân đầu người thấp nên hầu hết chuồng trại đều được xây dựng
trong khu khu dân cư. Kết quả điều tra được trình bày trong bảng 3:
Bảng 3: Vị trí chuồng trại
Chuồng nuôi
trong khuôn
viên đất ở
Chuồng nuôi xa
khuôn viên đất
ở (>500m)STT Tên phường Số hộ
Số hộ % Số hộ %
1 Cự Khối 10 10 100 0 0
2 Gia Thuỵ 12 12 100 0 0
3 Giang Biên 17 16 94.12 1 5.88
4 Long Biên 16 14 87.5 2 12.5
5 Ngọc Thuỵ 15 15 100 0 0
6 Phúc Đồng 10 10 100 0 0
7 Phúc Lợi 17 15 88.24 2 11.76
8 Sài Đồng 15 15 100 0 0
9 Thạch Bàn 11 11 100 0 0
10 Thượng Thanh 17 16 94.12 1 5.88
11 Việt Hưng 15 15 100 0 0
Tổng hợp 155 149 96.13 6 3.87
- 43 -
Qua bảng 3 cho thấy đa số các hộ chăn nuôi đều tận dụng diện tích
đất đai nên hầu hết chuồng trại chăn nuôi đều xây dựng trong khuôn viên
nhà ở (chiếm 96.13 %). Mặt khác, chuồng trại lại không đảm bảo về
khoảng cách an toàn đối với nhà ở, bếp, giếng nước hay các công trình phụ
khác. Tệ hơn nữa là chuồng lợn có khi ở cùng một dãy với bếp hoặc rất gần
giếng nước, nhà ở. Với tình trạng này, khi mà mật độ đàn gia súc cao sẽ
gây ô nhiễm trầm trọng môi trường sống của chính gia đình người chăn
nuôi và toàn bộ khu dân cư xung quan
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng tình hình chăn nuôi và hoạt động giết mổ với vấn đề ô nhiễm môi trường trên địa bàn quận Long Biên - Thành phố Hà Nội (70 trang).pdf