Đề tài Thực trạng tình hình chống lạm phát của chính phủ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Giá lương thực - thực phẩm do nông dân làm ra tăng cao hơn nhiều so với tốc độ

tăng của 9 nhóm hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng khác và cao gấp rưỡi tốc độ tăng chung

(năm 2007 tăng 18,92% so với tăng 12,63%, 2 tháng đầu năm 2008 tăng 10,17% so với

tăng 6,02%). Nhóm hàng này hiện còn chiếm tới 42,85% tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ

tiêu dùng của dân cư, nên tốc độ tăng giá của nó trở thành bộ phận quyết định đến tốc độ

tăng giá chung.

Đây không chỉ là vấn đề của Việt Nam mà còn là vấn đề của toàn thế giới. Giá gạo

xuất khẩu bình quân 2 tháng đầu năm 2008 so với cùng kỳ năm trước tăng tới 21,7%,

trong những ngày tháng 3 này còn cao gấp rưỡi, gấp đôi. Giá lúa mì nhập khẩu năm 2007

tăng 60% so với năm 2006, 2 tháng đầu năm nay tăng 55,9%. Tốc độ tăng giá lương thực,

thực phẩm của Trung Quốc tháng 2.2008 so với cùng kỳ năm trước cũng đã rất cao (giá

lương thực tăng trên 18%, giá thực phẩm tăng tới 29%). Giá lương thực, thực phẩm của

các nước phát triển cũng tăng hai chữ số.

pdf33 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1765 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng tình hình chống lạm phát của chính phủ ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ấp, nên hàng lọat các ngân hàng đã gia tăng tiền gửi tiết kiệm bằng cách tăng lãi suất tiền gửi, và để có đủ khả năng trả tiền cho người gửi khi đến hạn thì buộc lòng các ngân hàng phải tăng tiền lãi cho vay, điều đó sẽ làm cho các nhà đầu tư gặp nhiều trở ngại; một là nhà đầu tư dù muốn đầu tư nhưng cũng không thể kham nổi lãi suất đó, từ đó sẽ làm đó thị trường tài chính bị đóng băng; hai là nhà đầu tư sẵn sàng vay với lãi suất đó để sản xuất, như vậy chi phí tăng, buộc lòng các nhà đầu tư phải tăng giá thành sản phẩm, và vô hình chung sẽ càng làm cho giá cả hàng hóa tăng cao hơn. * Hiện nay, hàng lọat các ngân hàng được thành lập, đặc biệt là các ngân hàng thuộc sự quản lý của các tập đòan lớn, chúng sẽ là một ngòi nổ có thể khiến cho việc giải quyết tình trạng lạm phát hiện nay gặp nhiều trở ngại hơn. Nguyên nhân là khi các tập đòan này mở các ngân hàng của riêng mình thì việc cho chính bản thân họ vay sẽ không 12 gặp nhiều trở ngại như khi đi vay tại các ngân hàng khác, khiến cho tình trạng họat động của ngân hàng đó gặp rủi ro cao. Và khi ngân hàng đó rơi vào tình trạng phá sản thì sẽ kéo theo nhiều ngân hàng khác, kết quả sẽ làm cho hệ thống ngân hàng rơi vào tình trạng khó khăn, từ đó có thể làm cho nền kinh tế bị suy thóai trầm trọng. 2.3 Tác động của lạm phát đến các mặt đời sống xã hội 2.3.1 Thị trường tài chính Kể từ khi Ngân hàng Nhà nước công bố quyết định phát hành ngay một lúc tới 20.300 tỷ đồng tín phiếu bắt buộc, không được vay tái cấp vốn, với mục tiêu kiềm chế lạm phát, thị trường chứng khoán và thị trường tiền tệ đã có phản ứng tức thì, nhạy cảm tới biện pháp mạnh tay và cứng rắn của Ngân hàng Nhà nước, đó là thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh, thị trường tiền tệ hết sức nóng. Thị trướng chứng khoán hiện đang giảm liên tục, các phiên giao dịch cũng ít dần, làm cho tình hình ngày càng xấu đi. Thâm hụt tài khoản vãng lai sẽ tăng lên, thặng dư tài khoản thanh toán giảm, thặng dư cán cân thanh toán giảm. Từ đầu năm đến nay, luồng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp sau khi Việt Nam gia nhập WTO đã tăng lên nhanh chóng đã tạo sức ép tăng giá tiền đồng và một mặt gây khó khăn cho việc điều hành chính sách tiền tệ và giám sát tài chính, đặc biệt trong bối cảnh thị trường chứng khoán tăng trưởng rất khả quan. Do Việt Nam muốn giữ được một tỉ giá tương đối cạnh tranh, vì vậy Ngân Hàng Nhà nước đã phải mua tiền vào, làm tăng dự trữ ngoại tệ, nhưng mặt khác cũng làm cho lượng cung ứng tiền về lớn, dẫn đến cân đối cung - cầu ngoại tệ thay đổi, gây áp lực lạm phát. Để giải quyết vấn đề ấy, Ngân Hàng Nhà nước đã hút tiền về bằng cách áp dụng chính sách thị trường mở, bán tín phiếu, tăng dự trữ bắt buộc của các Ngân Hàng Thương Mại. Nhưng biện pháp này có tổn phí khá cao và khiến cho lãi suất bị đẩy lên. Vì vậy, sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng do lãi suất cao. Bên cạnh đó, nếu có sự can thiệp của chính sách tiền tệ bằng cách mua tiền vào thì phải tăng cường được hiệu lực của các công cụ tiền tệ và vai trò độc lập hơn của NHTƯ 13 trong quyết định các chính sách của mình để vừa đảm bảo khả năng cạnh tranh của tỉ giá, đồng thời giảm tổn phí cho các biện pháp trung hoà hoá tiền tệ... Hơn nữa, sức ép tăng giá đồng Việt Nam đã làm giảm sự cạnh tranh của hàng xuất khẩu, do đó làm giảm cầu xuất khẩu làm ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất hàng xuất khẩu, làm ảnh hưởng đến cán cân tài khoản vãng lai. Theo ADB, các chỉ số của thị trường tài chính được tính toán và được dự báo qua các năm: MỘT SỐ CHỈ SỐ VĨ MÔ CỦA VIỆT NAM, 2006 - 2009 2006 2007 2008 2008 Lạm phát giá tiêu dùng (%) Chỉ số lạm phát bình quân kỳ Chỉ số lạm phát cuối kỳ 7.5 6.6 8.3 12.6 18.3 15.6 10.2 7.6 Tăng trưởng thực GDP (%) 8.2 8.5 7.0 8.1 Tốc độ tăng xuất khẩu (%) 23.0 21.3 18.7 23.5 Cán cân vãng lai (% của GDP) -0.3 -8.0 -10.3 -9.4 (Nguồn: Tổng cục thống kê, Ước tính và dự báo của cán bộ ADB) Theo dự báo của ADB thì cán cân vãng lai của Việt Nam bị thâm hụt cao trong năm 2008, và có xu hướng giảm vào năm 2009. Điều này cũng có thể được lý giải bằng việc sức ép tăng giá đồng Việt Nam đã ngày càng làm cho việc xuất khẩu của Việt Nam ngày càng khó khăn hơn, do đó làm thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai. Báo cáo của Goldman Sachs dự báo, tăng trưởng GDP của Việt Nam có thể giảm trong năm 2008 và 2009 lần lượt là 7,3% và 7,8%, so với mức tăng trưởng 8,5% trong năm ngoái. Chỉ số CPI cũng được dự báo ở mức 19% và 10% cho cả năm nay và năm sau, so với mức 8,3% của năm 2007. Các chuyên gia của Goldman Sachs cũng nhận định, tình trạng kinh tế tăng trưởng quá nóng tại Việt nam là điều hiển nhiên do nhiều yếu tố. 14 Giải thích về tình trạng lạm phát tăng cao tại Việt Nam, báo cáo của Goldman Sachs cho rằng, lượng cung tiền tăng mạnh chính là nguyên nhân chủ đạo gây ra tình trạng này. Tình trạng này bắt đầu hiện từ năm 2006 và tăng tốc vào đầu năm 2007. Cùng với đó, tốc độ tăng trưởng tín dụng cũng tăng từ mức 29% lên 54%. Goldman Sachs đưa ra hai lý do chính khiến gây ra việc tín dụng tăng trưởng mạnh đó là: luồng vốn chảy vào Việt Nam tăng đột biến và sự mở rộng của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là ngân hàng thương mại và ngân hàng nước ngoài. Để giữ VND không bị trượt giá, Ngân hàng Nhà nước đã mua USD về và như thế bơm thêm VND vào hệ thống tiền tệ. Để tránh thừa VND, Ngân hàng Nhà nước đã phát hành tín phiếu bắt buộc và tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các ngân hàng, nhưng vẫn còn một lượng tiền dư thừa lớn trong nền kinh tế. Ngoài việc đẩy mạnh cho vay để chiếm thị phần, các ngân hàng cũng tìm mọi cách để tăng dư nợ nhằm đảm bảo tỷ lệ bắt buộc 3% đối với cho vay cầm cố chứng khoán vào thời điểm cuối năm 2007. Theo các chuyên gia của Goldma Sachs, chính sách tiền tệ đóng một vai trò quan trọng trong việc kiểm soát lạm phát. Kể từ tháng 6 năm ngoái, Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng nhiều công cụ chính sách tiền tệ để chặn lạm phát như tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, sử dụng nghiệp vụ repo, phát hành tín phiếu, tăng lãi suất, nới biên độ tỷ giá VND/USD… Tuy nhiên, từ nay trở đi, Ngân hàng Nhà nước sẽ không còn nhiều công cụ chính sách để áp dụng. Và báo cáo cho rằng, hai công cụ sẽ có nhiều khả năng được sử dụng nhất là tăng lãi suất và kiểm soát tín dụng. Việc Ngân hàng Nhà nước dỡ bỏ trần lãi suất huy động, ấn định lãi suất tối đa 18%/năm của ngày 17/5 được Goldman Sachs đánh giá là một bước đi tích cực trong việc chống lạm phát và giảm nhẹ áp lực tiền tệ. Tuy nhiên, với tình trạng thắt chặt thanh khoản trong các ngân hàng hiện nay kể từ khi Ngân hàng Nhà nước phát hành 20.000 tỷ tín phiếu bắt buộc trong tháng 3 khiến xuất hiện một nhân tố rủi ro trong hệ thống. 15 Bản báo cáo cho rằng, đã đến lúc Ngân hàng Nhà nước nên tính đến chuyện cung cấp thanh khoản cho các ngân hàng, thay vì tiếp tục tìm cách hút bớt thanh khoản trong ngắn hạn. Báo cáo cũng dự đoán VND sẽ tiếp tục mất giá so với USD trong thời gian tới. Ngân hàng Nhà nước sẽ không sử dụng sử công cụ tỷ giá để kiểm soát lạm phát. Thứ nhất, VND chưa bị định giá quá thấp so với USD. Thứ hai, Chính phủ tiếp tục muốn đẩy mạnh xuất khẩu và thu hút vốn FDI. 2.3.2 Doanh nghiệp Để bù đắp quỹ lương tăng do lạm phát, các công ty phải tăng cường cắt giảm chi phí từ hoạt động không trực tiếp tạo ra lợi nhuận, hạn chế tuyển dụng nhân viên mới, sa thải những nhân viên không đáp ứng được yêu cầu của công việc. Lạm phát thúc đẩy các doanh nghiệp để giảm chi phí, quản lý tốt hơn quá trình hoạt động kinh doanh. Một vài dẫn chứng điển hình của các công ty thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông “chống chọi“ với lạm phát: * Các công ty viễn thông: Giá hàng hóa leo thang, chỉ số CPI cả năm dự báo đạt con số 20%, khiến các hãng viễn thông cũng lo ngại, việc cắt giảm chi tiêu của người dân có thể ảnh hưởng tới nhu cầu xài di động. Mấy tháng gần đây, chương trình khuyến mãi, giảm giá của các hãng di động Việt Nam không còn rầm rộ như trước, mức tiền mà doanh nghiệp tặng vào tài khoản cho mỗi thuê bao cũng không còn hấp dẫn như hồi năm ngoái. Chi phí đầu vào tăng, cùng với tốc độ trượt giá chung của nhiều nhóm hàng dịch vụ, các nhà khai thác viễn thông bắt đầu cảm nhận lạm phát đã lan đến cửa nhà mình. Điều khiến các hãng viễn thông lo lắng nhất hiện nay đó là nhu cầu xài di động của khách hàng có thể thay đổi do họ phải cắt giảm chi tiêu, hạn chế những cuộc gọi không cần thiết. Theo đó, lưu lượng cuộc gọi và tốc độ phát triển thuê bao cũng có khả năng giảm theo. VinaPhone nhẩm tính, từ đầu tháng 5 đến nay, lượng thuê bao phát triển mới của hãng bắt đầu giảm nhẹ dù công ty vẫn duy trì chương trình khuyến mãi tặng tiền vào tài khoản cho khách hàng và nhân đôi số tiền cho các chủ nạp. Hiện nay mỗi ngày 16 VinaPhone phải cố gắng tối đa mới phát triển được 30.000-35.000 thuê bao, trong khi con số của tháng 1 và 3 vào khoảng 50.000-55.000. Các chuyên gia kinh tế nhìn nhận, đối với 3 doanh nghiệp lớn như VinaPhone, MobiFone và Viettel có thể bị ảnh hưởng ít nhiều từ yếu tố lạm phát song không nhiều. Nặng nề nhất có thể kể đến đó là mạng di động HT Mobile khi nhà khai thác này vừa bước vào giai đoạn chuyển đổi công nghệ. Giá vật tư leo thang, thiết bị, nhân công đắt đỏ... sẽ khiến cho chi phí đầu tư của họ sẽ bị đội lên. * Công ty công nghệ thông tin: Trong bối cảnh cơn bão giá đang hoành hành, các công ty phần mềm một mặt tăng lương, một mặt thì “thắt lưng buộc bụng” chống chọi với lạm phát. Theo phản ánh của các DN phần mềm như công ty Misa, Past, Tinh Vân và FPT, từ đầu năm tới nay, lương cho nhân viên tăng khoảng 15-20% so với năm 2007 Tập đoàn FPT từ đầu năm đã ra hẳn một quyết sách gọi là “C10” với mục tiêu cắt giảm 10% chi phí hoạt động nhằm chống chọi với lạm phát. Để thực hiện mục tiêu này, FPT một mặt đẩy cao việc thực hiện mục tiêu doanh số, lợi nhuận, một mặt hạn chế tuyển người mới, thuyên chuyển các vị trí không đáp ứng yêu cầu, cắt giảm các hoạt động không trực tiếp tạo ra lợi nhuận và tăng cường tiết kiệm. Theo một lãnh đạo của FPT, trong chiến dịch cắt giảm chi phí, FPT đặc biệt nhấn mạnh đến vấn để sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, coi đó là chìa khoá chống lạm phát. Tính trung bình, chi phí cho một nhân viên làm phầm mềm mỗi năm lên tới 8.000 USD. Không ra quyết sách quyết liệt như FPT, công ty Tinh Vân thường xuyên tổ chức ngày văn hoá trong công ty với khẩu hiệu “thắt lưng buộc bụng” nhằm kêu gọi nhân viên tiết kiệm, chung tay chống lạm phát. Ngoài việc cắt giảm chi phí hoạt động thường xuyên, theo ông Phan Quang Minh, Trưởng phòng phát triển kinh doanh công ty Tinh vân, lạm phát đang làm thay đổi chính sách nhân sự của công ty. “Từ năm 2007 về trước, Tinh Vân tìm đủ mọi cách để níu chân những người xin ra đi nhưng nay thì khác. Những người xin đi sẽ được bộ phận nhân sự đánh giá lại, nếu là vị trí không thật xuất sắc thì không tìm cách giữ chân” ông Minh nói. Ông Lữ Thành Long, tổng giám đốc công ty Misa cho biết: từ khi lạm phát tăng cao, các hoạt động không cấp bách như đổi xe hơi đều bị cắt giảm. Bên cạnh đó, Misa đã 17 tính lại tỉ lệ tăng trưởng và lợi nhuận để hạn chế thấp nhất sự tác động của bão giá và lạm phát tới đời sống nhân viên. Tuy nhiên, bên cạnh tác động tiêu cực, theo ông Long, lạm phát là cơ hội cho Misa rà soát lại các quy trình nghiệp vụ để tăng cường hiệu quả và năng suất lao động. 2.3.3 Nông dân, người lao động nghèo Giá lương thực - thực phẩm do nông dân làm ra tăng cao hơn nhiều so với tốc độ tăng của 9 nhóm hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng khác và cao gấp rưỡi tốc độ tăng chung (năm 2007 tăng 18,92% so với tăng 12,63%, 2 tháng đầu năm 2008 tăng 10,17% so với tăng 6,02%). Nhóm hàng này hiện còn chiếm tới 42,85% tổng giá trị hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng của dân cư, nên tốc độ tăng giá của nó trở thành bộ phận quyết định đến tốc độ tăng giá chung. Đây không chỉ là vấn đề của Việt Nam mà còn là vấn đề của toàn thế giới. Giá gạo xuất khẩu bình quân 2 tháng đầu năm 2008 so với cùng kỳ năm trước tăng tới 21,7%, trong những ngày tháng 3 này còn cao gấp rưỡi, gấp đôi. Giá lúa mì nhập khẩu năm 2007 tăng 60% so với năm 2006, 2 tháng đầu năm nay tăng 55,9%. Tốc độ tăng giá lương thực, thực phẩm của Trung Quốc tháng 2.2008 so với cùng kỳ năm trước cũng đã rất cao (giá lương thực tăng trên 18%, giá thực phẩm tăng tới 29%). Giá lương thực, thực phẩm của các nước phát triển cũng tăng hai chữ số. Nguyên nhân do tác động xấu của thiên tai, dịch bệnh đối với cây trồng và gia súc, do tác động của quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa làm cho diện tích đất canh tác bị thu hẹp... gây rất nhiều khó khăn cho việc sản xuất của nông dân. Hơn nữa, nông dân hiện chiếm gần ba phần tư dân số cả nước, cũng tức là chiếm gần ba phần tư tổng số người tiêu dùng cả nước. Trong thời kỳ bao cấp, quá nửa dân số sống dưới mức đói nghèo, nên lạm phát cao đã làm cho mọi người cùng bị khổ. Bây giờ chênh lệch giàu/nghèo lớn (lên đến 8,43 lần), trong khi tỷ trọng chi tiêu cho lương thực, thực phẩm của người nghèo cao gấp đôi của người giàu, thì lạm phát cao sẽ làm cho người nghèo bị khổ hơn, trong khi người nghèo sống ở nông thôn chiếm tới trên 90% tổng số người nghèo của cả nước. Như vậy, xét về cả hai mặt (người tiêu dùng và người tiêu dùng nghèo) thì nông dân đều chiếm tỷ trọng lớn nhất, nên lạm phát cao đã làm cho nông dân, nhất là nông dân nghèo càng bị khổ. 18 Nông dân là thế, còn đối với công nhân – những người làm công ăn lương, cũng phải chịu hoàn cảnh khó khăn không kém. Tốc độ tăng lương cực kỳ chậm, nhưng giá cả mỗi bữa ăn, chi phí sinh hoạt ngày càng tăng cao chóng mặt. Hiện đã có nhiều vụ đình công do công nhân đòi tăng lương trong thời bão giá này. Và hơn hết, nếu chính phủ không sớm đưa ra những biện pháp cụ thể để ổn định đời sống công nhân và nông dân thì nước ta rất khó có thể đoàn kết toàn dân để chống chọi với căn bệnh lạm phát này. 2.3.4 Sinh viên Đời sống sinh viên ngày càng gặp nhiều khó khăn hơn khi mà giá cả leo thang. Các chi phí sinh hoạt hằng ngày tăng cao: tiền ăn, ở, đi lại, sách vở... càng làm cho giới sinh viên càng nhiều lo âu. Một vài dẫn chứng thực tế về đời sống sinh viên trước cơn bão giá: + Giá nhà cho thuê loại trung bình tại khu trung tâm TP HCM cũng nhiều phen "nhảy múa" từ đầu năm đến nay. Tại một con hẻm trên đường Lý Tự Trọng, quận 1, phòng nhỏ có diện tích chừng 10-12 m2, sử dụng toilet công cộng nhưng gia chủ đã tăng từ 650.000 lên thành 850.000 đồng một phòng, từ đầu tháng 6. Thậm chí, đối với những người ở ghép, chủ nhà còn áp dụng biện pháp nâng giá thuê lẻ thêm 50.000-100.000 đồng mỗi người một tháng. + Giá điện, nước và phí gửi xe tại các khu nhà trọ cũng vênh với giá trị thật gấp 2- 3 lần. Đơn cử, giá điện tại khu nhà trọ Trần Văn Đang, quận 3, đang được các chủ nhà trọ thu 2.500 đồng một kw. Nhiều người thuê nhà trọ tại quận Phú Nhuận, Gò Vấp đang bị thu tiền điện với mức 3.000 đồng một kw. Trên thực tế, giá điện bình quân của nhà nước tính theo bậc thang tăng dần 50-401 kw là 550-1.780 đồng một kw. + Giá nước sinh hoạt "đánh" lên đầu người ở trọ đang là 9.000-10.000 đồng một m3 hoặc khoán theo mức sử dụng 30.000-40.000 đồng một người. Trong khi đó, giá nước sạch hiện tại của Tổng công ty Cấp nước Sài Gòn đang là 2.700-8.000 đồng một m3. 2.4 Các giải pháp chống lạm pháp của chính phủ thông qua các chính sách tiền tệ và các tác động của các giải pháp này Trong thời điểm lạm phát tăng cao từng ngày, chính phủ đã đề ra rất nhiều biện pháp nhằm kiềm chế lạm phát. Mỗi thời điểm khác nhau, các chính sách này có những tác 19 động nhất định đến tình hình thị trường tài chính. Sau đây là một số biện pháp chính phủ đã thực hiện trong các giai đoạn khác nhau nhằm kiềm chế lạm phát: 2.4.1 Để kiềm chế lạm phát do chi phí đẩy, Việt Nam đã có những biện pháp tích cực như: giảm thuế nhập khẩu , dãn nợ, bù giá,...cho các doanh nghiệp nhập khẩu và sử dụng nguyên, nhiên liệu nhập khẩu... Tác động: đây cũng được coi là nguyên nhân chính đẩy CPI lên. Các biện pháp liên quan đến lạm phát chi phí đẩy, trong thực tế ít hiệu lực, vì khi giảm thuế nhập khẩu còn có độ trễ nhất định về thời gian (không phải giảm thuế nhập khẩu, các sản phẩm được sản xuất từ các nguyên liệu nhập khẩu này có thể giảm giá ngay được), mặt khác Nhà nước không kiểm soát được các Doanh nghiệp có giảm giá đúng với mức độ giảm thuế nhập khẩu, trong khi đó lại có doanh nghiệp tuy được hưởng chính sách giảm thuế nhập khẩu, nhưng giá sản phẩm sản xuất ra không những không giảm mà lại còn tăng; và trên một mức độ nhất định, Nhà nước hơi quá kỳ vọng vào biện pháp này, trong khi đã không tính toán được mức độ sẽ giữ giá hoặc giảm giá không phải chỉ với một nhóm sản phẩm mà toàn bộ nền kinh tế. Mặt khác, dùng biện pháp bù giá, đây là biện pháp không lâu dài, không có tính cơ bản vì không phù hợp với kinh tế thị trường, không làm trên phạm vi rộng (ngân sách Nhà nước không đủ sức làm việc này),... thay vì bằng trợ cấp cho nhân dân các vùng thiên tai, dịch bệnh,... 2.4.2 Các biện pháp thắt chặt tiền tệ Để thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, chỉ trong 3 tuần đầu tháng 2/2008, các ngân hàng thương mại phải thực hiện đồng thời 4 quyết định thắt chặt điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước: 1. Quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10% lên 11%, mở rộng thêm phạm vi tiền gửi dự trữ bắt buộc và Ngân Hàng Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn cũng phải thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc mới. Theo đó từ đầu tháng 2/2008 tổng cộng có gần 20.000 tỷ đồng các ngân hàng thương mại phải nộp dự trữ bắt buộc tăng thêm cho ngân hàng nhà nước. 2. Ngày 15/2/2008 ngân hàng nhà nước công bố quyết định phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu ngân hàng nhà nước bắt buộc. Ba ngân hàng thương mại Nhà nước có quy mô lớn nhất mỗi ngân hàng phải mua tới 3.000 tỷ đồng. Hai ngân hàng thương mại cổ 20 phần thuộc tốp đứng đầu phải mua 1.200 tỷ đồng và 1.500 tỷ đồng. Các ngân hàng thương mại cổ phần thuộc nhóm giữa phải mua 400 - 500 tỷ đồng/ngân hàng. Khối Ngân hàng nước ngoài có 9 chi nhánh phải mua từ 100 tỷ đồng đến 400 tỷ đồng. Hai ngân hàng liên doanh phải mua 150 tỷ đồng/ngân hàng. Không chỉ vậy, các ngân hàng phải mua 20.300 tỷ đồng trái phiếu cùng một lúc, gấp từ 20 đến 40 lần so với mức 500 tỷ - 1.000 tỷ đồng tín phiếu trong các phiên đấu thầu thường kỳ. Điều đặc biệt nữa, nếu như các loại tín phiếu trước đây được giao dịch trên thị trường mở với ngân hàng nhà nước để được vay tái cấp vốn thì quyết định lần này ngân hàng nhà nước nói rõ là không được vay tái cấp vốn. Do đó các ngân hàng thương mại khi thiếu hụt tạm thời thanh khoản không thể sử dụng tín phiếu mình đang sở hữu để vay tái cấp vốn ngắn hạn 1-2 tuần tại ngân hàng nhà nước. Kỳ hạn của tín phiếu lại khá dài tới 364 ngày, hay gần 1 năm. 3. Từ tháng 2/2008, các loại lãi suất chủ đạo của ngân hàng nhà nước tăng cao hơn trước. Theo đó, lãi suất cơ bản tăng từ 8,25%/năm lên 8,75%/năm; lãi suất tái cấp vốn tăng từ 6,5%/năm lên 7,5%/năm và lãi suất chiết khấu tăng từ 4,5%/năm lên 6,0%/năm. 4. Ngân hàng nhà nước ban hành Quyết định số 03/2008/QĐ-NHNN, ngày 1/2/2008 về sửa đổi Chỉ thị 03 về cho vay chứng khoán. Trái với mong đợi của các ngân hàng thương mại, Quyết định 03 còn thắt chặt cho vay chứng khoán hơn so với Chỉ thị 03 trước đây. Tác động: * Thắt chặt tiền tệ sẽ “tiếp thêm năng lượng” cho cuộc đua tăng lãi suất Ngay từ tháng 1-2008, tình hình vốn tiền đồng của các ngân hàng thương mại đã căng thẳng, ngay từ đầu năm mới, lãi suất liên ngân hàng đã có lúc lên đến 25%. Nhiều ngân hàng đã liên tục điều chỉnh lãi suất theo hướng tăng lên, có nơi điều chỉnh biểu lãi suất 2-3 lần trong một tháng. Như vậy, quyết định rút tiền ra khỏi lưu thông bằng tín phiếu sẽ tiếp thêm năng lượng cho cuộc đua tăng lãi suất của ngân hàng. Nhìn ở một khía cạnh nào đó, cuộc đua này sẽ khiến nhiều người bắt đầu quan tâm trở lại với việc đem tiền đi gửi ngân hàng vì lãi suất tiền đồng tăng cao trong khi thị trường chứng khoán đầu năm không có tín hiệu tốt còn thị trường bất động sản thì đang bị đánh giá là quá nóng và bị cơ quan quản lý “theo dõi” quá kỹ. 21 Tuy nhiên, nếu lãi suất huy động của ngân hàng tăng thì lãi suất đầu ra khó mà đứng yên. Như vậy, chi phí vay mượn cho sản xuất kinh doanh sẽ tăng lên. Ở đây có hai tình huống có thể xảy ra. Một là doanh nghiệp chuyển hết phần chi phí tăng thêm này vào giá bán và như vậy, giá cả không những không giảm mà tăng thêm, khiến mục tiêu giảm lạm phát bằng thắt chặt tiền tệ không thể thực hiện. Việc doanh nghiệp có thể chuyển chi phí vay mượn vào giá cả hay không phụ thuộc vào kỳ vọng lạm phát của người dân và khả năng có các nguồn hàng thay thế trên thị trường. Với quyết tâm chống lạm phát của Nhà nước và việc nền kinh tế chúng ta đang mở cửa tự do thương mại sau WTO, khả năng xảy ra tình huống này không lớn. Tuy nhiên, không vì thế mà ta có thể xem thường, không giám sát kỹ các khâu trong quá trình lưu thông hàng hóa, tránh tình trạng hàng rẻ mà doanh nghiệp vẫn thích bán giá mắc vì người dân vẫn đang trong tình trạng lo sợ tăng giá. Trong cuộc đua tranh tăng lãi suất, ngày 20/2/2008, ngân hàng thương mại Cổ Phần Đông Nam Á (Sea Bank) công bố biểu lãi suất mới được coi như “một quả bom” dội vào cuộc chạy đua cạnh tranh tăng lãi suất trên thị trường hiện nay, với mức kỷ lục là 12%/năm. Không chịu thua, ngày 21/2/2008 ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội (SHB) đưa ra chương trình siêu lãi suất, với mức lãi suất cao nhất lên tới 12,5%/năm cho kỳ hạn 1 tháng. Không chịu kém, từ ngày 22/2/2008, ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB) đưa ra mức lãi suất cao hơn, huy động vốn kỳ hạn 12 tháng với lãi suất tới 13,5%/năm. Một số ngân hàng thương mại còn đưa ra mức lãi suất thoả thuận tới 1,2% đến 1,3%/tháng đối với khách hàng gửi tiền với khối lượng lớn, hay giữ chân khách hàng rút tiền tới hàng tỷ đồng. Đây được coi là mức lãi suất “cực kỳ nguy hiểm” vì nó làm cho nhiều người nhớ đến mức lãi suất tiền gửi lên quá cao cách đây 20 năm khi xảy ra cơn đổ vỡ gần 6.000 quỹ tín dụng và hợp tác xã tín dụng, trong thời điểm lạm phát lên tới 200% - 300% trong các năm 1987 - 1988 ở nước ta. Còn ngân hàng thương mại Cổ Phần An Bình thì tăng cao lãi suất nhưng chủ yếu ở kỳ hạn ngắn: 1 tuần, 2 tuần và 3 tuần… Lãi suất tiền gửi VND kỳ hạn 4 tuần lên tới 7,8%/năm. Tiếp theo, một phản ứng dữ dội hiếm thấy và cũng được coi là rất nguy hiểm khi lãi suất nghiệp vụ thị trường mở và lãi suất liên ngân hàng tăng cao chóng mặt. Đặc biệt 22 lãi suất liên ngân hàng ngày 15/2/2008 lên tới 30,1%/năm; ngày 18/2/2008 lập một kỷ lục mới khi lên tới 33%/năm, ngày 19/2/2008 kỷ lục cao hơn nữa lên tới 43%/năm… Lãi suất thị trường mở qua đấu thầu giấy tờ có giá ngắn hạn tại ngân hàng nhà nước lên tới 10% thậm chí 15%/năm cho kỳ hạn vay chỉ có 2 tuần, gấp 2-3 lần mức lãi suất bình thường. Thị trường "căng" đến mức ngày 22/2/2008 ngân hàng nhà nước phải bơm thêm 6.000 tỷ đồng qua nghiệp vụ thị trường mở cho một số ngân hàng thương mại trúng thầu, với lãi suất tới 13%/năm của kỳ hạn 14 ngày, giảm 2% so với mức 15%/năm của ngày 21/2/2008. Tính tổng cộng chỉ trong 1 tuần, ngân hàng nhà nước phải bơm ra tới 39.000 tỷ đồng, mức hỗ trợ thanh khoản chưa từng có trong lịch sử can thiệp của ngân hàng nhà nước từ trước đến nay, bằng trên 50% so với mức 61.133 tỷ đồng mua vào giấy tờ có giá ngắn hạn của cả năm 2007. Tuy nhiên hầu như chỉ có các ngân hàng thương mại Nhà nước, một số ít ngân hàng thương mại cổ phần quy mô lớn, một số chi nhánh Ngân hàng nước ngoài có điều kiện đang sở hữu tín phiếu ngân hàng nhà nước và Tín phiếu Kho bạc Nhà nước, trái phiếu đô thị TP.HCM,… thì mới có cơ hội vay với khối lượng lớn vốn đó, còn phần đông các ngân hàng thương mại cổ phần thì không. Do đó các ngân hàng thương mại cổ phần quy mô nhỏ và trung bình phải đi vay lại trên thị trường liên ngân hàng khoản vay của các ngân hàng thương mại đó với lãi suất từ 30% đến 43%/năm, gấp 2 – 3 lần lãi suất “họ” vay được của ngân hàng nhà nước. Không phải làm gì, các ngân hàng thương mại Nhà nước kiếm được các khoản lãi lớn. Một tình trạng vốn chạy lòng vòng đẩy lãi suất lên cao trong nền kinh tế hiện nay, rõ ràng tác động tiêu cực chung đến tăng trưởng GDP, đến hiệu quả nền kinh tế và tính an toàn của hệ thống ngân hàng thương mại. Còn trong tình huống thứ hai, đó là chi phí sản xuất kinh doanh tăng lên, mà doanh nghiệp không thể chuyển phần chi phí này vào giá bán thì họ sẽ chịu nhiều khó khăn, có thể dẫn đến thua lỗ, và giảm quy mô kinh doanh. Điều này tạo áp lực lên tăng trưởng và việc làm. * Tạo áp lực lên tăng trưởng và việc làm Trong tình hình các nhà phân tích và tổ chức quốc tế đều điều chỉnh dự báo tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế chủ ch

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfBai hoan chinh.pdf
Tài liệu liên quan