Đề tài Thực trạng tổ chức bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU - 1 -

CHƯƠNG I - 3 -

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI - 3 -

1.1. Khái niệm BHXH. - 3 -

1.2. Bản chất của BHXH. - 3 -

1.3. Đối tượng tham gia của BHXH. - 3 -

1.4. Các mối quan hệ trong BHXH. - 4 -

CHƯƠNG II - 7 -

THỰC TRẠNG TỔ CHỨC BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - 7 -

2.1. Mô hình tổ chức BHXH. - 7 -

2.2. Thực trạng công tác thu và chi BHXH. - 7 -

2.2.1. Công tác thu. - 7 -

2.2.2. Công tác chi. - 10 -

2.3. Quản lý BHXH. - 11 -

2.3.1. Công tác đàu tư và bảo hiểm xã hội toàn tăng trưởng quỹ BHXH. - 11 -

2.3.2. Công tác kiểm tra BHXH. - 15 -

2.3.3. Công tác cấp sổ BHXH. - 16 -

2.3.4. Công tác tổ chức cán bộ. - 17 -

2.3.5. Công tác thông tin tuyên truyền. - 18 -

2.3.6. Ứng dụng công nghệ tin học vào quản lý. - 19 -

CHƯƠNG III - 20 -

KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC TỔ CHỨC BHXH - 20 -

3.1. Nhận xét về quá trình thực hiện BHXH. - 20 -

3.2. Kiến nghị. - 21 -

KẾT LUẬN - 24 -

TÀI LIỆU THAM KHẢO - 25 -

 

 

doc26 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 5332 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng tổ chức bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i sử dụng lao động cũng thực hiện san sẻ rủi ro với những tập đoàn người sử dụng lao động để đảm bảo hiểm xã hội quá trình sản xuất của họ không bị ảnh hưởng khi phát sinh ngu cầu BHXH. + Nhà nước tham gia BHXH với tư cách là người bảo hộ cho hoạt động quỹ bảo hiểm xã hội. Bảo đảm giá trị của đồng vốn và hỗ trợ quỹ bảo hiểm xã hội trong những trường hợp cần thiết. Ngoài ra Nhà nước tham gia bảo hiểm xã hội còn với tư cách là một chủ thể quản lý định ra những chế độ, những chính sách, những định hướng cho các hoạt động bảo hiểm xã hội. * Bảo hiểm xã hội đó là bên nhận bảo hiểm xã hội từ những người tham gia bảo hiểm xã hội. Bên bảo hiểm xã hội là một tổ chức do nhà nước đã lập ra nhận đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động, lập quỹ bảo hiểm xã hội. Bên bảo hiểm xã hội có trách nhiệm thực thi trả trợ cấp cho bên được bảo hiểm xã hội khi có nhu cầu phát sinh và làm cho quỹ bảo hiểm xã hội phát triển. * Bên được bảo hiểm xã hội là người lao động tham gia bảo hiểm xã hội và người thân của họ. Bên được bảo hiểm xã hội được quyền nhận trợ cấp khi phát sinh nhu cầu bảo hiểm xã hội để bù đắp những thiếu hụt về thu nhập do các rủi ro được bảo hiểm gây ra. Giữa các bên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong nền kinh tế thị trường bên tham gia bảo hiểm xã hội có thể đồng thời là bên được bảo hiểm xã hội. Đối với người lao động độc lập, họ vừa là người tham gia bảo hiểm xã hội vừa là người được hưởng quyền lợi bảo hiểm xã hội vì họ đóng phí bảo hiểm cho chính họ. Tóm lại : Bảo hiểm xã hội thể hiện mối quan hệ tổng thể giữa nhà nước, người sử dụng lao động, người lao động và thể hiện tính nhân văn cao cả trong việc chia sẻ rủi ro và ổn định cuộc sống cho người lao động. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG TỔ CHỨC BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1. Mô hình tổ chức BHXH. Theo nghị định 19 của Chính phủ ban hành ngày 16-2-1995 thì hệ thống BHXH được thành lập dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng chính phủ. Chính phủ giao cho Bộ lao động – Thương binh và xã hội xây dựng trình Chính phủ và quốc hội ban hành pháp luật về BHXH. Đồng thời Bộ Lao động – Thương binh và xã hội chịu trách nhiệm trước Chính phủ - quản lý nhà nước về BHXH. Bảo hiểm xã hội Việt Nam là cơ quan quản lý về sự nghiệp BHXH. Do vậy nó có nhiệm vụ và quyền hạn sau: - Tổ chức thu BHXH và tổ chức chi trả BHHX cho các đối tượng được hưởng. - Xây dựng và tổ chức thực hiện những dự án và các biện pháp bảo hiểm xã hội tồn và tăng trưởng quỹ BHXH. - Kiểm tra thực hiện thu chi và giải quyết các khiếu nại về BHXH. Về mặt tổ chức thì BHXH được hình thành theo một hệ thống dọc từ trung ương đến địa phương và chia làm 3 cấp. Đứng đầu là Bảo hiểm xã hội Việt Nam, sau đó là BHXH cấp tỉnh và BHXH cấp huyện. 2.2. Thực trạng công tác thu và chi BHXH. 2.2.1. Công tác thu. Đây là nhiệm vụ được xác định là nhiệm vụ quan trọng nhất, có tính quyết định hình thành, tồn tại và tăng trưởng quỹ BHXH. Vì vậy, ngay từ khi nhận bàn giao về số lượng các đơn vị, cơ quan đóng trên địa bàn và số lượng người lao động, cơ quan BHXH các tỉnh, thành phố phải tập trung nắm và kê khai đầy đủ để lên kế hoạch cho phù hợp. * Nội dung chính của công tác quản lý thu BHXH bao gồm: - Quản lý các đơn vị sử dụng lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc theo địa bàn hành chính huyện, tỉnh kể cả những người buôn bán nhỏ, hộ sản xuất kinh doanh trong các làng nghề truyền thống có thuê từ một lao động trở lên. - Quản lý danh sách lao động trong từng đơn vị có hợp đồng lao động từ 3 tháng trở lên. - Quản lý mức lương hoặc tiền công theo hợp đồng của từng người lao động làm căn cứ đóng BHXH. - Quản lý tổng quỹ tiền lương, tiền công của số lao động tham gia BHXH. - Quản lý mức đóng BHXH của từng đơn vị và từng người lao động trên cơ sở danh sách tham gia BHXH của từng đơn vị, mức lương hoặc tiền công của từng người lao động và tổng quỹ lương của những người tham gia BHXH trong từng đơn vị. Tất cả các chỉ tiêu này phải ăn khớp với nhau thì BHXH ở Việt Nam mới chấp nhận. - Cấp sổ cho người lao động và hàng năm ghi bổ sung vào sổ BHXH theo các tiêu thức ghi trong sổ. - Lập dự toán thu BHXH cho năm sau. - Tổ chức thu BHXH. Đây là nội dung chính của công tác quản lý thu BHXH. Hiện nay, BHXH Việt Nam đang áp dụng hai hình thức thu BHXH: + Thu qua tài khoản: là hình thức các đơn vị sử dụng lao động hàng tháng nộp tiền BHXH vào tài khoản của BHXH Việt Nam mở tại ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn. Đây là hình thức thu chủ yếu của BHXH Việt Nam. + Thu bằng tiền mặt: Hình thức này chủ yếu áp dụng đối với thu BHYT tự nguyện. Từ 01/01/2008, thực hiện loại hình BHYT tự nguyện thì cũng có thể phải áp dụng hình thức thu qua tài khoản đối với các đối tượng này. Nhưng dù thu qua tìa khoản hay thu bằng tiền mặt thì tất cả mọi người thu đều được tập trung vào tài khoản của BHXH Việt Nam. * Quy trình quản lý thu BHXH: - Đối với các đơn vị sử dụng lao động lần đầu tiên tham gia BHXH, quy trình quản lý thu BHXH gồm các bước công việc theo thứ tự sau: + Công văn gửi BHXH tỉnh, thành phố xin đăng ký tham gia BHXH. + Lập bảng kê khai danh sách số lao động tham gia BHXH. + Sauk hi nhận được hồ sơ của đơn vị sử dụng lao động, BHXH tỉnh, thành phố thẩm định tính hợp lệ của hồ sơ, đặc biệt phải tính toán kỹ mức đóng BHXH của từng người lao động và tổng mức đóng BHXH của cả đơn vị, sau đó tiến hành cấp sổ và tổ chức thu BHXH. - Đối với các đơn vị sử dụng lao động đang tham gia BHXH, quy trình quản lý thu BHXH gồm các bước sau: + Lập bảng kê khai danh sách lao động tham gia BHXH. + Lập bảng kê khai tăng, giảm lao động và quỹ lương đóng BHXH. + BHXH tỉnh tiến hành thẩm định bảng kê khai của đơn vị sử dụng lao động và tiến hành thu BHXH, cấp sổ BHXH bổ sung cho các đối tượng mới tham gia BHHX. - Quy trình nộp tiền BHXH: + Hàng tháng, đơn vị sử dụng lao động trích từ tiền lương hoặc tiền công của người lao động và trích tỷ lệ phần trăm tổng quỹ lương của những người tham gia BHXH thuộc trách nhiệm đóng BHXH của người sử dụng lao động theo mức trích quy định tại Luật BHXH (trong đó, đơn vị giữ lại 2% của quỹ ốm đau, thai sản để kịp thời chi trả chế độ) nộp vào tài khoản chuyên thu BHXH của BHXH huyện. Từ ngày 10 đến 25 hàng tháng, BHXH huyện chuyển số tiền mà các đơn vị đã nộp lên tài khoản chuyên thu BHXH tỉnh. Riêng tháng cuối năm chuyển toàn bộ số tiền thu BHXH của huyện lên BHXH trước 24h ngày 31/12. Hàng tháng từ ngày 10 đến ngày 20 và ngày cuối tháng, cơ quan BHXH tỉnh chuyển tiền thu BHXH của tỉnh về tài khoản chuyên thu của BHXH Việt Nam. Nếú số dư trên tài khoản của tiền vượt quá 5 tỷ đồng thì BHXH tỉnh phải chuyển về tài khoản của BHXH Việt Nam, ngay trong ngày. Riêng tháng cuối năm, BHXH tỉnh phải chuyển hết số tiền thu BHXH về BHXH Việt Nam trước 24h ngày 31/12. 2.2.2. Công tác chi. Chi BHXH là quá trình phân phối, sử dụng quỹ BHXH để chi trả cho các chế độ BHXH nhằm ổn định cuộc sống của người tham gia BHXH và đảm bảo hiểm xã hội các hoạt động của BHXH Việt Nam. * Quản lý chi BHXH bao gồm các nội dung chủ yếu sau: - Quản lý đối tượng được hưởng các chế độ BHXH. - Quản lý điều kiện hưởng và mức hưởng BHXH hàng tháng của các đối tượng được hưởng BHXH. - Quản lý việc chi trả cho các chế độ BHXH. - Lập báo cáo quyết toán, báo cáo thống kê tình hình chi trả trợ cấp BHXH theo quy định của Luật kế toán và Luật Thống Kê. * Công tác chi trả thường xuyên hàng tháng: - Hàng năm, BHXH huyện lập dự toán chi trả BHXH của các đối tượng trên địa bàn gửi BHXH tỉnh, BHXH tỉnh tổng hợp dự toán chi toàn tỉnh gửi BHXH Việt Nam. - Sau khi dự toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt, BHXH Việt Nam chuyển tiền về tài khoản của BHXH tỉnh, sau đó BHXH tỉnh chuyển tiền về BHXH huyện theo tiến độ chi trả. - Hàng tháng, BHXH huyện thông báo danh sách đối tượng tăng, giảm về BHXH tỉnh. BHXH căn cứ vào danh sách chi trả tháng trước, danh sách chi tăng, giảm của huyện để lập danh sách, chi trả gửi BHXH huyện. Căn cứ vào danh sách chi trả của BHXH tỉnh gửi xuống, BHXH huyện tiến hành chi trả trợ cấp cho từng người theo mức trợ cấp mà BHXH tỉnh đã ghi trong danh sách chi trả. Danh sách chi trả được thành lập hàng và được coi là lệnh chi trả mà BHXH tỉnh giao cho BHXH huyện phải tổ chức thực hiện công tác chi trả. - Sau khi nhận được danh sách chi trả của BHXH tỉnh gửi xuống, BHXH huyện tiến hành các nghiệp vụ chi trả. - Sauk hi nhận được danh sách chi trả của BHXH tỉnh gửi xuống, BHXH huyện tiến hành các nghiệp vụ chi trả. - Kết thúc việc chi trả, BHXH huyện lưu danh sách chi trả có chữ ký của người nhận tiền tại BHXH huyện đồng thời báo cáo tổng số tiền đã chi trả về BHXH tỉnh, tỉnh tổng hợp các huyện và báo cáo các cơ quan cấp trên theo quy định. * Các khoản chi một lần, chi ngắn hạn của chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tử tuất, BHXH Việt Nam có trách nhiệm chi kịp thời cho đối tượng. * Chi trả quỹ ốm đau, thai sản: Hàng tháng, chỉ sử dụng đóng 2% của quỹ tiền lương, tiền công đóng vào quỹ ốm đau, thai sản và được tạm giữ lại để chi trả kịp thời cho những người tham gia BHXH trong đơn vị bị ốm đau, thai sản theo quy định tại Luật BHXH. Hàng quý, các đơn vị sử dụng lao động phải quyết toán với cơ quan BHXH số tiền đã chi. Phần thiếu hoặc thừa sẽ được thanh toán vào tháng đầu của quý sau. 2.3. Quản lý BHXH. 2.3.1. Công tác đàu tư và bảo hiểm xã hội toàn tăng trưởng quỹ BHXH. Một đặc điểm của quỹ BHXH ở nước ta là được hình thành chủ yếu là sự đóng góp của chủ sử dụng lao động và người lao động, được dồn tích qua nhiều năm và có tính chất chuyển giao sử dụng giữa các thế hệ. Vì vậy quỹ có số dư tạm thời nhàn rỗi tương đối lớn trong một khoảng thời gian dài. Số dư trong quỹ BHXH lớn không có nghĩa là dư thừa như một số người hiểu nhầm mà một trong những đặc điểm của quỹ BHXH là thời gian chi rất dài và có xu hướng tăng lên rất nhanh. Đó là chưa kể đến mức sống dân cư không ngừng tăng nên đòi hỏi mức trợ cấp cũng phải được điều chỉnh càng làm cho quỹ BHXH phải chi nhiều hơn. Với mức đóng góp hiện nay và không có sự thay đổi về chính sách thì theo các chuyên gia tài chính chỉ đến năm 2015 là quỹ BHXH không đủ khả năng thanh toán. Do vậy cần thiết phải có chiến lược ngay từ bây giờ song song với việc nâng mức đóng góp, BHXH cần phải tăng cường công tác đầu tư để tăng trưởng quỹ. Khi tiến hành đầu tư quỹ BHXH phải tuân thủ các nguyên tắc sau: - Tính hiệu quả, độ an toàn cao. - Đảm bảo khả năng thanh toán, và lợi ích xã hội. Hiện nay, theo quy định của Chính phủ cho phép đầu tư vào các lĩnh vực sau: - Mua trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, công trái của Kho bạc Nhà nước và của các Ngân hàng thương mại của Nhà nước. - Cho các Ngân hàng phát triển Việt Nam và Ngân hàng chính sách xã hội vay. - Cho ngân hang thương mại của Nhà nước vay. - Đầu tư vào các công trình kinh tế trọng điểm quốc gia. - Các hình thức đầu tư khác do pháp luật quy định. Sở dĩ nhà nước quy định những lĩnh vực này là do đây là những lĩnh vực có ít rủi ro, lãi ổn định đảm bảo hiểm xã hội khả năng chi trả cho cơ quan BHXH. Tổng số tiền nhàn rỗi cho vay tính đến 31/12/2008 là 4.072.069 triệu đồng (nguồn: Thống kê tài chính BHXH Việt Nam năm 2008) trong đó: - Bộ tài chính (kho bạc): 1.047.636 triệu đồng. - Ngân hang công thương Việt Nam: 350 tỷ. - Ngân hàng nông nghiệp và phát triển Việt Nam: 400 tỷ đồng. - Quỹ hỗ trợ phát triển quốc gia 300 tỷ. - Tổng cục đầu tư và phát triển 700 tỷ. - Mua tín phiếu và kỳ phiếu 643.433 triệu đồng. Số lãi đến ngày 31/12/2008 là 209,719 tỷ. Tổng thu từ quý 4/2005 đến 31/12/2008 là 4.045.892 triệu đồng. Số dư tài khoản tính đến 31/12/2008 là 15.622.942 triệu đồng. Lãi thu được tính đến 31/12/2008 là 2.172.250 triệu đồng. Ngoài những kết quả đã đạt được thì chúng ta còn thấy rằng hoạt động đầu tư trong thời gian còn đơn giản và nghèo nàn về khối lượng vốn cho vay và lãi suất. Nhìn chung hoạt động đầu tư trong những năm qua thì phần sinh lời cũng chỉ bằng phần trượt giá tức là hoạt động đầu tư chỉ bảo được vốn. Số vốn nhà dỗi của bảo hiểm xã hội tăng nên chủ yếu là nhờ hoạt động thu được mở rộng. Bên cạnh đó nền kinh tế non kém, khả năng hấp thụ vốn là khả năng sinh lời của nền kinh tế là chưa cao, thị trường tài chính tiền tệ chưa phát triển đồng bộ. BHXH Việt Nam chưa có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh đủ khả năng hậu thuẫn cho hoạt động đầu tư, chưa có tổ chức chuyên trách BHXH Việt Nam trực tiếp thực hiện các hoạt động đầu tư. Thiếu các chuyên gia giỏi trong lĩnh vực phân tích đầu tư, phân tích kinh tế, toán bảo hiểm xã hội hiểm và cuối cùng là mối quan hệ của BHXH Việt Nam với các tổ chức BHXH các nước còn hạn chế. Trong những năm tới đòi hỏi việc đầu tư có hiệu quả để không chỉ bảo hiểm xã hội toàn mà còn tăng trưởng quỹ BHXH. Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu chi trả trong tương lai ngày một cao, tạo điều kiện cân đối quỹ. Cùng với phát triển nền kinh tế thị trường để đầu tư vốn nhà rỗi đạt hiệu quả cao BHXH cần giải quyết tốt các vấn đề sau: Thứ nhất: Cần phải xác định rõ nguồn vốn đầu tư. Nguồn vốn đầu tư là số nhàn rỗi từ quỹ BHXH, nó dùng để đầu tư vào các loại tài sản chính (ngắn hạn và dài hạn). Ta cần chia nguồn vốn đầu tư thành 2 loại: + Nguồn đầu tư ngắn hạn. + Nguồn đầu tư dài hạn. Nguyên tắc là vốn đầu tư dài hạn chỉ được phép đầu tư vào các tài sản đầu tư tài chính dài hạn hoặc ngắn hạn. Còn các nguồn vốn ngắn hạn chỉ được đầu tư vào các tài sản tài chính ngắn hạn. Thứ hai: Quy định rõ danh mục đầu tư và hạn mức đầu tư cho từng danh mục. Để đầu tư an toàn và có lợi nhuận cao ngoài những danh mục đầu tư theo quy định của Chính phủ. Nhà nước cần cho phép BHXH được quyền xem xét lựa chọn các phương án đầu tư thích hợp. Tuy nhiên việc quy định các danh mục các danh mục và hạn mức đầu tư cần phải đảm bảo hiểm xã hội khả năng an toàn vốn, hạn chế thấp nhất rủi ro có thể xảy ra trong quá trình đầu tư, ưu tiên đầu tư vốn với tỉ trọng cao và những lĩnh vực đem lại lợi nhuận cao và thu hồi vốn nhanh. Trong các danh mục đầu tư cũng phải nhận định rõ danh mục đầu tư dài hạn và danh mục đầu tư ngắn hạn. Thứ ba: Đa dạng hoá loại hình và công cụ đầu tư. Chính phủ ưu tiên cho quỹ BHXH được đầu tư vào các dự án lớn có tầm chiến lược quốc gia theo hình thức liên doanh và góp cổ phần vào các ngành khai thác chế biến dầu khí, khu công nghiệp. Thứ tư: Phải có quan điểm đánh giá dự án đầu tư một cách đúng đắn. Trước khi lập phải đánh giá so sánh các dự án đầu tư, nắm rõ các mục tiêu đầu tư quỹ BHXH. Thứ năm: Thành lập tổ chức chuyên trách thực hiện đầu tư quỹ BHXH. BHXH Việt Nam sớm đề nghị thành lập tổ chức chuyên trách giúp đỡ cho tổng giám đốc BHXH Việt Nam thực hiện các hoạt động đầu tư. Hình thức thành lập có thể là công ty con hay là thành lập một ban chuyên trách trực thuộc. Trước tiên nên thành lập ban đầu tư và cơ cấu tổ chức nên học tập kinh nghiệm của quỹ EPF. Thứ sáu: Nhà nước cần tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư như các chính sách ưu tiên về thuế, ưu đãi về các điều kiện để tham gia dự án đầu tư có khả năng sinh lời cao. 2.3.2. Công tác kiểm tra BHXH. Để góp phần thực hiện tất chính sách BHXH đảm bảo thực hiện đầy đủ về chế độ quản lý tài chính, kịp thời phát hiện, ngăn chặn sử lý hiện tượng sai phạm, tiêu cực trong công tác BHXH. Trong 6 tháng đầu năm 2008 BHXH các tỉnh thành phố trong cả nước đã thực hiện 1203 đợt kiểm tra bao gồm các lĩnh vực về nghiệp vụ BHXH. Công tác này được BHXH các tỉnh, thành phố chủ động thực hiện thường xuyên, có sự chuẩn bị nghiêm túc theo kế hoạch định kỳ hàng tháng, quý, đặc biệt là BHXH các tỉnh rất chú trọng phối hợp với các ban ngành ở địa phương. Tại TP HCM ngành BHXH đã tiến hành 53 đợt kiểm tra độc lập ở 46 đơn vị sử dụng lao động, 4 BHXH ở quận huyện, 3 đại diện chi trả của phường. Tại TP Hải Phòng BHXH thành phố trực tiếp kiểm tra 7 doanh nghiệp và BHXH các huyện. Trong công tác điều tra đã phát hiện nhiều hiện tượng gây thất thoát cho nhà nước như: - Còn nhiều doanh nghiệp doanh nghiệp vi phạm pháp luật thực hiện đóng BHXH cho người lao động. + Khai giảm số lao động phải tham gia BHXH. + Chậm đóng BHXH và tình trạng nợ đọng BHXH cho người lao động. - Còn tồn đọng một số đối tượng hưởng chính sách giả mạo hồ sơ để hưởng BHXH, số này nằm trong danh sách đối tượng do các địa phương bàn giao cho BHXH Việt Nam. - Lập chứng từ gia để thanh toán chế độ ốm đau, thai sản, vừa hưởng BHXH vừa hưởng tiền lương. Do làm tốt công tác kiểm tra nên 6 tháng đầu năm 2008 ngành BHXH trung thu được về quỹ BHXH trên 13 tỷ 442 triệu đồng. 2..3.3. Công tác cấp sổ BHXH. Thực hiện điều 43 điều lệ BHXH từ tháng 6/1996, BHXH Việt Nam đã triển khai cấp sổ trên phạm vi toàn quốc. Một trong những yêu cầu của công tác cấp sổ là phải căn cứ vào hồ sơ gốc và quá trình làm việc của người lao động. Nhưng trên thực tế có nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan nên các quy định về lập lưu trữ hồ sơ cán bộ công nhân viên chức chi trả trong thời gian qua chưa có những quy định cụ thể và chưa được quan tâm đúng mức nên số lao động bị mất hoặc bị thất lạc hồ sơ chiếm 30% đã ảnh hưởng đến tiến trình cấp sổ BHXH. Quan công tác khảo sát tình hình thực hiện ở các cấp, quản lý và sử dụng sổ BHXH của đơn vị lao động và cơ quan BHXH ở một số tỉnh thấy còn nhiều trường hợp ghi ký xác nhận nhầm. Sổ BHXH ghi sai tháng năm tiếp nhận sai tháng năm nâng lương, di chuyển công tác. Tính đến 31/12/2008 tổng số người đăng ký cấp sổ là 9,311 triệu người. Số sổ đã cấp cho người lao động tính đến 31/12/2008 là 6,3 triệu đồng đạt 66%. Qua công tác cấp sổ BHXH xuất hiện một đòi hỏi là đẩy mạnh hơn nữa cải cách hành chính, chấn chỉnh công tác quản lý cản bộ, quản lý hồ sơ và hợp đồng lao động. Xác định của cơ quan tổ chức thuộc các cấp các ngành, các đơn vị về công tác BHXH, phối hợp với cơ quan BHXH làm tốt công tác quản lý cấp sổ BHXH. 2.3.4. Công tác tổ chức cán bộ. Đây là nhân tố hết sức quan trọng quyết định hiệu quả hoạt động trong việc thực hiện nhiệm vụ chính của toàn cảnh. Vì vậy ngay từ đầu hệ thống BHXH rất chú trọng đến việc tổ chức bộ máy, cơ cấu phòng ban chức năng nhiệm vụ và nhân sự ở tất cả các cấp từ trung ương đến BHXH, huyện, thị xã. Đội ngũ cán bộ chủ chốt của BHXH được hình thành và bổ nhiệm dựa trên cơ sở giới thiệu của tỉnh uỷ, thành uỷ, uỷ ban nhân dân các thành phố, hai nghành lao động thương binh xã hội và liên đoàn lao động Việt Nam. Đội ngũ cán bộ công nhân viên chức trong ngành có đủ trình độ, có độ tuổi trung bình trẻ tuổi có ý thức phấn đấu trao đổi nghiệp vụ, đoàn kết có trách nhiệm với công việc được giao. Bên cạnh những việc cơ bản đã làm được như nhanh chóng ổn định tổ chức, nhân sự và hướng dẫn nghiệp vụ, quản lý về mặt công tác của ngành. Tuy nhiên việc tổ chức cán bộ đã bộc lộ những điểm yếu: - Đội ngũ cán bộ công chức được tập hợp chủ yếu do bàn giao từ hệ thống lao động thương binh xã hội và tổng liên đoàn lao động Việt Nam và tiếp nhận bổ sung từ nhiều nguồn không đồng đều với trình độ chuyên môn và năng lực. Phần lớn cán bộ công chức đào tạo có hệ thống, trưởng thành do tích luỹ kinh nghiệm lâu năm trong ngành, quen với cách làm việc theo cơ chế tập chung quan lieu bao cấp. Đội ngũ cán bộ công chức nhìn chung trình độ học vấn chưa cao tỷ lệ đại học chỉ chiếm 30%. Số có trình độ sơ cấp chiếm tỷ lệ đáng kể, thiếu cán bộ công chức hiểu biết sau về chế độ chính sách, lao động tiền lương, tài chính. - Đội ngũ cán bộ chủ chốt đã phải dàn phải để đảm đương nhiệm vụ trong bối cảnh chuyển đối cơ chế, chuyển đổi tổ chức, không có thời gian chuẩn bị đội ngũ nhưng phải bảo đảm hoạt động liên tục, không ách tắc trong việc thực hiện chế độ chính sách BHXH đối với tượng tham gia BHXH. 2.3.5. Công tác thông tin tuyên truyền. Việc tuyên truyền giải thích nhằm nâng cao nhận thức về BHXH của người lao động và chủ sử dụng lao động có một ý nghĩa hết sức quan trọng và cấp bách trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế thực hiện chế độ chính sách BHXH ngày nay. Thiết nghĩ đây không chỉ là công việc của ngành BHXH mà nhiệm vụ chung của nhiều ngành, nhiều cấp, toàn xã hội. Bởi vì đây là việc tuyên truyền giải thích chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Để nâng cao hiệu quả tuyên truyền thì trước hiêt phải xác định rõ nội dung tuyên truyền, phải tuyên truyền giải thích về bản chất, nội dung chính sách BHXH, các chế độ BHXH. Sử dụng một số hình thức tuyên truyền khác nhau để có thể phù hợp với nhận thức, tâm lý và trình độ của họ. Đối với người lao động nên sử dụng hình thức trựuc quan sinh động như truyền hình, sách hỏi đáp về BHXH, và các loại ấn phẩm tuyên truyền như áp phích, tranh cổ động, lịch, vật lưu niệm, thông qua các cuộc tìm hiểm BHXH. Đặc biệt là các nội dung tuyên truyền cổ động, dễ hiểu, hấp dẫn và các ấn phẩm tuyên truyền cần được phổ cập rộng rãi đến tận người lao động, người sử dụng lao động, phát hành tạp chí BHXH. Mặc dù đã làm được những công việc trên nhưng có thể khẳng định rằng công tác tuyên truyền của BHXH Việt Nam còn yếu về nội dung và phương thức tuyên truyền chưa đáp ứng được nhu cầu, thiếu kinh phí cho hoạt động tuyên truyền. Để tăng cường đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ giữa BHXH và cơ quan thông tin đại chúng, hệ thống tổ chức công đoàn và các cơ quan khác trong xã hội có như vậy chúng ta sẽ đạt được hiệu quả như mong muốn. 2.3.6. Ứng dụng công nghệ tin học vào quản lý. Ứng dụng công nghệ tin học vào quản lý là việc làm mới triển khai, cơ sở vật chất và kinh phí còn nhiều hạn chế. Nhưng do ý thức được tầm quan trọng của việc ứng dụng công nghệ tin học vào công tác của ngành nên ngay từ đầu đã triển khai làm thí điểm ở một số địa phương trong việc quản lý hồ sơ, quản lý đối tượng hưởng. . . trên hệ thống máy tính. Năm 2001, BHXH Việt Nam đã triển khai dự án trang bị hệ thống máy tính trị giá 1,5 tỷ đồng bao gồm các loại máy tính có nối mạng giữa các phòng ban và giữa BHXH các tỉnh với BHXH. Cho đến thời điểm hiện nay việc ứng dụng công nghệ tin học trong quản lý ngành đã được triển khai đồng bộ ở hầu hết các cơ quan BHXH từ trung ương đến cấp huyện. Việc làm này đã mang lại hiệu quả rất lớn trong việc quản lý hồ sơ, đối tượng hưởng, đối tượng tham gia. . .và rất nhiều vấn đề khác. Nó đã góp phần làm giảm gánh nặng cho các cán bộ làm về BHXH, các thủ tục cũng như việc giải quyết chế độ được tiến hành một cách nhanh chóng và chính xác. Tuy nhiên, việc ứng dụng công nghệ tin học vào quản lý chưa được thực hiện một cách đồng bộ. Trong quá trình triển khai còn nảy sinh rất nhiều những thiếu sót. Bên cạnh đó, nó đòi hỏi đội ngũ cán bộ cán bộ công nhân viên phải có trình độ tin học tương đối cơ bản mới có thể vận hành và sử dụng được. Chính vì vậy, nó đã gay ra không ít khó khăn cho đội ngũ cán bộ BHXH. CHƯƠNG III KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC TỔ CHỨC BHXH 3.1. Nhận xét về quá trình thực hiện BHXH. Qua việc tổ chức và thực hiện nhiệm thu BHXH, chi trả các đối tượng hưởng BHXH, xét duyệt hồ sơ hưởng BHXH. BHXH Việt Nam rút ra một số nhận xét sau về việc triển khai BHXH trong những năm qua. - Phải xác định công tác BHXH có tính chất chính trị kinh tế - xã hội tổng hợp nhằm phục vụ mọi người lao động tham gia BHXH. Vì vậy cán bộ làm công tác BHXH trước hết phải hiểu biết về chế độ chính sách BHXH và các chính sách khác có liên quan, đồng thời phải thường xuyên bám sát cơ sở, phải biết vận dụng linh hoạt, các chế độ chính sách BHXH trong từng trường hợp cụ thể, phải biết làm công tác vận động quần chúng để làm cho mọi người lao động biết và tự giác chấp hành các quy định của Nhà nước về chế độ chính sách BHXH. - Cơ quan BHXH phải biết tranh thủ sự chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, chính quyền từ trung tương đến địa phương, sự phối hợp và tao điều kiện để tổ chức công đoàn các cấp thực hiện sựu giám sát việc thực hiện các chế độ chính sách BHXH của cơ quan BHXH của người lao động và các đơn vị sử dụng lao động, đồng thời phải chủ độngphối hợp xây dựng và tạo ra mối quan hệ công tác chặt chẽ và thường xuyên với các ban ngành có chức năng có liên quan. - Phải thường xuyên quan tâm và có mối quan hệ chặt chẽ với các cấp uỷ đảng, chính quyền và các đại lý chi trả ở xã phường, phải coi các địa lý chi trả xã phường là một bộ phận rất quan trọng không thể thiếu trong hoạt động chi trả của cơ quan BHXH. - Phải đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, công tác này phải được tiến hành thường xuyên bằng nhiều hình thức với các nội dung cụ thể dễ hiểu, phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan BHXH với cơ quan phát thanh truyền hình và báo trí trên toàn quốc, tất cả đều phải làm cho mọi người hiểu được ý nghĩa và tầm quan trọng của BHXH theo cơ chế mới cũng như các quy định về chế độ chính sách BHXH của Đảng và của Nhà nước. - Phải tăng cường công tác giáo dục tư tưởng, phẩm chất trách nhiệm nghề nghiệp của cán bộ công nhân viên chức làm công tác BHXH, phải xác định việc phục vụ người lao động là trên hết, chống thói quan liêu cửa quyền, ban phát cho người lao động. - Phải thực hiện nghiêm túc chế độ chính sách BHXH đối với mọi người trong công tác thu chi, phải thực hiện nghiêm túc theo luật định. - Phải tăng cường nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra công tác thu và chi trả BHXH,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng tổ chức bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay.doc