MỤC LỤC
Lời mở đầu 1
Chương I: Cơ sở lí luận 2
1. Một số khái niệm cơ bản về thù lao lao động 2
1.1.Thù lao cơ bản 2
1.1.1Tiền lương 2
1.1.2. Các hình thức trả lương(công) cho người lao động 3
1.2. Các khoản phụ cấp 4
1.2.1.Tăng lương tương xứng thực hiện công việc 5
1.2.1. Tiền thưởng 5
1.2.2. Phần thưởng 5
1.2.3. Các chế độ trả công khuyến khích 6
1.3. Các phúc lợi cho người lao động 6
2. Mục tiêu của hệ thống thù lao lao động 7
2.1. Học thuyết công bằng(J.Stacy Adams) 7
2.2. Học thuyết hệ thống 2 yếu tố (F.Heberg) 7
3. Ảnh hưởng của thù lao đến hoạt động của tổ chức 8
3.1. Công bằng về thù lao 8
3.2. Sử dụng ngày công, giờ công 8
3.3. Thuyên chuyển lao động 8
3.4. Kết quả thực hiện công việc 9
4. Tiêu thức lựa chọn khi xây dựng một hệ thống thù lao lao động công bằng 9
4.1. Mô hình công bằng phân phối 9
4.2. Mô hình thị trường lao động 9
5. Khái niệm cơ bản về tranh chấp lao động 10
5.1. Tranh chấp lao động 10
5.2. Giải quyết tranh chấp lao động 10
5.2.1. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động 10
5.2.2. Phương pháp giải quyết tranh chấp 11
Chương II Thực trạng tranh chấp lao động ở các khu công nghiệp TP.Hồ Chí Minh 13
1.Tình hình tranh chấp lao động chung ở các khu công nghiệp TP.Hồ Chí Minh 13
2. Thực trạng đình công trong các khu công nghiệp TP.Hồ Chí Minh 14
2.1. Số lượng, qui mô các vụ đình công ngày càng gia tăng 14
2.2. Khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có số vụ đình công nhiều nhất 17
2.3. Đình công thường xảy ra đối với các doanh nghiệp ngành dệt may và giày da 19
3. Những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng trên 20
3.1. Tiền lương tối thiểu thấp 21
3.2. Tăng lương nhưng tăng thấp và hệ số bậc lương thấp 22
3.3. Nợ lương, trả lương chậm hoặc trả lương không đầy đủ 22
3.4. Những nguyên nhân khác 23
4. Dự báo xu hướng tranh chấp lao động trong thời gian tới 24
Chương III. Một số giải pháp nhằm hạn chế tranh chấp lao động 25
1. Tăng lương tối thiểu 25
2. Nâng cao vai trò quản lý của nhà nước đối với các doanh nghiệp 25
3. Yêu cầu các doanh nghiệp sử dụng lao động phải thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật 26
4. Tăng cường vai trò thực sự của tổ chức công đoàn cơ sở 26
5.Giáo dục ý thức pháp luật và kỉ luật lao động đối với người lao động 27
6. Nhà nước và cộng đồng xã hội phải có trách nhiệm trong việc chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của công nhân ở các khu công nghiệp 27
Kết luận 28
Tài liệu tham khảo
31 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3962 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng tranh chấp lao động ở các khu công nghiệp TP.Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thấp, gây thiệt hại về năng suất và chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp.
3.3. Thuyên chuyển lao động
Tiền lương có ảnh hưởng rất nhiều đến hài lòng công việc của người lao động và từ đó ảnh hưởng đến việc quyết định làm việc tại doanh nghiệp đó hay chuyển sang doanh nghiệp khác.
Nguồn gốc của chuyển công tác là do sự không công bằng về tiền lương trong tổ chức dẫn đến không hài lòng về công việc. Sự bất công bằng về tiền lương càng cao thì sự không hài lòng công việc càng cao, mức độ rời doanh nghiệp càng lớn.
3.4. Kết quả thực hiện công việc
Qua nhiều nghiên cứu đưa ra khẳng định rằng sự hài lòng công việc do tiền lương chi phối có ảnh hưởng quyết định tỉ lệ thuận đến kết quả thực hiện công việc, tiền lương nhận được càng cao thường dẫn đến kết quả thực hiện công việc càng tốt và ngược lại. Tiền lương sẽ động viên người lao động nếu người lao động tin chắc rằng hoàn thành công việc tốt sẽ nhận tiền lương cao hơn, hậu quả tiêu cực của mối quan hệ giữa thực hiện tốt công việc và trả lương cao được giảm thiểu.
=> Các nhà quản trị nên nhấn mạnh tầm quan trọng của mối quan hệ giữa tiền lương và sự hoàn thành công việc.
4. Tiêu thức lựa chọn khi xây dựng một hệ thống thù lao lao động công bằng
Thù lao lao động có ảnh hưởng đến cá nhân người lao động trên các mặt kinh tế, xã hội, tâm lý. Do vậy tiêu thức: công bằng bên trong và công bằng bên ngoài phải được xem xét khi xây dựng hệ thống trả công lao động. Ta sử dụng 2 mô hình cơ bản:
4.1. Mô hình công bằng phân phối
Tỉ số đóng góp/thu nhập = Mức đóng góp của cá nhân cho doanh nghiệp
Thu nhập cá nhân nhận được từ doanh nghiệp
Nhiệm vụ của hệ thống thù lao lao động là đảm bảo mức lương được xây dựng trên cơ sở tỉ số đóng góp thu nhập/thu nhập công bằng bên trong tổ chức cũng như ngoài tổ chức.
4.2. Mô hình thị trường lao động
Công bằng tiền lương đạt được khi mức lương cho một công việc nào đó được xác định tại giao điểm giữa đường cung và cầu lao động trong thị trường lao động. Công bằng bên ngoài đạt được khi doanh nghiệp trả lương cho người lao động theo tỉ giá thị trường - mức lương cân bằng trên thị trường. Khi đó, hệ thống thù lao lao động của tổ chức vừa đảm bảo được công bằng bên trong lại vừa đảm bảo được công bằng bên ngoài.
5. Khái niệm cơ bản về tranh chấp lao động
5.1. Tranh chấp lao động
Tranh chấp lao động là hiện tượng khách quan xảy ra giữa người lao động và người sử dụng lao động trong quá trình quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường. Bộ luật lao động Việt Nam xác định: ” tranh chấp lao động là những tranh chấp về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập, điều kiện lao động thực hiện hợp đồng lao động...”. Tranh chấp lao động ở qui mô lớn, phổ biến thể hiện quan hệ lao động trong thực tế chưa thực sự phát triển theo chiều hướng lành mạnh, hài hoà, ổn định và đồng thời là tín hiệu cảnh báo cho ba bên lao động, nhằm thực hiện các biện pháp cải thiện tình hình quan hệ lao động, giảm thiểu tranh chấp lao động.
Tranh chấp lao động được thể hiện dưới các hình thức như: bãi công, đình công, lãn công. Trong đó, khái niệm đình công là khái niệm gắn liền, không thể tách rời khái niệm tranh chấp lao động tập thể vì đình công là một bộ phận, một giai đoạn của quá trình giải quyết tranh chấp lao động, tập thể lao động chỉ được tiến hành đình công sau khi vụ tranh chấp lao động tập thể đã được giải quyết nhưng vẫn không được sự đồng ý của tập thể lao động.
=> Khi tranh chấp lao động ở mức cao, hai bên không thể đi đến thoả thuận, người lao động sẽ sử dụng đến ”vũ khí tối thượng” của mình – đó là đình công. Đình công là một trong những hình thức đấu tranh của người lao động với những biểu hiện và mức độ nhất định nhằm tạo áp lực đối với giới chủ thể để đòi hỏi những quyền lợi của mình.
Việt Nam là một quốc gia đang trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, luật lao động chưa đạt được mức độ chặt chẽ cần thiết và đang trong quá trình hoàn thiện nên hoạt động của hệ thống thanh tra lao động vẫn chưa được như mong muốn, việc bế tắc trong quan hệ lao động dẫn đến đình công là điều khó tránh khỏi.
5.2. Giải quyết tranh chấp lao động
5.2.1. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động
- Tranh chấp lao động thường được giải quyết theo những nguyên tắc sau đây:
. Thương lượng trực tiếp và tự giàn xếp giữa hai bên tranh chấp tại nơi phát sinh tranh chấp.
. Thông qua hoà giải, trongj tài treen cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích của hai bên, tôn trọng lợi ích chung của xã hội và tuân theo pháp luật.
. Giải quyết công khai, khách quan, kịp thời, nhanh chóng, đúng pháp luật.
. Có sự tham gia của đại diện công đoàn và của đại diện người sử dụng lao động trong quá trình giải quyết tranh chấp.
=>Việc giải quyết tranh chấp lao động tại các cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp lao động được tiến hành khi một bên từ chối thương lượng hoặc hai bên đã thương lượng mà vẫn không giải quyết được và một hoặc hai bên có đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động.
- Trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động các bên tranh chấp có quyền:
. Trực tiếp hoặc thông qua người đại diện của mình để tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp
. Rút đơn hoặc thay đổi nội dung tranh chấp.
. Yêu cầu thay người trực tiếp tiến hành giải quyết tranh chấp.
- Trong quá trình giải quyết tranh chấp các bên tranh chấp có nghĩa vụ:
. Cung cấp đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp.
. Nghiêm chỉnh chấp hành các thoả thuận đã đạt được của biên bản hoà giải thành công, quyết định đã có hiệu lực của cơ quan, tổ chức hoà giải.
5.2.2. Phương pháp giải quyết tranh chấp
Giải quyết tranh chấp lao động ở mỗi quốc gia thực hiện một cách thống nhất, theo một cơ chế hoàn chỉnh được pháp luật qui định.Cụ thể:
. Bộ máy giải quyết tranh chấp lao động gồm:Ban hoà giải tranh chấp lao động (cấp cơ sở); toà án lao động. Ngoài ra trong quá trình giải quyết tranh chấp lao động còn có sự tham gia của hoà giải viên thuộc thanh tra lao động, hoặc của bộ máy quản lý quan hệ lao động các cấp.Tuy nhiên, tuỳ thuộc đặc điểm tình hình về tranh chấp mà các nước có sự tổ chức bộ máy chuyên trách phù hợp với nước mình.
. Trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp lao động thuộc tổ chức bộ máy các nước có tổ chức bộ máy khác nhau do đó trình tự giải quyết cũng khác nhau.
Chương II Thực trạng tranh chấp lao động ở các khu công nghiệp TP.Hồ Chí Minh
1.Tình hình tranh chấp lao động chung ở các khu công nghiệp TP.Hồ Chí Minh
Tranh chấp lao động, đình công hiện đang là điểm nóng trong quan hệ lao động của các doanh nghiệp, đang trở nên vấn đề bức xúc v à nhiều vấn đề cần quan tâm.
Trong những năm gần đây, tình hình tranh chấp lao động dẫn đến đình công tự phát có xu hướng gia tăng, năm sau cao hơn năm trước. Theo thống kê chưa đầy đủ, từ tháng 1/1995 (kể từ khi Bộ luật Lao động có hiệu lực) đến hết tháng 9/2008 cả nước đã xảy ra hơn 2600 cuộc đình công của tập thể người lao động. Trong đó, số vụ đình công trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài luôn luôn chiếm tỷ lệ cao nhất, tới 72.4%, tiếp sau đó là DN dân doanh, 24,1%. Nếu cả năm 2007, xảy ra hơn 500 cuộc thì chỉ tính riêng 9 tháng năm 2008, cả nước đã xảy ra hơn 700 cuộc đình công. Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu vực đông công nhân lao động, có nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất tập trung và các ngành da giày, dệt may và gần đây là doanh nghiệp sản xuất linh kiện điện, điện tử…là nơi xảy ra đình công nhiều nhất. Các cuộc tranh chấp lao động chủ yếu là ở doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và tự phát, không xuất phát từ kết quả thương lượng không thành; tập trung nhiều vào những thời điểm giá tiêu dùng tăng cao, cuối năm dương lịch, trước và sau tết Nguyên đán.
Tranh chấp lao động chiếm tỉ lệ lớn là ở các doanh nghiệp trên địa bàn có tốc độ phát triển doanh nghiệp nhanh, tăng trưởng kinh tế cao, đặc biệt là tại TP.Hồ Chí Minh.Tính đến 30/6/2006, trong tổng số vụ tranh chấp lao động dẫn đến đình công của cả nước, TP.Hồ Chí Minh chiếm tỷ lệ 43,3% cao nhất cả nước (Bình Dương 22,4%; Đồng Nai 20,9% và các tỉnh khác 13,4%).
Gần đây, LĐLĐ TPHCM có thống kê và phân tích về tranh chấp lao động đến hết quí III/2008 cho biết trong tháng 8.2008 TPHCM có 16 doanh nghiệp (DN) xảy ra ngừng việc.Tính tổng 3 quí đầu 2008, toàn TPHCM có 178 vụ ngừng việc, trong đó có 2 DN nhà nước, 50 DN dân doanh và 126 DN có vốn đầu tư nước ngoài. Về khu vực thì khu chế xuất Tân Thuận xảy ra nhiều nhất (35 vụ), Củ Chi (19 vụ), quận 12 (14 vụ)...Về ngành nghề, tranh chấp phổ biến ở ngành dệt may (90 DN), kế đến giày da (22DN) và các ngành khác như cơ khí (7 DN), điện tử (9DN)...
Trên thực tế, có khoảng trên 85% số vụ liên quan đến tiền lương, trong đó công nhân đòi tăng - nâng lương, điều chỉnh lương, công khai mức lương, tăng đơn giá lương (sản phẩm), đòi nợ lương, chậm trả lương và các vấn đề khác như cắt hoặc giảm phụ cấp khi nâng lương, các phụ cấp theo lương...
Sau đây là bảng điều tra với đối tượng là những người lao động làm việc trong các khu công nghiệp ở TP.Hồ Chí Minh về nguyên nhân dẫn đến tranh chấp lao động:
Nguyên nhân dẫn đến tranh chấp lao động
Tiền lương,tiền thưởng
Định mức lao động
Tiền lương làm thêm giờ
Thời gian làm việc
Bồi dưỡng giữa ca
Khác
%lao động được hỏi trong tổng số lao động
84,62
7,69
23,08
3,85
11,54
19,23
Nguồn: Tạp chí kinh tế và phát triển
2. Thực trạng đình công trong các khu công nghiệp TP.Hồ Chí Minh
2.1. Số lượng, qui mô các vụ đình công ngày càng gia tăng
Trước khi Việt Nam có bộ luật Lao động năm 1995 đã diễn ra các vụ đình công.Vì vậy nhiều người cho rằng Việt Nam cần phải có Luật lao động để qui định cụ thể quyền và nghĩa vụ của các chủ thể: doanh nghiệp, người lao động nhằm hạn chế các xung đột, tranh chấp và giải quyết vấn đề đình công. Thế nhưng kể từ khi có Luật lao động đến nay đình công vẫn tiếp diễn và ngày càng nhiều hơn. Số liệu đình công cho thấy, năm 1995 có 25 vụ đình công (xảy ra ở công ty may An Phước), số lượng công nhân tham gia từ 200 đến 700 công nhân. Những năm tiếp theo tăng cao hơn, mặc dù số doanh nghiệp ngày càng nhiều nhưng từ đầu 2006 đến nay đình công xảy ra nhiều và qui mô công nhân tham gia đình công tăng lên đáng kể.
Năm 2006 có 115 vụ đình công, gấp 4,6 lần so với 1995. TPHCM là địa phương xảy ra nhiều đình công nhất cả nước, chiếm gần 50% vụ đình công. Tính đến tháng 6/2006, cả nước có 1281 vụ đình công thì TPHCM là 552 vụ (chiếm 40,4%).
Bảng: Đình công tại TP.Hồ Chí Minh từ 1996 đến 2007
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Quý 1 năm 2008
Số cuộc đình công
25
38
46
38
31
35
33
36
61
41
51
115
26
Tổng cộng các cuộc đình công từ 1996 đến quý 1 năm 2008:521
Nguồn: Tổng cục thống kê
Tháng 10/2007, có khoảng 30.000 công nhân đồng loạt đình công ở 38 công ty khác nhau do không thoả mãn với lương bổng và điều kiện làm việc dành cho họ, bao gồm cả việc than phiền về chuyện thực phẩm thiếu chất dành cho công nhân ăn uống ở căng tin, trong đó điển hình là tại công ty Bong kôk với hàng ngàn công nhân và công ty Duy Hưng với 7000 người. Trong 6 tháng đầu năm 2008 đã xảy ra trên 300 cuộc đình công, bằng 54,4% số cuộc đình công năm 2007.
Tháng 2/2008, là tháng mà TP.Hồ Chí Minh xảy ra nhiều vụ tranh chấp nhất từ tháng 1/2007 đến nay. Điển hình là ngày 20/2/2008, một ngày xảy ra 3 vụ tranh chấp lao động, cụ thể :
Sáng 20.2, tại công ty Theodore Alexander (DN đa quốc gia có 100% vốn nước ngoài, chuyên sản xuất đồ gỗ xuất khẩu tại KCN Linh Trung II, Q.Thủ Đức, TPHCM) có khoảng 1.000/4.000 công nhân đã tự phát ngừng việc, yêu cầu chủ doanh nghiệp tăng lương vì hiện nay giá cả quá đắt đỏ, thu nhập công nhân không đủ sống.
Cùng ngày, gần 300 công nhân Xưởng giày Gò Vấp - thuộc công ty CP XNK da giày Sài Gòn (trụ sở chính tại 14 Nguyễn Huệ, Q.1, TPHCM) tiếp tục ngừng việc đòi tiền lương. Trước đó, 300 công nhân ở đây đã tự phát ngừng việc từ 18.2 và đưa ra kiến nghị gồm 9 điểm là những yêu sách hợp pháp và chính đáng về tiền lương, BHXH, BHYT, cơm ăn, nước uống... theo đúng quy định pháp luật. Trong đó, đặc biệt là tình trạng nghỉ một ngày lập tức bị trừ từ 200.000 đồng tới 300.000 đồng; tăng ca triền miên; công nhân bị ốm xin nghỉ không được giải quyết chế độ..
Cũng trong sáng 20.2, khoảng 80 công nhân công ty may Khánh Thuỷ (quận 6 - TPHCM) khi đến làm việc thì thấy thông báo rằng sẽ được nhận 4 ngày lương và sau đó... nghỉ việc! Phía công nhân hết sức bức xúc đã yêu cầu ngoài tiền lương 4 ngày Tết theo quy định của pháp luật, công ty còn phải bồi thường 45 ngày lương do vi phạm thời hạn báo trước vì công ty hoạt động đã hơn 3 tháng, nhưng không ký HĐLĐ với các công nhân nên quan hệ lao động trở thành không xác định thời hạn.
Số vụ đình công xảy ra trong năm 2008 nhiều hơn các năm trước và hầu hết đều mang tính tự phát, không theo đúng quy trình pháp luật. Những năm trước, tranh chấp thường xảy ra vào dịp cuối năm, khi vấn đề lương, thưởng trở nên gay gắt gây nhiều bức xúc cho người lao động. Năm nay, trước tình hình kinh tế thế giới suy thoái, hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước gặp khó khăn, nhiều DN buộc phải tìm các phương kế để hạn chế chi phí sản xuất, trong đó có các hình thức đẩy khó khăn về phía người lao động như chậm trả lương, giảm lương, giảm thưởng… Vì thế, tình hình tranh chấp lao động đã nóng từ khoảng giữa năm và có chiều hướng phức tạp hơn vào cuối năm. Không chỉ số lượng các cuộc đình công tăng cao, mà có nhiều cuộc đình công xảy ra trên qui mô lớn và kéo dài.
Cuối tháng 11/2008 vừa qua, hơn 1.000 công nhân của Công ty TNHH xuất nhập khẩu Thiên Mã đã đình công đòi Ban giám đốc làm rõ quyết định giảm lương. Trước đó, đầu tháng 11, hàng trăm công nhân Công ty may Đại Cát cũng đình công đòi tiền lương mà chủ DN còn nợ. Tình hình đình công cũng rộ lên khi nhiều doanh nghiệp đột ngột cắt giảm lương, ngưng sản xuất không rõ lý do, di dời nhà xưởng kèm theo dấu hiệu tẩu tán tài sản, một số chủ DN người nước ngoài bỏ trốn trong khi còn nợ lương, thuế và bảo hiểm xã hội với số tiền lớn…
2.2. Khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có số vụ đình công nhiều nhất
Khi khảo sát và phân chia theo khu vực kinh tế, đình công thường xảy ra đối với khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).Ví dụ: năm 2002, các doanh nghiệp nhà nước không có vụ đình công nào, trong khi kinh tế tư nhân có 22 vụ đình công, chiếm tỷ trọng 61%, còn lại 39% là khu vực FDI. Năm 2006 khu vực FDI chiếm 51,30%, khu vực kinh tế tư nhân 46,08%. Như vậy từ năm 2002 đến 2006, khu vực FDI chiếm 49,34% và khu vực kinh tế tư nhân chiếm 48,35%, còn lại rất ít là doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm 2,3%.
Bảng: Đình công phân chia theo khu vực kinh tế
Năm
số cuộcđìnhcông
DNNN
Kinh tế tư nhân
DN liên doanh-ĐTNN
Số lượng
Tỷ trọng(%)
Số lượng
Tỷ trọng(%)
Số lượng
Tỷ trọng(%)
2003
36
0
0
22
61.11
14
38.89
2004
61
2
3.28
33
54.1
26
42.62
2005
41
2
4.88
18
43.9
21
51.22
2006
51
0
0
21
41.18
30
58.82
2007
115
3
2.61
53
46.09
59
51.3
Tổng
304
7
2.3
147
48.36
150
49.34
Nguồn: Liên đoàn lao động TP.Hồ Chí Minh (2007)
Theo thống kê gần đây, chỉ riêng 6 tháng đầu năm 2007, số vụ đình công xảy ra ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 70,5%; các doanh nghiệp dân doanh chiếm 24,8%.
Ba quí đầu 2008, toàn TP.HCM có 178 vụ ngừng việc, trong đó có 2 DN nhà nước, 50 DN dân doanh và 126 DN có vốn đầu tư nước ngoài; còn thống kê từ 1.1 đến 31.10.2008 TPHCM xảy ra 198 vụ tranh chấp ngừng việc thì DN nhà nước có 2 vụ, DN dân doanh 52 vụ, DN FDI 136 vụ. Điển hình như công ty giày Anjin, công ty Lucky việt Nam (100% vốn Hàn Quốc) cũng là một điểm nóng về tranh chấp lao động. Từ đầu năm 2008 đến nay, có khoảng 70% số vụ đình công của công nhân xảy ra ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài diễn ra trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó 90 đến 95% là đình công sai pháp luật.
Tháng 9/2008, trong 19 DN (phần nhiều là DN có vốn đầu tư nước ngoài), có tới 4 "đại gia" được "xếp hạng" kỷ lục về tiền nợ và tháng nợ là nguồn gốc dẫn đến tranh chấp lao động. Dẫn đầu là Cty CP Lilama 45-1 nợ 6,8 tỉ đồng của trên 2.200 lao động. Tiếp theo là công ty CP HH Đồng Nai Bochang quốc tế nợ hơn 2,3 tỉ đồng của trên 700 CN; Cty TNHH Viko Glowin nợ 1,8 tỉ đồng của 104 công nhân; Đạt "kỷ lục" số tháng nợ là Cty rượu sâm banh Mátxcơva (Cty rượu- KCN Biên Hoà 2) nợ tới 110 tháng với tổng tiền 1,8 tỉ đồng của hơn 24 CN.
Tháng 12.2008, xảy ra một vụ tranh chấp lao động lớn, khoảng 1.700 công nhân của Công ty TNHH Juyin Kreves (100% vốn nước ngoài) trong Khu công nghiệp Linh Trung I, quận Thủ Đức, TP HCM đã đình công đòi tăng lương và tiền thưởng cuối năm gây nhiều bức xúc cho công nhân.
Một điều đáng lưu ý là có hàng trăm quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào các khu công nghiệp TP.Hồ Chí Minh nhưng số vụ đình công thường xảy ra đối với các doanh nghiệp của Đài Loan, Hàn Quốc, Hồng Kông. Cá biệt năm 2004, 3 quốc gia và vùng lãnh thổ này chiếm tỷ lệ 68,29% vụ đình công, năm 2007 tỉ lệ 43,48%, thấp nhất là 35,29% năm 2005. Điều này đáng để các nhà nghiên cứu và nhà nước lưu ý về các hành vi chấp hành luật pháp và văn hoá kinh doanh của các doanh nghiệp trên
Bảng: Các DN thường xảy ra đình công: Hàn Quốc, Đài loan, Hồng Kông
Năm
số cuộcđìnhcông
Hàn Quốc
Đài Loan
Hồng công
Tổng côngđình công của các DNHK,ĐL,HK
Tỷ lệ đìnhcông của cácDN:HQ,HK,ĐL(%)
Đình công
Tỷ lệ(%)
Đình công
Tỷ lệ(%)
Đình công
Tỷ lệ(%)
2002
36
5
13,89
7
19,44
2
5,56
14
38,88
2003
61
14
22,95
8
13,11
0
22
36,06
2004
41
15
36,58
13
31,71
0
28
68,29
2005
51
17
33,33
1
1,96
0
18
35,29
2007
115
28
24,35
13
11,30
9
7.83
50
43,48
Nguồn: Liên đoàn Lao động TP.Hồ Chí Minh (2007)
Tháng 10/2007, 38.000 ở công ty do Đài Loan và Hàn Quốc làm chủ đã đồng loạt đình công. Đối với diễn biến của 109 vụ tranh chấp trong năm 2007 và 133 vụ tranh chấp trong 6 tháng đầu năm 2008 thì DN Hàn Quốc chiếm 40 vụ. Trong đó điển hình là vào tháng 6.2008, hơn 2.000 công nhân (CN) Cty TNHH Sambu Vina (100% vốn Hàn Quốc) tiếp tục ngừng việc để đòi nâng 20% tiền lương - đủ để họ trang trải cuộc sống ở mức tối thiểu..
Theo LĐLĐ TP.HCM thống kê từ 1.1 đến 31.10.2008 thì trong 136 vụ ngừng việc tại khu vực doanh nghiệp FDI, Hàn Quốc đứng đầu với 65 vụ, tiếp theo là Đài Loan 34 vụ, Nhật Bản 22 vụ, số ít còn lại là Mỹ, Pháp, Trung Quốc...
2.3. Đình công thường xảy ra đối với các doanh nghiệp ngành dệt may và giày da
Theo số liệu thống kê cho thấy từ năm 1995 đến nay đình công thường tập trung vào các ngành dệt may, giày da và tỷ lệ ngày càng tăng. Giai đoạn năm 1995-2000 ngành dệt may chiếm tỷ lệ cao nhất so với các ngành từ 39,47% (năm 1997) đến 54,83% (năm 2008), kế đến ngành giày da từ 21,05% (năm 1997) đến 28,88% (năm 2008). Tổng cộng hai ngành dệt may và giày da số vụ đình công luôn chiếm tỷ lệ từ 61,22% đến 83,33%.
Theo số liệu của công đoàn dệt may, trong năm 2007, thu nhập bình quân của công nhân ngành này chỉ vào khoảng 1,6-1,7 triệu đồng/tháng, thấp hơn so với chuẩn chung của ngành công nghiệp rất nhiều (chuẩn thu nhập của ngành công nghiệp là 2,2 triệu đồng/tháng). Một thống kê trong 3 quí đầu 2008 cho biết, tranh chấp lao động phổ biến ở ngành dệt may (90 DN), kế đến giày da (22 DN) và các ngành khác như cơ khí (7 DN), điện tử (9 DN), gỗ (6 DN)...
Đặc biệt gần đây có một số vụ đình công lớn đã xảy, ví dụ như tại công ty giày Anjin-TPHCM, có hơn 400 công nhân đã đồng loạt ngừng việc để đòi nợ lương tháng 7 và 8.2008 với số tiền khoảng trên tỉ đồng, công ty giày Anjin thường xuyên xảy ra đình công do chậm lương, nợ lương, trốn đóng BHXH. Cũng vào tháng 7/2008, tại xí nghiệp giày nữ-Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu Da giày, gần 500 công nhân đã ngừng việc kiến nghị giảm tăng ca, tăng tiền lương (thu nhập hàng tháng của công nhân chỉ khoảng 1,5 triệu đồng), cải thiện chất lượng bữa ăn và nước uống.
Sáng 9.1.2008, gần 300 CN Cty TNHH Wonderful (100% vốn Nhật Bản, chuyên may quần áo BHLĐ ở KCX Tân Thuận, Q.7) tiếp tục đình công ngày thứ hai, sau đó đồng loạt bỏ ra về mặc dù hầu hết yêu sách của họ đã được chủ DN đáp ứng. Cùng ngày, tại Cty TNHH J.Young (100% vốn Hàn Quốc, chuyên sản xuất giầy dép ở xã Đông Thạnh, huyện Hóc Môn, TPHCM) cũng có hơn 500 công nhân đình công, yêu cầu chủ DN điều chỉnh lương tối thiểu và thực hiện các chính sách về lao động.
Tháng 12.2008, LĐLĐ TPHCM đã lập danh sách 20 doanh nghiệp có nguy cơ xảy ra tranh chấp lao động cao trong dịp Tết Nguyên đán Kỷ Sửu, trong đó có 4 doanh nghiệp FDI. Đây là những doanh nghiệp thuộc các ngành dệt may, giày da, đang gặp nhiều khó khăn về đơn hàng phải cho công nhân nghỉ chờ việc hoặc làm việc cầm chừng. Trong số này có nhiều DN đã từng xảy ra tranh chấp lao động trong năm 2008, do chưa rõ ràng trong việc tính lương, thưởng; chậm trả lương..., điển hình là sáng 26.7.2008, toàn bộ hơn 13.800 công nhân Công ty Hwa Seung Vina (doanh nghiệp vốn đầu tư của Hàn Quốc, chuyên gia công giày da tại KCN Trạch) đã đình công đòi tăng lương. Sáng 16.7, gần 500 CN Xí nghiệp giày nữ thuộc Cty CP XNK da giày Sài Gòn (ở 59/9 Phạm Văn Chiêu, Q.Gò Vấp-TPHCM) đã ngừng việc yêu cầu giảm tăng ca và tăng thu nhập.
Bảng: Số vụ đình công trong nghành dệt may và giày da
Năm
2002
2003
2004
2005
2006
DN ngành dệt may và dày gia
30
40
30
35
85
Tỷ lê.%
83,33%
65,57
61,22
68,62
73,91
Nguồn: Liên đoàn lao động TP.Hồ Chí Minh( 2007)
3. Những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng trên
Theo kết quả nghiên cứu thực địa về nguyên nhân xảy ra tranh chấp lao động với số mẫu nghiên cứu là 100 vụ đình công và kết quả thu thập thông tin từ các nguồn khác trong những năm vừa qua cho thấy: có tới 1/3 số vụ tranh chấp xuất phát từ vấn đề trả lương thấp (thường là doanh nghiệp không thể tăng lương như đã hứa với công nhân); 1/4 số vụ liên quan đến yêu cầu tăng tiền thưởng; 1/4 số vụ liên quan đến thời gian làm việc (trả lương làm thêm quá thấp); 1/8 số vụ là do người sử dụng lao động không đóng BHXH...Từ thực tế, ta sẽ tìm hiểu một số nguyên nhân cụ thể sau:
3.1. Tiền lương tối thiểu thấp
Mức lương của công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp dân doanh thấp. Mặc dù thu nhập bình quân đầu người trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cao nhất nhưng thực tế cho thấy có sự phân hoá rõ rệt theo trình độ và vị trí công việc, trong khi thu nhập của người lao động có trình độ cao là rất cao thì thu nhập của công nhân lại rất thấp.
Theo qui định của Chính phủ vào năm 1999, đã qui định mức lương tối thiểu trả cho người lao động trong các doanh nghiệp FDI cho từng khu vực như 626.000 đồng/tháng cho vùng thuộc TP.HCM và Hà Nội. Nhưng từ 1999 đến nay mức lương này đã chịu tác động nhiều yếu tố: giá cả sinh hoạt tăng mạnh, tăng trưởng kinh tế, tăng lương khu vực nhà nước và doanh nghiệp hoạt động theo luật (năm 2008 là 540.000 đồng)...nên giá trị của tiền lương đã giảm xuống. Trong một thời gian dài từ năm 1999 đến nay, việc giá cả tăng liên tục, trong khi tiền lương khu vực FDI không có sự điều chỉnh là bất hợp lý và thiệt thòi cho người lao động. Mặc dù gần đây đã có sự điều chỉnh mức lương tối thiểu khu vực FDI (55 USD/tháng cho khu vực TP.Hà Nội,TP.HCM...) nhưng với tỉ lệ lạm phát cao như hiện nay ngươi lao động vẫn rất khó cải thiện đời sống.
Vì lương thấp, buộc người lao động phải tăng ca triền miên để có thêm thu nhập để bù đắp những khoản thiếu hụt trong cuộc sống, nên có cơ hội là họ tự phát ngừng việc để đòi tăng lương. Vì lương thấp, người lao động không có tích luỹ nên thường ngừng việc đòi tăng tiền thưởng cuối năm hoặc đấu tranh mỗi khi doanh nghiệp xét nâng lương. Điều này cũng dẫn đến việc người lao động không gắn bó vói doanh nghiệp, làm cho các doanh nghiệp thường xuyên biến động về lao động, quan hệ lao động không gắn kết, khiến tranh chấp lao động diễn ra thường xuyên hơn.
3.2. Tăng lương nhưng tăng thấp và hệ số bậc lương thấp
Một thực tế rằng khi điều chỉnh tăng lương ngay lập tức ảnh hưởng đến chi phí sản xuất và biến động đến tình hình tài chính doanh nghiệp. Mặc dù vậy, các doanh nghiệp vẫn phải tuân thủ áp dụng mức lương tối thiểu mới theo qui định của Chính phủ, đồng thời lại tìm cách điều tiết hoặc cắt giảm các khoản phụ cấp để bù vào lương và điều chỉnh thang bậc lương theo hướng tăng lương chậm hoặc rất thấp. Do vậy trên danh nghĩa lương tăng, nhưng trên thực tế tăng không bao nhiêu gây ức chế cho người lao động. Ví dụ: đình công tại công ty Perfect ngày 14/02/2008, công ty Đại Quang ngày 5/10/2008...
Ngoài ra Chính phủ chỉ đưa ra mức lương tối thiểu được tính trả cho người lao động không được đào tạo. Vì vậy doanh nghiệp tự căn cứ vào đó tự xây dựng hệ thống thang bảng lương riêng. Nhiều doanh nghiệp đã dùng mức lương tối thiểu để trả cho người lao động đã qua đào tạo. Một số doanh nghiệp khác lại xây dựng mức lương bậc 1 chỉ cao hơn mức lương tối thiểu 1-2%, hiện tượng này chủ yếu xảy ra ỏ các doanh nghiệp FDI thuộc ngành dệt may
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22670.doc