Năm 2011, đăng ký BHTN tăng đáng ngại. Theo thông tin từ Trung tâm giới thiệu việc làm Hà Nội, bắt đầu từ tháng 6/2011 trung tâm luôn nằm trong tình trạng "hoạt động hết công suất" kể cả trong những ngày không tổ chức phiên giao dịch việc làm. Từ đầu năm tới hết ngày 1/9, đã có 10.458 lao động đến đăng ký bảo hiểm thất nghiệp, trong khi cả năm 2010 chỉ có 4.192 người đăng ký. Như vậy, mới chỉ 8 tháng mà số lượng người đăng ký bảo hiểm thất nghiệp đã cao gấp đôi so với lượng người đăng ký của cả năm 2010.
Theo báo cáo của Trung tâm Giới thiệu việc làm TP.HCM, từ đầu năm đến nay (15-9-2011), số người đến đăng ký thất nghiệp tại trung tâm tăng đột biến. Cụ thể: Trong quý I/2011 số người đến đăng ký BHTN là gần 23.000 người (tăng hơn 200% so với cùng kỳ năm ngoái). Chỉ tính riêng trong tháng 3 đã trên 10.600 người, tháng 4 tăng hơn 31% với gần 14.000 người. Từ đầu năm đến nay, thành phố có trên 70.000 người lao động đăng ký thất nghiệp, trong khi cả năm 2010, chỉ có khoảng 67.000 người. Số liệu tổng hợp của Cục Việc làm (Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội) cũng cho thấy, đến hết tháng 6/2011, có 146.538 người tới đăng ký thất nghiệp tại các trung tâm giới thiệu việc làm. Con số này tăng gấp ba lần so với cùng kỳ năm ngoái.
Không chỉ tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh mà nhiều TP lớn khác như Đà Nẵng, Vinh, Đồng Nai cảnh xếp hàng chờ làm thủ tục BHTN cũng đang diễn ra. Thực trạng này khiến nhiều người lo ngại đến khả năng mất cân đối thu chi của quỹ BHTN cũng như tình trạng thất nghiệp "ảo" khi chủ sử dụng LĐ "hợp tác" với người LĐ để "trục lợi" từ chính sách này.
43 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2118 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng triển khai bảo hiểm xã hội ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tổng quát thì chế độ hưu trí là một chế độ đáng tin cậy cho cán bộ, công chức, quân nhân và người lao động. Bởi vì tính đến nay đã có hơn hai triệu người đã và đang được hưởng hưu trí. Những qui định về hưu trí đã trở thành một quyền lợi đương nhiên của tất cả những người được Nhà nước tuyển dụng và đặc biệt, nhờ có chế độ trợ cấp mà đời sống vật chất và tinh thần của những người về hưu được bảo đảm ổn định, góp phần tăng cường hạnh phúc gia đình và an toàn xã hội. Tuy nhiên chế độ hưu trí Việt nam còn nhiều tồn tại cần được nghiên cứu để hoàn thiện như sau:1/ Các quy định về hưu trí luôn thay đổi (chỉ tính từ năm 1995 đến 2009 đã 04 lần bổ sung, sửa đổi) điều này ảnh hưởng đến việc sử dụng lao động, việc xây dựng kế hoạch cơ cấu lao động và đặc biệt là kế hoạch sống và làm việc của người lao động.2/ Các tiêu chuẩn về chế độ hưu trí có nhiều khác biệt với mục đích, bản chất của chế độ hưu trí. Bởi vì tiêu chuẩn quan trọng nhất là độ tuổi nghỉ hưu nhưng ở Việt Nam đã hàng chục năm nay vấn đề xác định độ tuổi nghỉ hưu có nhiều luận điểm và có nhiều quy định khác nhau.Cụ thể trong Luật Lao động quy định tuổi nghỉ hưu của nam là 60, của nữ là 55. Nhưng các văn bản pháp quy khác có nhiều quy định như giảm 05 tuổi đối với nam và nữ, giảm 10 tuổi cả nam và nữ hoặc không cần đột uổi vẫn được nghỉ hưu. Đồng thời cũng có những quy địnht ăng tuổi nghỉ hưu đối với các nhà khoa học. Đặc biệt đối với những cán bộ cao cấp thì chưa có văn bản pháp quy nào quy định. Từ đó dẫn đến tình trạng 15% số người nghỉ hưu dưới 45 tuổi, 60% dưới 55 tuổi và hàng vạn người nghỉ hưu ở tuổi 38, 39 đang độ sung sức về khả năng lao động.3/ Vấn đề trợ cấp hưu trí có sự mâu thuẫn với nhau do phụ thuộc vào chính sách thu nhập của cán bộ, công chức và người lao động. Trong khi tỷ lệ của trợ cấp khá cao (75%) so với mức tiền lương đóng bảo hiểm xã hội đang tại chức. Nhưng thực tế thì giá trị trợ cấp hưu trí chỉ bằng 50, 30, 20 thậm chí 10% so với thu nhập khi đang tại chức tuỳ thuộc vào các loại hình lao động khác nhau. Bởi vì hiện nay tiền lương theo chế độ nhà nước chỉ là một phần (đây là cơ sở để đóng bảo hiểm xã hội) còn thu nhập của người lao động lại có phần thêm ngoài tiền lương, mà phần thêm nhiều khi gấp nhiều lần tiền lương theo chế độ.Trên cơ sở lý luận và thực tiễn về chế độ hưu trí ở Việt Nam, chúng ta thấy rằng chế độ hưu trí ở nước ta cần được hoàn thiện để thể hiện đúng bản chất, mục đích của hưu trí nhằm đáp ứng nhu cầu của các loại hình lao động và yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, chính trị của đất nướcTS. NGUYỄN HUY BANTổng giám đốc Bảo hiểm Việt Nam
2.5. Chế độ tử tuất:
Đó là một trong những chế độ BHXH mang tính nhân đạo nhất. Chế độ này đã giúp cho thân nhân người chết có được khoản trợ cấp bù đắp một phần thiếu hụt thu nhập của gia đình do người lao động bị chế. Khi xây dựng chế độ này đã tính đến yếu tố đóng góp của người tham gia bảo hiểm và yếu tố xã hội giữa người sống và người chết, đặc biệt có tính đến yếu tố kế thừa đối với thân nhân của người chết.
Theo báo cáo của BHXH ở một số tỉnh, thành phố, hiện nay việc giải quyết chế độ tử tuất phải thực hiện nhiều lần với lý do tại thời điểm người tham gia BHXH hoặc người đang hưởng chế độ BHXH ( hay gọi chung là người lao động) chết thân nhân người lao động không nắm được chính sách nên đã không kê khai đầy đủ những thân nhân mà khi đối tượng còn sống có trách nhiệm nuôi dưỡng, nên sau khi giả quyết hưởng chế độ tử tuất thân nhân người lao động lại đề nghị bổ sung định suất tuất. Đây là vấn đề vướng mắc, BHXH Việt Nam đã gửi báo cáo lên cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, tuy nhiên đến nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể.
BẢO HIỂM Y TẾ
I. Tổng quan về Bảo hiểm y tế
Các vấn đề được trích dẫn theo luật Bảo hiểm y tế do quốc hội ban hành ngày 14/12/2008 theo quyết định số 25/2008/QH12, có hiệu lực từ ngày 1/7/2009.
Các khái niệm
Bảo hiểm y tế:là hình thức bảo hiểm được áp dụng trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, không vì mục đích lợi nhuận, do Nhà nước tổ chức thực hiện và các đối tượng có trách nhiệm tham gia theo quy định của Luật này.
Quỹ bảo hiểm y tế : là quỹ tài chính được hình thành từ nguồn đóng bảo hiểm y tế và các nguồn thu hợp pháp khác, được sử dụng để chi trả chi phí khám bệnh, chữa bệnh cho người tham gia bảo hiểm y tế, chi phí quản lý bộ máy của tổ chức bảo hiểm y tế và những khoản chi phí hợp pháp khác liên quan đến bảo hiểm y tế.
Cụ thể nguồn thu của quỹ bảo hiểm y tế gồm tiền đóng bảo hiểm theo quy đinh của luật này, tiền sinh lời từ hoạt động đầu tư của quỹ, các khoản tài trợ viện trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước cùng các nguồn thu hợp pháp khác.
Các khoản chi của quỹ bảo hiểm y tế gồm thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế, chi phí quản lý bộ máy tổ chức BHYT theo định mức quy định, khoản đầu tư, lập quỹ dự phòng khám chữa bệnh.
Đối tượng tham gia bảo hiểm : hầu hết người dân đều được tham gia bảo hiểm, các nhóm đối tượng đã được quy định rõ trong điều 12 luật này như: người lao động, người hưu trí, trẻ em dưới 6 tuổi, học sinh-sinh viên, người nghèo, cận nghèo…
Nguyên tắc bảo hiểm
Theo điều 3 luật này, nguyên tắc bảo hiểm gồm:
1. Bảo đảm chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia bảo hiểm y tế.
2. Mức đóng bảo hiểm y tế được xác định theo tỷ lệ phần trăm của tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp hoặc mức lương tối thiểu của khu vực hành chính ( gọi chung là mức lương tối thiểu).
3. Mức hưởng bảo hiểm y tế theo mức độ bệnh tật, nhóm đối tượng trong phạm vi quyền lợi của người tham gia bảo hiểm y tế.
4. Chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế do quỹ bảo hiểm y tế và người tham gia bảo hiểm y tế cùng chi trả.
5. Quỹ bảo hiểm y tế được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch, bảo đảm cân đối thu, chi và được Nhà nước bảo hộ.
Mức phí đóng BHYT
Chính phủ đã ban hành nghị định 62/2009NĐ-CP quy đinh chi tiết và hướng dẫn thi hành luật bảo hiểm y tế, áp dụng từ 1/10/2009, theo đó mức đóng BHYT của các đối tượng tham gia bảo hiểm là 4,5% tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, trợ cấp mất sức lao động và bằng 3% mức lương tối thiểu đối với học sinh, sinh viên.
Ngân sách nhà nước hỗ trợ 50% mức đóng cho người thuộc hộ gia đình cận nghèo từ ngày 1/7/2009. Hỗ trợ tối thiểu bằng 50% mức đóng đối với học sinh, sinh viên mà thuộc hộ cận nghèo và hỗ trợ tối thiểu 30% mức đóng đối với học sinh, sinh viên mà không thuộc hộ cận nghèo, chính sách này được thực hiện từ ngày 1/1/2010. Từ ngày 1/1/2010, mức đóng góp hằng tháng đối với đối tượng tự nguyện tham gia BHYT bằng 4,5% mức lương tối thiểu và do đối tượng đóng.
Mức hưởng BHYT
Đối với người tham gia BHYT khi đi khám, chữa bệnh theo quy định thì được quỹ BHYT thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh thì được hưởng: 100% chi phí khám chữa bệnh đối với các đối tượng là sĩ quan, hạ sĩ quan đang công tác trong lực lượng Công an nhân dân, người có công với cách mạng và trẻ em dưới 6 tuổi; 100% chi phí khám chữa bệnh tại tuyến xã; 100% chi phí khám chữa bệnh trong trường hợp tổng chi phí 1 lần khám, chữa bệnh thấp hơn 15% mức lương tối thiểu: 95% chi phí khám, chữa bệnh đối với người hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hàng tháng, người thuộc diện hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội hàng tháng theo quy định của pháp luật và người thuộc hộ gia đình nghèo; người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn. Nếu là khám chữa bệnh có dùng đến dịch vụ kỹ thuật cao, chi phí lớn thì chi phí cho 1 lần sử dụng không vượt quá 40 tháng lương tối thiểu. Người tham gia BHYT có sử dụng các dịch vụ kỹ thuật cao, chi phí lớn thì được quỹ BHYT thanh toán 100% chi phí đối với trẻ em dưới 6 tuổi, người hoạt động cách mạng trước ngày 1/1/1945; Bà mẹ Việt Nam anh hùng...; 100% chi phí đối với sĩ quan, hạ sĩ quan đang công tác trong lực lượng Công an nhân dân và người có công với cách mạng nhưng không vượt quá 40 tháng lương tối thiểu cho 1 lần sử dụng dịch vụ kỹ thuật đó.
II Thực trạng triển khai Bảo hiểm y tế
Quá trình triển khai và thực hiện
Điều lệ BHYT đầu tiên được ban hành kèm theo nghị định số 299/HĐBT ngày 15/8/1992 của Hội đồng Bộ trưởng, điều lệ này đã có tác dụng to lớn trong việc thực thi chính sách BHYT ở nước ta, góp phần thực hiện khám chữa bệnh , bảo đảm sức khỏe đối với cán bộ công nhân viên chức và người lao động, giảm bớt gánh nặng về tài chính đối với ngân sách nhà nước.
Để mở rộng đối tượng , vào ngày 19/09/1994 thì liên bộ Bộ Giáo dục và đào tạo và Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 14/TTLB hướng dẫn thực hiện BHYT tự nguyện cho học sinh. Nội dung chính là thực hiện chăm sóc sức khỏe ban đầu cho học sinh tại các trường phổ thông, đại học,…
Năm 1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 28/CP quy định chi tiết hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh Ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động cách mạng, người kháng chiến, người có công với cách mạng
Đầu năm 1999, chế độ cùng chi trả BHYT theo tỷ lệ 80% và 20% đã được áp dụng. Với chế độ này người khám chữa bệnh BHYT đã quan tâm đến việc sử dụng các dịch vụ y tế hơn là khả năng tài chính của bản thân.
Thời kỳ này dù đã đổi mới chính sách để thích ứng với thực tế; nhưng cũng phải nhìn nhận lại sự thật BHYT vẫn là ngành độc quyền của Nhà nước, chưa có sự cạnh tranh rõ rệt của các tổ chức tư nhân trong và ngoài nước.
Và sự cải cách lớn nhất trong bộ máy tổ chức của cơ quan Bảo hiểm y tế là ngày 24/01/2002, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 20/2002/QĐ-TTg sáp nhập BHYT Việt Nam sang Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Ngày 15/10/2002 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 139/2002/QĐ-TTg về việc khám chữa bệnh cho người nghèo. BHXH Việt nam đã tích cực và chủ động phối hợp với các ban, ngành có liên quan thực hiện xét và cấp thẻ BHYT cho đối tượng nghèo nên năm 2003 đã có gần 3.3 triệu người nghèo được cấp thẻ BHYT , năm 2004 là trên 3.5 triệu người, gấp hai lần năm 2002.
Ngày 16/5/2005 chính phủ ban hành nghị định về Điều lệ bảo hiểm y tế, có hiệu lực thi hành từ 1/7/2005 quy định cụ thể các vấn đề về bảo hiểm y tế gồm,trong đó nêu rõ các đối tượng bắt buộc và tự nguyện tham gia BHYT, các mức đóng phí, chế độ thanh toán… Ngày 14/12/2008 , luật BHYT chính thức được ban hành theo quyết định số 25/2008/QH12 và có hiệu lực từ 1/7/2009
Thành tựu
Từ khi triển khai đến nay, BHYT đã đóng góp một phần to lớn trong cải thiện sức khỏe người dân. Qua việc tham gia BHYT người dân được bảo vệ và chămsóc sức khỏe, được khám chữa bệnh với chi phí rẻ hơn, đặc biệt là với những tầng lớp chưa có thu nhập hay thu nhập thấp, những tầng lớp có đời sống thấp, các nhóm đối tượng dễ bị tổn thương khác như người nghèo, người dân tộc thiểu số.
Có thể kết luận rằng cùng với mức sống của người dân được cải thiện, kiến thức về bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của người dân được nâng cao, cở sở hạ tầng và phương tiện giao thông được nâng cấp thì hệ thống bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân trong đó có bảo hiểm y tế đã góp phần quan trọng vào giảm mức chết, gia tăng tuổi thọ của người dân nước ta.
Đặc biệt, Nhà nước đã thực hiện chương trình cấp thẻ bảo hiểm y tế miễn phí cho người nghèo, người dân tộc thiểu số sống ở vùng đặc biệt khó khăn, trẻ em dưới 6 tuổi và nhiều nhóm đối tượng dễ bị tổn thương khác; hỗ trợ một phần đáng kể phí đóng bảo hiểm y tế (50% phí đóng bảo hiểm y tế ở mức tối thiểu) cho người cận nghèo, học sinh sinh viên, v.v… Song song với các chương trình hỗ trợ phí tham gia bảo hiểm y tế, các chương trình tuyên truyền, truyền thông về lợi ích của bảo hiểm y tế đối với bảo vệ và chăm sóc sức khỏe cộng đồng cũng được triển khai trên các phương tiện truyền thông, xuống từng địa phương, vào từng trường học. Kết quả là đã có 13,2 triệu người nghèo, gần 9,6 triệu học sinh, sinh viên tham gia bảo hiểm y tế.
Trong năm 2010 đã có 106 triệu lượt người bệnh có bảo hiểm y tế đi khám chữa bệnh, tần suất khám chữa bệnh bình quân 2,1 lần/người/năm. Tỷ lệ bệnh nhân khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế tại một số cơ sở khám chữa bệnh tuyến tỉnh, huyện chiếm khoảng 70-80% tổng số bệnh nhân khám chữa bệnh chung.
Năm 2010, cả nước có gần 2.200 cơ sở khám chữa bệnh ký hợp đồng với cơ quan bảo hiểm xã hội gồm 1.900 cơ sở công lập và gần 300 cơ sở ngoài công lập. Số trạm y tế xã thực hiện khám chữa bệnh bảo hiểm y tế chiếm khoảng 60% tổng số trạm y tế xã trên cả nước, tăng 10% so với năm 2009.
Số người tham gia BHYT tăng nhanh qua các năm thể hiện sự quan tâm hưởng ứng của toàn xã hội đối với hình thức này. Cụ thể số liệu giai đoạn 2002-2007 được tổng hợp ở bảng dưới:
SỐ LƯỢNG ĐỐI TƯỢNG THAM GIA BẢO HIỂM Y TẾ
Nguồn: bảo hiểm xã hội Việt Nam
Năm
Đối tượng tham gia BHYT
Tỷ lệ tăng hàng năm (%)
Bắt buộc
Tự nguyện
Tổng
Bắt buộc
Tự nguyện
Tổng
2002
8.632.000
3.654.000
12.286.0000
2003
11.372.000
4.099.000
15.471.000
31.74%
9.56%
23.97%
2004
12.656.000
6.394.000
19.050.000
11.29%
25.40%
15.66%
2005
13.881.000
9.133.000
23.014.000
9.68%
42.84%
20.81%
2006
25.746.000
11.120.000
36.866.000
85.47%
21.76%
62.18%
2007
26.130.000
10.072.000
36.200.000
1,5%
Số người tham gia BHYT năm 2010 là 52,4 triệu người, đạt tỷ lệ bao phủ 60% dân số, tăng 12,65 triệu người so với năm 2008, trước khi có Luật BHYT . Tính đến tháng 6/2011 đã có 53,5 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, tăng gần 14 triệu người so với năm 2008.
Khu vực có tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế cao nhất là vùng Trung du và Miền núi phía Bắc, đạt tới 77% dân số, trong đó các tỉnh miền núi phía Bắc như Bắc Kạn, Hà Giang, Lai Châu, Sơn La, Cao Bằng… có tỷ lệ bao phủ đạt tới 95% dân số.
Khu vực có tỷ lệ bao phủ thấp nhất là vùng Đồng bằng sông Cửu Long, tỷ lệ bao phủ chưa được 50% dân số. Một số tỉnh có dưới 45% dân số có bảo hiểm y tế như Tây Ninh, Bình Phước, Cà Mau, Bạc Liêu, Đồng Tháp, Hậu Giang...
Hạn chế
Độ bao phủ vẫn chưa cao, đặc biệt với các nhóm đối tượng nhạy cảm
Nước ta vẫn còn khoảng 34 triệu người chưa tham gia bảo hiểm tương đương với 40% dân số. người dân còn chưa mặn mà với loại hình khám chữa bệnh này.
Đặc biệt là người lao động trong các doanh nghiệp tham gia BHYT mới chỉ đạt hơn 53% và có khoảng 13% số người cận nghèo có BHYT. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm của nhóm tự nguyện đóng BHYT rất thấp, chỉ đạt 18% tổng số đối tượng.
Năm 2010 mới chỉ có 692.000 người trên tổng số khoảng 6 triệu người thuộc hộ cận nghèo tham gia bảo hiểm y tế. Như vậy, số người cận nghèo tham gia bảo hiểm y tế mới chỉ chiếm 11,5 %, còn lại 88,5% người cận nghèo chưa được tiếp cận và thụ hưởng các dịch vụ từ bảo hiểm y tế.
Theo Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm Y tế Tống Thị Song Hương, việc cấp thẻ Bảo hiểm y tế cho đối tượng trẻ em dưới 6 tuổi còn chậm. Hiện nay vẫn còn gần 2 triệu trẻ em chưa được cấp thẻ bảo hiểm y tế.
Quỹ BHYT thường trong tình trạng thất thu và bội chi
Theo thông tin từ Bảo hiểm Xã hội Việt Nam, năm 2007, quỹ bảo hiểm y tế bội chi 1,8 ngàn tỷ. Năm 2008, con số này giảm xuống còn 1,4 ngàn tỷ. Năm 2009, quỹ bảo hiểm y tế tiếp tục thâm hụt xấp xỉ 2.000 tỷ đồng. Tỷ lệ bội chi là 15%. So với năm 2007 và năm 2008, mức thâm hụt quỹ tăng cao hơn.
Sau nhiều năm liên tục bội chi, đến cuối năm 2010, quỹ bảo hiểm y tế đã kết dư khoảng 3.500 tỷ đồng, dự kiến đến năm 2011, quỹ Bảo hiểm Y tế dư 6.000 tỷ đồng, thu đạt 29.000 tỷ đồng trong khi chi 23.000 tỷ đồng. Sau khi trích quỹ dự phòng và trả nợ cho phần bội chi 2009 trở lại trước, cuối năm 2011, quỹ còn dư 4.500 tỷ đồng
Chất lượng các dịch vụ, cơ sở vật chất, thái độ đội ngũ y bác sỹ, còn chưa tốt, thủ tục hành chính còn nhiều vướng mắc
III Nguyên nhân
Tại sao tỷ lệ tham gia bảo hiểm vẫn chưa cao?
Có 5 lý do chính để người dân không tham gia BHYT: thiếu hiểu biết và thiếu thông tin, do thủ tục phức tạp, quyền lợi hạn chế ,chất lượng phục vụ chưa tốt và mệnh giá thẻ BHYT chưa thực sự phù hợp với khả năng tài chính của người dân.
Thiếu hiểu biết và thiếu thông tin
Thiếu hiểu biết và thông tin không đầy đủ là nguyên nhân dẫn đến sự nhận thức nghèo nàn về mục đích và chức năng của BHYT, chính điều đó làm cho người ta từ chối không muốn tham gia BHYT. Thậm chí ngay cả khi có thông tin về BHYT thì nhiều người cũng không biết là phải mua ở đâu
Thủ tục phức tạp
Kết quả các cuộc điều tra chỉ ra rằng, thủ tục không hợp lý và rất phức tạp, bắt đầu từ khâu đăng ký, chuyển tuyến, khám bệnh, điều trị và cuối cùng là thủ tục thanh toán, đã làm cho người dân không hài lòng nên không muốn tham gia BHYT. Thậm chí, khi đã có thẻ BHYT họ cũng không muốn sử dụng thẻ BHYT để khám chữa bệnh. Người tham gia BHYT bắt buộc phải đăng ký nơi khám chữa bệnh ban đầu. Khi có vấn đề gì về sức khỏe, phải đến nơi này để khám đầu tiên. Nếu là người nghèo, nó rất phiền phức, vì phải trả thêm tiền đi lại và chi phí ăn uống khi đi KCB
Thủ tục chuyển viện cũng tương tự như vậy, không thuận tiện, phiền phức và tốn kém thời gian. Chẳng hạn: bệnh nhân đăng ký ở tuyến dưới, sau đó được chuyển lên tuyến trên để điều trị. Lần sau, bệnh nhân đến tuyến trên để khám lại, bác sĩ yêu cầu quay về tuyến dưới để lấy giấy chuyển viện. Quá phức tạp, mất thời gian và tốn kém.
Thêm vào đó, là phương thức thanh toán khi mua thẻ cũng bị phàn nàn. BHXH bán thẻ BHYT một lần duy nhất trong năm, chỉ trong 2 đến 3 ngày thông qua các đại lý BH ở địa phương. Vì thế, nếu một hộ gia đình có 5 thành viên, cần phải trả ngay 1 lần 1,5 triệu đồng. Điều đó là quá khả năng của họ. Do đó, họ mong muốn được mua BHYT trả góp.
Hạn chế về quyền lợi
Một trong những rào cản chính cho việc mở rộng BHYT, đó chính là gói quyền lợi. Quyền lợi mà người dân được hưởng từ BH quá thấp so với mong muốn của họ. Họ cho rằng, phần được BHXH thanh toán khi điều trị rất nhỏ, danh mục thuốc được BH thanh toán bị hạn chế, và tương tự như vậy là hạn chế thanh toán cho các dịch vụ kỹ thuật cao. Nếu xét dưới góc độ chi phí – hiệu quả, thì BHYT không mấy hấp dẫn người tham gia.
Khả năng tài chính của người đại bộ phận người dân
Những người tham gia TLN cho rằng, mệnh giá BHYT là cao so với thu nhập và vì vậy họ thiếu tiền để mua BHYT. Tại thời điểm tiến hành TLN, mệnh giá BHYT là 240.000 đồng ở nông thôn và 320.000 đồng ở thành thị, trong khi đó thu nhập bình quân là 200.000 đồng/người/tháng. Đối với các đối tượng cận nghèo, thu nhập thấp, đời sống còn nhiều khó khăn, mặc dù đã được nhà nước hỗ trợ tối thiểu 50% mà vẫn không có khả năng tham gia BHYT
Chất lượng khám chữa bệnh còn hạn chế
Việc tổ chức, quản lý KCB tại trạm y tế hiện còn một số khó khăn vướng mắc do chưa thống nhất. Điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị ít được đầu tư, thiếu nhân lực... đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng KCB và dẫn đến tình trạng vượt tuyến như hiện nay. Sự khác biệt khi KCB giữa đối tượng người tham gia BHYT và người trả viện phí đã khiến cho người tham gia BHYT cảm thấy phiền phức, mất thời gian khi phải thực hiện đúng các quy định quy trình KCB theo BHYT.
Tại sao quỹ bảo hiểm y tế luôn thất thu và bội chi?
Quỹ BHYT bị lạm dụng ngày càng nhiều với mức độ ngày càng tinh vi.Cách “móc” quỹ đầu tiên là lạm dụng dịch vụ kỹ thuật (DVKT), tập trung chủ yếu là xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh. Tức là bệnh nhân thường được chỉ định phải áp dụng các dịch vụ với chi phí cao hơn trong khi không thực sự cần thiết.
Cùng với việc lạm dụng dịch vụ kỹ thuật cao, hầu hết các bệnh viện hiện nay đều áp giá sát với mức trần khiến giá thuốc trong bệnh viện tăng cao, thậm chí còn cao hơn quá nhiều so với giá thị trường, vừa gây thiệt thòi cho người tham gia BHYT, vừa gây khó khăn cho các giám định viên BHYT. Điều đáng nói là, việc rà soát các đơn thuốc có hợp lý hay không lại là việc “lực bất tòng tâm” của BHXH khi đội ngũ giám định viên quá mỏng. Mặt khác, việc quản lý các toa thuốc này có đến tay người bệnh hay không cũng là vấn đề rất khó kiểm soát ...
Bên cạnh đó, hầu hết các bệnh viện tuyến TƯ đều quá tải và tình trạng này còn lâu mới giải quyết được. Hiện có những giường bệnh phải cõng 4 - 5 bệnh nhân; điều đáng nói là nếu tất cả bệnh nhân ấy đều có thẻ BHYT thì quỹ sẽ thanh toán chi phí 4 - 5 giường bệnh chứ không phải là 1. Điều đáng lưu tâm nữa là lực lượng giám định viên BHYT hiện nay quá mỏng: 1.800 giám định viên, trong khi đó lại cả nước hiện có tất cả 2.000 bệnh viện/cơ sở y tế trên toàn quốc, chưa kể 6.000 trạm y tế xã. Thường mỗi bệnh viện chỉ có 1 cán bộ giám định. Những nơi đông bệnh nhân ở tuyến TƯ thì phải có 8 – 10 người. Và tính ra, cũng còn khoảng 50% cơ sở y tế chưa được phủ sóng nhân viên giám định.
Bên cạnh đó, có một thực tế là khi thanh tra phát hiện ra sai phạm của các cơ sở y tế trong lạm dụng quỹ, BHXH không có chức năng xử lý nên ít có tác dụng răn đe. Chính vì vậy, BHXH Việt Nam đang đề nghị Chính phủ ban hành nghị định xử phạt trong lĩnh vực BHYT, trong đó cho phép BHXH có thể trực tiếp xử lý các sai phạm, các biểu hiện lạm dụng quỹ.
Một vấn đề lớn gây ra tình trạng thất thu của BHYT là sự chây ỳ trong việc đóng BH cho người lao động của các đối tượng sử dụng lao động. Nguyên nhân mà các doanh nghiệp đưa ra là công việc sản xuất đình trệ do khó khăn chung của nền kinh tế. Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa được phấn tích là do các doanh nghiệp chiếm dụng tiền BH của người lao động làm vốn sản xuất bởi nếu vay từ ngân hàng thì doanh nghiệp phải trả một khoản lãi vay tương đối lớn. Một số doanh nghiệp còn đem số tiền bảo hiểm của công nhân đi gửi tiết kiệm, bởi một thực tế là số tiền xử phạt nếu bị phát hiện lại không thấm vào đâu so với tiền lãi có được. Do vậy thì chế tài xử phạt còn nhẹ và cơ chế giám sát thanh tra còn nhiều khó khăn và vướng mắc cũng là những nguyên nhân khiến thất thu còn phổ biến. Tính chung cho BHXH, mức phạt hành chính cao nhất nếu vi phạm là 30 triệu đồng. Trong khi đó, lực lượng thanh tra lao động còn mỏng, bình quân mỗi tỉnh chỉ có 4- 5 cán bộ thanh tra lao động.
Bảo hiểm thất nghiệp
Ngày 29/6/2006, Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Bảo hiểm Xã hội (BHXH), trong đó qui định chính sách bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2009. Đây là loại hình bảo hiểm bắt buộc và là chính sách mới có liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động, đến vấn đề an sinh xã hội và quan trọng hơn là để người thất nghiệp nhanh chóng trở lại thị trường lao động thông qua việc hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tìm việc làm, đồng thời hỗ trợ thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị mất thu nhập do thất nghiệp và hỗ trợ về bảo hiểm y tế.
Khái quát chung về BHTN
Khái niệm
BHTN là bảo hiểm bồi thường cho người lao động bị thiệt hại về thu nhập do bị mất việc làm để họ ổn định cuộc sống và có điều kiện tham gia vào thị trường lao động.
Đặc điểm
BHTN cũng là 1 loại hình bảo hiểm con người, song có một số đặc điểm khác như:
Không có hợp đồng trước.
Người tham gia và người thụ hưởng hợp đồng là một
Không có việc chuyển rủi ro của những người bị thất nghiệp sang những người khác có khả năng thất nghiệp.
BHTN không có dự báo chính xác về số lượng và phạm vi và có thể thiệt hại về kinh tế rất lớn, đặc biệt là trong thời kỳ nền kinh tế bị khủng hoảng.
Đối tượng bảo hiểm
- Những người làm công ăn lương trong các doanh nghiệp có sử dụng một số lượng lao động nhất định
- Những người làm việc theo hợp đồng lao động với một thời gian nhất định ( thường là một năm trở lên) trong các doanh nghiệp, các cơ quan đoàn thể, các đơn vị hành chính sự nghiệp ( nhưng không phải là viên chức và công chức)
Theo quy định của Luật BHXH, người lao động tham gia BHTN phải là công dân Việt Nam làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc mà các hợp đồng này không xác định thời hạn hoặc xác định thời hạn từ đủ mười hai tháng đến ba mươi sáu tháng.
4. Phạm vi bảo hiểm
- Rủi ro nghề nghiệp
- Rủi ro việc làm
5. Điều kiện bảo hiểm
- Người tham gia bảo hiểm phải nộp phí bảo hiểm trong một thời gian nhất định.
- Thất nghiệp không phải do lỗi của người lao động.
- Phải đăng ký thất nghiệp, đăng ký tìm kiếm việc làm tại Cơ quan lao động có thẩm quyền do Nhà nước quy định.
- Phải sẵn sàng làm việc.
- Có sổ BHTN để chứng nhận có tham gia đóng phí BHTN đủ thời hạn quy định.
Luật BHXH quy định điều kiện hưởng chế độ trợ cấp thất nghiệp là: người lao động đã đăng ký thất nghiệp với cơ quan BHXH; chưa tìm được việc làm sau 15 ngày kể từ ngày đăng ký thất nghiệp đồng thời đã có thời gian đóng BHTN đủ 12 tháng trong vòng 24 tháng trước khi thất nghiệp, quy định này là khá phù hợp với điều kiện tài chính của quỹ BHTN trong thời gian đầu thực hiện.
II. Thực trạng triển khai chế độ BHTN ở Việt Nam hiện nay
1.Về tình hình triển khai thực hiện chính sách BHTN ở trung ương và địa phương
Nhìn chung các văn bản hướng dẫn và triển khai thực hiện chính sách BHTN được ban hành kịp thời, đầy đủ và đáp ứng được yêu cầu thực tế; có sự phối hợp tốt giữa các bộ, ngành trong việc nghiên cứu, xây dựng và ban hành văn bản.
Cục Việc làm (Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội) đã phối hợp với Bảo hiểm Xã hội Việt Na
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kinh t7871 b7843o hi7875m th7883 tr4327901ng b7843o hi7875m x hamp7.doc