Đề tài Thực trạng triển khai chế độ trợ cấp thai sản trong bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay

Hiện nay, việc thẩm định và tổ chức chi trả trợ cấp thai sản cho người lao động được căn cứ vào chứng từ C03-BH, C04-BH. Đối với những đơn vị sử dụng lao động đã áp dụng công nghệ thông tin trong quản lý và đã có mã số thu BHXH, khi phát sinh chứng từ cập nhật vào máy, giúp cho việc theo dõi, kiểm tra, kiểm soát ngày nghỉ được thuận lợi. Riêng những đơn vị sử dụng lao động làm thủ công hoàn thành bằng tay thì việc theo dõi, kiểm tra là rất khó khăn. Bên cạnh đó, những đơn vị đóng BHXH đều đặn, việc thẩm định chứng từ thanh toán theo niên độ kế toán thì công tác theo dõi quản lý ngày nghỉ thuận lợi. Tuy nhiên, trên thực tế không ít các đơn vị nợ đọng BHXH kéo dài, chứng từ phát sinh cách đây 1, 2, 3 năm, thậm chí có đơn vị truy thu 4, 5 năm mới thanh toán chế độ thai sản nên đã gây không ít khó khăn trong khâu quản lý. Để gắn trách nhiệm của đơn vị sử dụng lao động với người lao động và cơ quan BHXH, đề nghị khi thanh toán trợ cấp thai sản chỉ thanh toán theo niên độ kế toán, còn những thời điểm trước do đơn vị chậm đóng BHXH đơn vị phải chịu trách nhiệm với người lao động có như vậy thì việc chi trả trợ cấp ngắn hạn này mới mang đúng nghĩa là BHXH trả thay lương.

doc85 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 3800 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng triển khai chế độ trợ cấp thai sản trong bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2 ngày với mức trợ cấp bằng 100% thu nhập. 3 Pháp Mức trợ cấp bằng 100% thu nhập ròng. Thời gian nhận trợ cấp là 6 tuần trước khi sinh và 10 tuần sau khi sinh đối với đứa con thứ nhất và thứ hai. Đối với đứa con thứ ba được nghỉ 8 tuần trước khi sinh và 18 tuần sau khi sinh. Trường hợp song thai, người mẹ được nghỉ 12 tuần trước khi sinh và 22 tuần sau khi sinh. Nếu thai ba, người mẹ được nghỉ 24 tuần trước khi sinh và 22 tuần sau khi sinh. 4 Đức 100% thu nhập ròng. Thời gian nhận trợ cấp là 6 tuần trước khi sinh và 8 tuần sau khi sinh. Đối với những người không đủ điều kiện nhận trợ cấp như trên thì nhân trợ cấp một lần bằng 150 DM cho một lần sinh. 5 Nhật Bản Mức trợ cấp bằng 60% mức lương bình quân ngày trong 42 ngày trước khi sinh (98 ngày trong những trường hợp đa thai) và 56 ngày sau khi sinh. 6 Mêhicô Mức trợ cấp bằng 100% mức lương bình quân. Thời gian nhận trợ cấp là 42 ngày trước khi sinh và 42 ngày sau khi sinh (nếu sau khi sinh 42 ngày mà người mẹ không thể trở lại làm việc bình thường được thì họ sẽ được nhận trợ cấp ốm đau). 7 Balan Mức trợ cấp bằng 100% thu nhập. Thời gian nhận trợ cấp thai sản là 16 tuần đối với lần sinh thứ nhất, 18 tuần đối với lần sinh thứ hai trở đi và 26 tuần đối với những trường hợp sinh đôi, sinh ba trở lên. 8 Nga Mức trợ cấp bằng 100% thu nhập trong thời gian từ 10 – 12 tuần trước khi sinh và 10 – 16 tuần sau khi sinh. Những người nghỉ việc để trông con dưới 18 tháng tuổi được nhận mức trợ cấp hàng tháng bằng 200% mức lương tối thiểu. 9 Nam Phi Mức trợ cấp bằng 45% thu nhập tuần trong thời gian 18 tuần trước khi sinh và 8 tuần sau khi sinh. 10 Thái Lan Mức trợ cấp bằng 50% lương trước khi nghỉ trong vòng 90 ngày cho một lần sinh. Chỉ thực hiện trợ cấp cho những người lao động nữ có tham gia bảo hiểm. Thực hiện trợ cấp một lần là 4 000 bạt cho một lần sinh. Nguồn: Bảo đảm xã hội của các nước trên thế giới - Xuất bản năm 1999 CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI CHẾ ĐỘ TRỢ CẤP THAI SẢN CỦA CƠ QUAN BHXH VIỆT NAM I/ CHẾ ĐỘ THAI SẢN Ở VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ 1. Trước năm 1995 Chế độ BHXH là sự cụ thể hóa chính sách BHXH, là hệ thống các quy định cụ thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH đối với người lao động. Nói cách khác, đó là hệ thống các quy định được pháp luật hoá về đối tượng hưởng, điều hiện để được hưởng, mức hưởng, thời hạn hưởng, nghĩa vụ và mức đóng góp cho từng trường hợp BHXH cụ thể. Chế độ BHXH còn được biểu hiện dưới dạng các văn bản pháp luật và dưới luật, điều lệ … Như vậy, thực hiện BHXH là trực tiếp thực hiện các chế độ và qua đó, chính sách BHXH mới được thực hiện. Khi xem xét BHXH của một nước người ta thường chú ý xem xét thiết chế về BHXH chứ không phải là các chính sách BHXH. Tuy nhiên, thực tế cuộc sống hết sức phong phú nên các thiết chế về BHXH dù chi tiết đến đâu cũng khó có thể bao hàm được đầy đủ mọi chi tiết cụ thể. Vì vậy, trong quá trình thực hiện các chế độ BHXH thường phải nắm vững những vấn đề cốt lõi của chính sách BHXH thì mới có thể vận dụng thực hiện các chế độ một cách đúng đắn và nhất quán. Ở nước ta, Đảng và Chính phủ luôn xác định chính sách BHXH là chính sách có tính chất nhân văn sâu sắc, có tầm quan trọng và vai trò to lớn đối với cuộc sống con người. Đảng và Chính phủ đã luôn quan tâm đến việc hình thành và phát triển chính sách BHXH. Ngay từ khi thành lập (năm 1929), trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản Đông Dương (tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay) đã nêu: “Tổ chức tất cả vô sản giai cấp và công hội thực hành bảo hiểm cho thợ thuyền; giúp đỡ thợ thuyền thất nghiệp…”. Sau đó, tại Hội nghị Trung ương tháng 11/1941, Đảng ta đã ra Nghị quyết sẽ đặt ra Luật BHXH khi thiết lập được chính quyền cách mạng và tạo lập quỹ hưu bổng cho người già. Chính sách BHXH ở Việt Nam đã hình thành từ những năm đầu thành lập nước được thể hiện qua việc ban hành một số Sắc lệnh: - Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà (nay là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam) ra đời, mặc dù với một nền tài chính hết sức eo hẹp, kinh tế nghèo nàn và lạc hậu, nhưng ngày 03/11/1945 Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Chính phủ ký Sắc lệnh số 54/SL, ngày 14/6/1946 ký Sắc lệnh số 105/SL ấn định những điều kiện cho công chức về hưu. - Sắc lệnh số 20/SL ngày 16/02/1947 quy định về “hưu bổng thương tật” và “tiền tuất cho thân nhân tử sĩ” đối với những quân nhân thuộc các ngành quân đội quốc gia Việt Nam”. - Sắc lệnh số 29/SL ban hành ngày 12/3/1947, trong đó quy định vể “phụ cấp gia đình”, “phụ cấp thâm niên”, “lệ nghỉ của đàn bà đẻ và cho con bú”, chế độ ốm đau, tai nạn lao động đối với công nhân Việt Nam. - Sắc lệnh số 76/SL ban hành ngày 20 tháng 5 năm 1950, trong đó có quy định một số chế độ trợ cấp BHXH đối với công chức Nhà nước. - Sắc lệnh số 77/SL ban hành ngày 22 tháng 5 năm 1950 quy định chế độ trợ cấp đối với công nhân giúp việc Chính phủ trong thời kỳ kháng chiến. Tại Sắc lệnh số 29/SL đã dành hẳn một tiết để quy định về chế độ thai sản. Theo quy định tại tiết này, người phụ nữ nghỉ thai sản được nhận trợ cấp trong thời hạn 8 tuần với mức trợ cấp bằng 5% tiền công kể cả phụ cấp và đựoc nghỉ 30 phút trong giờ làm buổi sáng và 30 phút trong giờ làm buổi chiều để cho con bú trong thời hạn 1 năm kể từ ngày sinh. Điều 30 Sắc lệnh số 77/SL có quy định người lao động nữ trong thời kỳ thai sản được nghỉ 2 tháng, một tháng trước khi sinh và một tháng sau khi sinh với mức hưởng nguyên lương và phụ cấp. Trong thời hạn 1 năm kể từ ngày sinh, người phụ nữ được phép nghỉ 1 tiếng cho con bú. Những quy định trên có nội dung và nguyên tắc về BHXH, nhưng do hoàn cảnh đất nước đang có chiến tranh, nền kinh tế còn nhiều khó khăn nên việc thực hiện quyền lợi bảo hiểm xã hội nói chung và chế độ thai sản nói riêng đối với người lao động trong giai đoạn này chưa đầy đủ và toàn diện, quỹ BHXH chưa được hình thành. Tuy nhiên những chế độ trợ cấp mang tính bảo hiểm xã hội trong giai đoạn đầu thành lập nước đã giải quyết được một phần những khó khăn trong đời sống của công nhân viên chức Nhà nước và gia đình họ, củng cố thêm niềm tin của nhân dân vào Đảng, Chính phủ và làm cho mọi người an tâm, phấn khởi đẩy mạnh công tác. Nhằm mục đích phục vụ yêu cầu xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước sau ngày hoà bình lập lại ở Miền Bắc, đáp ứng yêu cầu không ngừng cải thiện đời sống của công nhân viên chức Nhà nước với số lượng ngày càng tăng lên và thực hiện Hiến pháp năm 1959, ngày 27 tháng 12 năm 1961, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định 218/CP kèm theo Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước và ngày 30/10/1964, ký Nghị định số 161/CP, ban hành Điều lệ tạm thời về các chế độ đãi ngộ đối với quân nhân ốm đau, bị thương, mất sức lao động, về hưu hoặc chết; đối với nữ quân nhân khi có thai va khi đẻ; đối với quân nhân dự bị và dân quân tự vệ ốm đau, bị thương hoặc chết trong khi làm nhiệm vụ quân sự”. Nội dung cụ thể của Điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức Nhà nước: - Đối tượng áp dụng: công nhân, viên chức nhà nước ở các cơ quan, xí nghiệp, công trường, nông trường, cán bộ, công nhân trong các đoàn thể nhân dân; công nhân viên chức trong các xí nghiệp công tư hợp doanh đã áp dụng chế độ trả lương như xí nghiệp quốc doanh; công nhân viên chức trong các xí nghiệp công nghiệp địa phương đã có kế hoạch lao động, tiền lương ghi trong kế hoạch nhà nước. - Các chế độ được quy định bao gồm 6 chế độ: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, mất sức lao động, hưu trí, tử tuất. - Tổ chức quản lý thực hiện BHXH: Nhà nước thành lập quỹ bảo hiểm xã hội độc lập thuộc Ngân sách Nhà nước và giao cho Tổng Công đoàn Việt Nam (nay là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) quản lý. Đây là Điều lệ tương đối đầy đủ, nó đã cụ thể hoá nhiều nội dung chủ yếu về BHXH đối với công nhân viên chức nhà nước. Đối với chế độ thai sản, Điều lệ dành hẳn tiết 2 (từ Điều 13 đến Điều 22) để quy định, nội dung cụ thể như sau: - Về thời gian trợ cấp: Thời gian nữ công nhân viên chức được nghỉ trước và sau khi đẻ là 60 ngày (kể cả ngày lễ và chủ nhật), nếu đẻ sinh đôi thì được nghỉ thêm 10 ngày, sinh ba thì được nghỉ thêm 20 ngày. Đối với nữ công nhân viên chức làm nghề đặc biệt nặng nhọc được nghỉ thêm 15 ngày. Những người sinh non có chứng nhận của thầy thuốc cũng được nghỉ 60 ngày. Những người bị sảy thai từ 3 tháng trở xuống được nghỉ từ 7 đến 15 ngày, bị sảy thai trên 3 tháng được nghỉ 15 đến 30 ngày. Những người làm nghề đặc biệt nặng nhọc được nghỉ thêm từ 3 đến 10 ngày. Số ngày cần nghỉ do thầy thuốc chỉ định. - Về mức trợ cấp: Nữ công nhân, viên chức nhà nước có thai được quyền khám thai ở các cơ sở y tế nhà nước. + Trong thời gian nghỉ đẻ, nghỉ việc do sảy thai, đẻ non được nhận trợ cấp thay tiền lương bằng 100% lương kể cả phụ cấp và trợ cấp con (nếu có), ngoài ra còn được nhận tiền bồi dưỡng: 12 đồng và tiền sắm tã lót: 8 đồng. Nếu đẻ sinh đôi, sinh ba thì được hưởng tiền bồi dưỡng và tiền tã lót gấp đôi, gấp ba. + Những người bị sảy thai được điều trị và bồi dưỡng ở bệnh viện theo chế độ như khi ốm đau. Nếu ở xa bệnh viện, bệnh xá phải nghỉ ở nhà thì được trợ cấp tiền bồi dưỡng là 6 đồng. + Khi sinh đẻ, sảy thai mà sức khoẻ suy nhược được thầy thuốc chứng nhận, sau khi nghỉ hết thời gian quy định mà không thể trở lại làm việc thì được nghỉ và nhận trợ cấp như khi ốm đau. + Sau khi đẻ bị mất sữa hoặc không được cho con bú vì mắc bệnh truyền nhiễm thì được trợ cấp mỗi tháng 10 đồng cho mỗi đứa con cho đến khi đủ 10 tháng tuổi. Đối với những người sinh đôi, sinh ba, mặc dù có đủ sữa cho con bú nhưng vẫn được nhận trợ cấp như trên cho đứa con thứ 2 trở đi. + Đối với nữ công nhân viên chức nhà nước hoặc nam công nhân, viên chức nhà nước có vợ không phải là công nhân, viên chức nhà nước khi con chưa được 10 tháng thì người nuôi con được hưởng trợ cấp này. Tóm lại: Chế độ BHXH giai đoạn trước năm 1995 nói chung và chế độ thai sản nói riêng đã có những thành tựu đáng kể và thực sự trở thành sự bảo vệ của nhà nước và xã hội đối với công nhân, viên chức và quân nhân; tạo điều kiện để công nhân, viên chức quân nhân yên tâm, phấn khởi lao động, sản xuất, chiến đấu, góp phần giải phóng và xây dựng đất nước. Các chế độ BHXH đã thể hiện tính ưu việt và nhân văn của chế độ XHCN ở nước ta; quy định về các chế độ BHXH thường xuyên được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với hoàn cảnh thực tế của từng thời kỳ. BHXH đã khẳng định quyền lợi thiết yếu của cán bộ, viên chức, quân nhân trong suốt quá trình làm việc và nghỉ việc khi cao tuổi sức yếu. Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, chính sách BHXH nói chung và chế độ thai sản nói riêng thời kỳ này cũng bộc lộ những nhược điểm, đặc biệt từ khi đổi mới nền kinh tế - xã hội: - Đối tượng được tham gia và thụ hưởng chính sách BHXH chỉ giới hạn là cán bộ, công nhân viên chức làm trong khu vực quốc doanh và lực lượng vũ trang (khu vực nhà nước), mà lực lượng này chỉ chiếm 30% lực lượng lao động trong cả nước nên chưa thể hiện tính xã hội hoá cao, tạo ra sự phân biệt giữa những người lao động làm việc trong khu vực quốc doanh và ngoài quốc doanh gây tâm lý chỉ lao động trong khu vực quốc doanh mới có vị trí trong xã hội, mới được vinh dự về hưu. Điều này hạn chế việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, bởi vì việc di chuyển lao động từ khu vực kinh tế nhà nước ra khu vực kinh tế ngoài quốc doanh hoặc ngược lại rất khó thực hiện dẫn đến nhiều người lao động không được tham gia BHXH, do đó đã tạo ra sự mất công bằng trong việc hưởng quyền lợi BHXH của người lao động trong các thành phần kinh tế. - Thực hiện quản lý thu chi BHXH chưa có hiệu quả: Tổ chức chi trả BHXH mang tính chất hành chính, thực chất chỉ làm nhiệm vụ chi trả từ nguồn NSNN là chính, không chú ý đến thu quỹ, công việc thu nộp BHXH dựa trên cơ sở “tự nguyện” của các cơ quan xí nghiệp đã làm thất thu rất lớn cho quỹ BHXH. Thu cho quỹ chỉ được 16%, NSNN hàng năm phải bù 84% số chi BHXH. Việc kiểm tra, kiểm soát đối tượng hưởng chính sách còn lỏng lẻo nên đã xảy ra nhiều thiếu sót trong việc thực hiện chính sách. Nguyên nhân chính là do nhận thức chủ quan về BHXH cho rằng chế độ BHXH thực chất là một khoản đãi ngộ của Nhà nước dành cho công nhân viên chức và lực lượng vũ trang. Khi Ngân sách Nhà nước gặp khó khăn thì nguồn để chi trả BHXH cho người lao động không đảm bảo, ảnh hưởng đến đời sống của đối tượng. - Việc tổ chức quản lý thực hiện chính sách bị phân tán, phần chi về BHXH có bộ phận dư thừa không thể điều tiết sang bộ phận thiếu được. Quá trình quản lý đan xen với các lĩnh vực ưu đãi xã hội, cứu trợ xã hội, phúc lợi xã hội nên việc giải quyết chế độ nhiều khi bị chồng chéo, kém hiệu quả. Hoạt động của tổ chức BHXH bị cứng nhắc, hành chính hoá, gây nhiều phiền hà cho đơn vị sử dụng lao động và người lao động. 2. Từ năm 1995 đến nay 2.1 Nội dung của chế độ trợ cấp thai sản ở nước ta Để phù hợp với sự đổi mới về kinh tế, xã hội và khắc phục được những nhược điểm của chính sách BHXH trong nền kinh tế bao cấp trước đây, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương đổi mới chính sách BHXH. Chủ trương được thể hiện trong Hiến pháp năm 1992: “Nhà nước thực hiện BHXH đối với công chức và người làm công ăn lương đồng thời khuyến khích các hình thức BHXH khác đối với người lao động”. Tại kỳ họp thứ V quốc hội khoá IX, Bộ Luật Lao động đã được thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1995, trong đó có chương XII quy định về BHXH. Trên cơ sở những quy định đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/CP kèm theo Điều lệ Bảo hiểm xã hội ngày 16/01/1995. Điều lệ BHXH ban hành lần này là văn bản chính thức đầu tiên thay thế các văn bản quy định về BHXH đã ban hành trước đây. Để thực hiện chính sách BHXH đã quy định tại Điều lệ này, ngày 16/02/1995 Chính phủ đã ban hành Nghị định 19/CP về việc thành lập BHXH Việt Nam trên cơ sở thống nhất tổ chức BHXH ở Trung ương và địa phương thuộc Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam với những chức năng chính là tổ chức thu, giải quyết các chế độ BHXH, thực hiện đầu tư, bảo toàn, tăng truởng quỹ BHXH. Điều lệ BHXH mới ban hành đã xác định rõ mục tiêu cơ bản là thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH đã quy định trong Bộ Luật Lao động đối với người lao động gặp trường hợp rủi ro trong quá trình lao động; quyền lợi của người phụ nữ khi sinh con và chăm sóc con; quyền lợi của người lao động khi hết tuổi lao động. Nhằm hỗ trợ cho người lao động có thu nhập thay thế trong thời gian mang thai, sinh sản, nuôi con nuôi, để có điều kiện vật chất chăm sóc cho bản thân người lao động và cho trẻ em. Nội dung cụ thể của chế độ thai sản được quy định tại điều lệ BHXH ban hành kèm theo Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995 như sau: 2.1.1 Đối tượng áp dụng: + Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước; + Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên; + Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp; trong các cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác; + Người lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc cơ quan hành chính, sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể; + Người lao động làm việc trong các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ thuộc lực lượng vũ trang; + Người giữ chức vụ dân cử, bầu cử làm việc trong các cơ quan quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện; + Công chức, viên chức Nhà nước làm việc trong các cơ quan hành chính, sự nghiệp, người làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể từ Trung ương đến cấp huyện. Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc còn được bổ sung trong một số Nghị định: Nghị định số 09/1998/NĐ-CP ngày 23/01/1998 của Chính phủ bổ sung thêm đối tượng là cán bộ, xã, phường; Nghị định 73/1999/NĐ-CP ngày 19/8/1999 của Chính phủ bổ sung đối tượng là người lao động trong các tổ chức thực hiện xã hội hoá thuộc ngành giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao; Nghị định số 152/1999/NĐ-CP ngày 20/9/1999 bổ sung đối tượng là người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời hạn tại nước ngoài. Tại Nghị định số 01/2003/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 09/01/2003, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đã được bổ sung so với Nghị định 12/CP. Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc bao gồm: - Người lao động làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở lên và hợp đồng lao động không xác định thời hạn trong các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức sau: + Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước; + Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật Doanh nghiệp; + Doanh nghiệp thành lập, hoạt động theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam; + Doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội; + Hộ sản xuất, kinh doanh cá thể, tổ hợp tác. + Các cơ quan hành chính, sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác, lực lượng vũ trang; + Cơ sở bán công, dân lập, tư nhân thuộc các ngành văn hoá, y tế, giáo dục, đào tạo, khoa học, thể dục thể thao và các ngành sự nghiệp khác; + Trạm y tế xã, phường, thị trấn; + Cơ quan, tổ chức nước ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam, trừ trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác. + Các tổ chức khác có sử dụng lao động. - Cán bộ, công chức, viên chức theo Pháp lệnh cán bộ, công chức. - Người lao động, xã viên làm việc và hưởng tiền công theo hợp đồng lao động từ đủ 3 tháng trở lên trong các hợp tác xã thành lập, hoạt động theo Luật Hợp tác xã. - Người lao động làm việc tại các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức quy định tại khoản 1, khoản 3 và khoản 6 Điều này, làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn dưới 3 tháng, khi kết hạn hợp đồng lao động mà người lao động tiếp tục làm việc hoặc giao kết hợp đồng lao động mới đối với doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân đó thì phải tham gia BHXH bắt buộc. - Người lao động nêu trên mà đi học, thực tập, công tác, điều dưỡng trong và ngoài nước mà vẫn hưởng tiền lương hoặc tiền công thì cũng thuộc đối tượng thực hiện BHXH bắt buộc. - Người lao động làm việc và hưởng tiền lương,tiền công theo hợp đồng lao động từ đủ 3 tháng trở lên trong các doanh nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp. Đối với người lao động làm việc tại các doanh nghiệp nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp đã thực hiện giao khoán đất có quy định riêng. Như vậy, theo Nghị định này thì phạm vi đối tượng tham gia BHXH đã mở rộng đến mọi người lao động trong các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có sử dụng lao động thuộc mọi thành phần kinh tế. Đây là bước tiến lớn về chính sách BHXH ở Việt Nam, nó góp phần thực hiện công bằng xã hội cho mọi người lao động và ổn định đời sống kinh tế - xã hội ở nước ta. Đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ quân đội nhân dân và công an nhân dân, chính sách, chế độ BHXH được quy định tại Nghị định 45/CP ngày 15/7/1995 của Chính phủ. 2.1.2 Điều kiện hưởng trợ cấp thai sản Điều kiện nhận trợ cấp thai sản được quy định tại Nghị định 12/CP và Nghị định số 45/CP: - Lao động nữ, nữ quân nhân và nữ công an nhân dân có tham gia bảo hiểm xã hội khi có thai và sinh con. - Người lao động (không phân biệt nam hay nữ) nếu nuôi con nuôi sơ sinh theo quy định tại Luật Hôn nhân gia đình. 2.1.3 Thời gian và mức hưởng trợ cấp thai sản Thời gian và mức hưởng trợ cấp thai sản của người lao động nữ nói chung được quy định tại Nghị định 12/CP và được sửa đổi bổ sung tại Nghị định 01/2003/NĐ-CP và nữ công an nhân dân và nữ quân nhân được quy định tại Ngị định 45/CP. Cụ thể như sau: - Trong thời gian mang thai: được nghỉ việc để đi khám thai 3 lần, mỗi lần 1 ngày. Những trường hợp ở xa tổ chức y tế hoặc người mang thai có bệnh lý, thai không bình thường thì được nghỉ việc hưởng trợ cấp 2 ngày cho mỗi lần khám thai. - Trong thời gian trước và sau khi sinh con: Thời gian nghỉ tuỳ thuộc vào điều kiện lao động và môi trường sống: + Đối với người lao động làm việc trong điều kiện bình thường, thời gian nghỉ là 4 tháng (5 tháng đối với nữ quân nhân và nữ công an nhân dân) + Đối với những người làm các nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, làm việc theo chế độ 3 ca; làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,5 và 0,7 thời gian nghỉ là 5 tháng (đối với nữ quân nhân và nữ công an nhân dân là 6 tháng). + Đối với những người làm nghề hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, đặc biệt độc hại theo danh mục do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành, làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 1, thời gian nghỉ là 6 tháng. - Đối với những trường hợp sinh đôi trở lên, thì tính từ con thứ 2 trở đi, cứ mỗi con người mẹ được nghỉ thêm 30 ngày. - Đối với những trường hợp sau khi sinh con, nếu con dưới 60 ngày tuổi bị chết (kể cả trường hợp thai chết lưu) thì thời gian nghỉ là 75 ngày tính từ ngày sinh; nếu con từ 60 ngày tuổi trở lên bị chết thì thời gian nghỉ là 15 ngày tính từ khi con chết, nhưng không vượt quá thời gian quy định. - Người lao động nuôi con nuôi sơ sinh theo quy định tại Luật hôn nhân gia đình được nghỉ việc hưởng trợ cấp cho đến khi con được 4 tháng tuổi. Mức trợ cấp thai sản được tính như sau: a) Trợ cấp khi Tiền lương làm căn cứ nghỉ việc đi đóng BHXH của tháng Số khám thai, trước khi nghỉ 100% ngày sẩy thai 26 ngày nghỉ b) Tiền lương làm căn cứ Trợ cấp nghỉ việc khi đóng BHXH của tháng Số tháng nghỉ sinh con hoặc nuôi trước khi sinh con hoặc sinh con hoặc con nuôi nuôi con nuôi nuôi con nuôi Ngoài ra, khi sinh con lao động nữ còn được hưởng trợ cấp một lần bằng một tháng tiền lương đóng BHXH. Lao động nữ có thể đi làm việc trước khi hết thời hạn nghỉ thai sản theo qui định nếu: Đã nghỉ 60 ngày kể từ khi sinh con. Có chứng nhân của bác sĩ rằng trở lại làm việc không có hại cho sức khoẻ. Phải báo cho người lao động biết trước 1 tuần. Trong trường hợp này, ngoài tiền lương, lao động nữ vẫn tiếp tục hưởng trợ cấp thai sản đến hết thời hạn quy định. 2.2 Quy định, thủ tục và quy trình giải quyết hưởng chế độ thai sản Quy định về thủ tục và quy trình giải quyết chế độ thai sản được thực hiện theo Quyết định số 1584/1999/QĐ-BHXH ngày 24 tháng 6 năm 1999 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam; Quyết định sửa đổi, bổ sung số 2967/1999/QĐ-BHXH ngày 25/11/1999; quy trình quản lý chi trả thực hiện theo quy định tại Quyết định số 2930/1999/QĐ-BHXH ngày 24/11/1999 của BHXH Việt Nam; Quyết định số 1184/QĐ-BHXH-BC ngày 26/9/2003 và Quyết định số 1826/QĐ-BHXH ngày 01/12/2004 của Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam. 2.2.1 Quy định về hồ sơ nhận trợ cấp thai sản - Khi mang thai: Trong thời gian mang thai, nếu người lao động nghỉ việc đi khám thai hoặc bị xảy thai, thai chết lưư thì phải có: + Phiếu khám thai + Giấy xác nhận xảy thai, thai chết lưu (hoặc giấy xác nhận thai có bệnh lý, thai không bình thường của tổ chức y tế theo quy định của Bộ y tế). - Khi sinh con: Hồ sơ trợ cấp sinh con gồm: + Bản sao giấy chứng sinh hoặc bản sao giấy khai sinh. + Nếu người lao động nuôi con nuôi sơ sinh hợp pháp thì có giấy chứng nhận của cấp có thẩm quyền xác nhận về con nuôi. Trường hợp người lao động sau khi sinh con, nếu con bị chết thì phải có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn hoặc cơ sở y tế nơi sinh con, nếu đã khai sinh cho con mà con bị chết thì phải có giấy chứng tử. Trường hợp người lao động làm công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc công việc đặc biệt nặng nhọc, đặc biệt độc hại; làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,5 trở lên theo quy định của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội hoặc chế độ làm việc 3 ca mà trong sổ BHXH không thể hiện rõ những điều này thì khi nghỉ sinh con hưởng chế độ thai sản phải có thêm giấy xác nhận của người sử dụng lao động về điều kiện làm việc. 2.2.2 Quy tình tiếp nhận giải quyết hưởng chế độ thai sản. Nguyên tắc chung áp dụng đối với việc tiếp nhận, xét duyệt chế độ trợ cấp thai sản là cơ quan Bảo hiểm xã hội cấp nào (cấp huyện hoặc cấp tỉnh) trực tiếp quản lý và thu BHXH đối với đơn vị sử dụng lao động thì cơ quan BHXH cấp đó chịu trách nhiệm tiếp nhận hồ sơ xét duyệt, chi trả và thanh toán, quyết toán chế độ thai sản của đơn vị sử dụng lao động đó theo quy định của BHXH Việt Nam. Việc tiếp nhận và quy trình giải quyết chế độ trợ cấp thai sản đối với lực lượng vũ trang có quy định riêng. Trách nhiệm của đơn vị sử dụng lao động: - Tiếp nhận giấy chứng nhận nghỉ ốm hưởng BHXH, giấy ra viện, giấy khám thai, giấy chứng sinh … do người lao động thuộc quyền quản lý của đơn vị có tham gia BHXH chuyển đến và căn cứ vào những giấy chứng nhận này để lập bản danh sách theo mẫu số Co4-BH “Danh sách người lao động hưởng trợ cấp BHXH” rồi chuyển cho BHXH huyện hoặc BHXH tỉnh xét duyệt. - Việc giải quyết vhi trả trợ cấp thai sản và thanh quyết toán thực hiện như quy định hiện hành. Trách nhiệm vủa cơ quan BHXH tiếp nhận, xét duyệt

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36493.doc
Tài liệu liên quan