MỤC LỤC
I- Phần mở đầu
II-Nội dung
Chương 1. Vai trò của hoạt động xuất khẩu dệt may đối với sự phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam
1. Khái quát và đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam
Khái quát chung về ngành dệt may Việt Nam
Đặc điểm ngành dệt may Việt Nam
Chưa chủ động được nguồn nguyên liệu
Gia công là chính
Công nghệ còn lạc hậu
Các nhân tố ảnh hưởng tới kim ngạch xuất khẩu hang dệt may Việt Nam
Các nhân tố bên trong
Các nhân tố bên ngoài
2. Vai trò của xuất khẩu dệt may đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam
Chương 2. Thực trạng xuất khẩu dệt may của Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
1. Khái quát về Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
1.1. Quá trình hình thành và phát triển
1.2.Chuyển đổi mô hình từ Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam sang mô hình Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
2. Khái quát về thị trường dệt may Thế Giới và các nước xuất khẩu chính của VINATEX
3.Thực trạng hàng xuất khẩu dệt may Việt Nam và VINATEX những năm gần đây
Chương 3. Một số giải pháp nâng cao khả năng xuất khẩu hang dệt may của Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
1. Định hướng` xuất khẩu đến năm 2020
1.1 Định hướng chung đến năm 2020
1.2. Mục tiêu của VINATEX về hàng xuất khẩu đến năm 2020
2. Giải pháp nhằm thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu của Tập Đoàn Dệt May Việt Nam - VINATEX trong giai đoạn tới
2.1.Giải pháp về tài chính và vốn
2.2. Giải pháp về đầu tư
2.3. Giải pháp về thị trường
2.4. Giải pháp về quản lý điều hành
3. Một số kiến nghị với Chính phủ để đẩy mạnh khả năng xuất khẩu dệt may vào thị trường thế giới
3.1. Xúc tiến thương mại
3.2. Chính sách ưu đãi đầu tư
3.3. Chính sách phát triển nguồn nguyên liệu
III- Kết luận
IV- Danh mục tài liệu tham khảo
V- Phụ lục
35 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2615 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và các biện pháp nâng cao kim ngạch xuất khẩu của Tập Đoàn Dệt May Việt Nam – VINATEX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợc gọi là CMT. Theo hình thức này toàn bộ nguyên phụ liệu đêù do khách hang nước ngoài cung cấp cho các doanh nghiệp may Việt Nam.
Sơ đồ tự sản xuất, lưu thông hàng may mặc
Thiết kế sản phẩm
Lựu chọn nhà cung cấp
Mua nguyên phụ liệu
Cắt, may, tô điểm (CMT)
Xuất khẩu
Nguồn: Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
Hầu hết các doanh nghiệp dệt may Việt Nam thường áp dụng 2 hình thức xuất khẩu, ngoài CMT là hình thức “xuất khẩu hang hoá theo điều kiện FOB (Free On Board)”. Hình thức này trái với CMT, theo hình thức này, chúng ta tự mua nguyên phụ liệu rồi bán sản phẩm cho khách hàng nước ngoài.
Thứ ba: Công nghệ còn lạc hậu:
Trong nhiều lý do dẫn đến yếu kém về năng lực sản xuất của ngành may Việt Nam, công nghệ là tác nhân chủ yếu. Khả năng tự động hoá trong quá trình sản xuất trong các doanh nghiệp may chỉ đạt mức độ trung bình, công nghệ cắt và may còn lạc hậu. Công nghệ phục vụ các công đoạn phụ trợ, khâu giặt còn bất cập; công tác thiết kế, công nghệ tạo mẫu của Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn khởi đầu đã làm hạn chế đến chất lượng, mẫu mã, và chủng loại sản phẩm.
Tính đến năm 2006, Tập đoàn Dệt may Việt Nam có 126 xưởng may với 78.000 thiết bị may, cắt và hoàn tất các loại, trong đó các xưởng trình độ tiên tiến chiếm 20%, xưởng trình độ trung bình khá chiếm 70% và xưởng trình độ trung bình chiếm 10%. Một số xưởng thuộc công ty may Việt Tiến, công ty may Nhà Bè, công ty may Đức Giang, công ty may Phương Đông… đã có sử dụng phần mềm trong sáng tác mẫu và thiết bị cắt vải của Mỹ, Đức…Ngoài ra còn có khoảng 200 xưởng may thuộc doanh nghiệp Nhà nước khác có trình độ trung bình khá và trung bình.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuẩt khẩu hàng dệt may Việt Nam:
1.3.1. Các nhân tố bên trong:
Có thể nói về ngành dệt may nói riêng, có rất nhiều các yếu tố bên trong một doanh nghiệp có ảnh hưởng đến kim ngạch xuất khẩu hàng hoá, tuy nhiên ở đây, với giơí hạn về chiều dài của bản đề án này em chỉ xin đưa ra ba nhân tố chính, đó là: giá cả các yếu tố đầu vào, giá cả sản phẩm, công nghệ:
Giá cả các yếu tố đầu vào: Để tiến hành sản xuất , ngành dệt may cần các yếu tố đầu vào. Giá cả các yếu tố đầu vào là nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng tới giá thành sản phẩm. Muốn hạ sía thành sản phẩm thì trước tiên phải tìm được các nguồn đầu vào với giá rẻ:
Nguyên phụ liệu: Như đã nói ở trên, nguyên phụ liệu ngành đến 90% là phải nhập khẩu. Phần nguyên phụ liệu mà Việt Nam có thể tự cung cấp cho ngành dệt may là rất thấp và chất lượng kém. Phần nguyên phụ liệu phải nhập khẩu với giá cao này là nguyên làm giá cả của hàng hoá dệt may Việt Nam cao hơn so với các sản phẩm cùng loại của các nước khác.
Lao động: Có thể nói một trong những yếu tố tạo điều kiện thuận lợi nhất cho ngành dệt may Việt Nam là chi phí lao động rẻ. Một đất nước với hơn 80 triệu dân là nguồn cung cấp lao động dồi dào cho ngành này. Ngoài những cán bộ có trình độ kỹ thuật thì một số lượng lớn lao động phổ thông vẫn được ngành dệt may Việt Nam hiện nay sử dụng. Ngành dệt may Việt Nam đang tận dụng đặc điểm này để hạ giá thành sản phẩm.
Giá cả sản phẩm: Dù xét về phía cung hay cầu thì giá cả bao giờ cũng là yếu tố ảnh hưởng có tính chất quyết định nhất tới sản lượng hàng dệt may bán ở trong nước hay nước ngoài. Xem xét với hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu: giá cả hàng dệt may Việt Nam vẫn thuộc vào loại cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới như: Trung Quốc, Ấn Độ… Nguyên nhân chính của tình trạng này là do hàng dệt may của Việt Nam chưa tự túc được nguồn nguyên phụ liệu và sản xuất với các trang thiết bị còn yếu kém. Trong kinh doanh xuất nhập khẩu, hai yếu tố hạ giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm vẫn là điều kiện tiền đề cho hàng dệt may của Việt Nam có chỗ đứng trên thế giới.
Công nghệ: Trong kinh doanh hiện đại, công nghệ là cách thức để cắt giảm chi phí doanh nghiệp. Mặc dù đã có nhiều cố gắng và nỗ lực trong việc đầu tư, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, song nhìn chung, công nghệ thiết bị của ngành dệt may vẫn còn lạc hậu. Thêm nữa công tác quản lý kỹ thuật của ngành còn thấp nên đã ảnh hưởng tới năng lực sản xuất, chát lượng và giá thành sản phẩm khi xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.
1.3.2. Các nhân tố bên ngoài:
Năm 2006 vừa qua, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 151 của Tổ chức Thương Mại thế giới WTO, sự kiện này đã đem lại cho Việt Nam nhiều cơ hội trong kinh doanh hàng hoá nói chung và nhất là hàng hoá xuất khẩu dệt may, nhưng cũng có không ít những khó khăn mà chúng ta cần tháo gỡ. Khi Việt Nam xuất khẩu hàng dệt may ra thị trường nước ngoài, sẽ có rất nhiều yếu tố môi trường tác động đến kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này:
Các hạn ngạch nhập khẩu và chính sách nhà nước đối với hàng nhập khẩu của các nước nhập khẩu: Đây là yếu tố đầu tiên mà các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nói chung và VINATEX nói riêng cần tìm hiểu trước khi muốn xuất khẩu hàng sang bất kỳ một quốc gia nào để điều chỉnh cho phù hợp. Sự kiên “quota dệt may” đã có nhiều tác động thuận lợi cho hàng xuất khẩu dệt may của Việt Nam .
Thu nhập: thu nhập là một yếu tố ảnh hưởng tới lượng cầu của một loại hàng hoá. Dựa vào thu nhập mà người ta phân chia hàng hoá ra làm hai loại: hàng hoá thông thường và hàng hoá cấp thấp. Nếu nhu cầu về một loại hàng hoá giảm khi thu nhập giảm, thì hàng hoá đó gọi là hàng hoá thông thường. Nếu nhu cầu về một loại hàng hoá tăng khi thu nhập giảm, thì hàng hoá này được gọi là hàng hoá cấp thấp.
Một người được cho là ăn mặc đẹp hay ít ra là biết cách ăn mặc thì điều đầu tiên là họ phải có một mức thu nhập kha khá, sau đó sẽ là các yếu tố về tính thẩm mỹ. Các yếu tố này ảnh hưởng rất nhiều đến sức mua của người dân trong một quốc gia. Hàng hoá dệt may Việt Nam chủ yếu là phục vụ cho những khách hàng co mức thu nhập trung bình khá.
Thị hiếu và phong tục tập quán của quốc gia nhập khẩu: Yếu tố rõ ràng nhất quyết định tới nhu cầu khách hàng là thị hiếu. Qua thực tế, chúng ta có thể nói rằng: hàng dệt may Việt Nam có thể đáp ứng được những khách hàng khó tính nhập khẩu. Một phương trâm xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam là “ việc kinh doanh có tính địa phương”. Có nghĩa là khi xuất khẩu bất kỳ một sản phẩm dệt may nào thì các doanh nghiệp cũng đều quan tâm tới sở thích của khách hàng và phong tục tập quán ở các thị trường khác nhau. Ví dụ như: ở thị trường EU, các sản phẩm của chúng ta luôn cố gắng hoàn thiện ở các khâu chất lượng, mẫu mã, thiết kế để đáp ứng tốt nhu cầu của những khách hàng khó tính này.
2. Vai trò của xuất khẩu dệt may đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam:
Việt Nam đang là nước ở giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đặc biệt với đường lối chính sách kinh tế mở, ưu tiên chú trọng tới phát triển xuất khẩu của nhà nước ta đã tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho sự phát triển của ngành dệt may. Ngành dệt may đã từng bước khẳng định được vai trò của mình trong nền kinh tế quốc dân cũng như trong tiến trình hội nhập kinh tế, nhất là về xuất khẩu.
Hiện nay, đối với Việt Nam, ngành dệt may có vị trí quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá đất nước. Hiện nay ngành này đang thu hút trên 3 triệu lao động, trong đó 80% là nữ, lao động trong công nghiệp dệt may chiếm khoảng 15% lao động công nghiệp cả nước. Như vậy việc thu hút nhiều lao động trong dệt may có ý nghĩa to lớn đối với bối cảnh nước ta hiện nay. Từ khi chuyển đổi sang cơ chế thị trường thì lực lượng lao động thất nghiệp ở nước ta rất lớn, đời sống nhân dân nhiều nơi còn rất khó khăn. Việc thu hút lao động cho ngành dệt may đã góp phần nâng cao đời sống dân cư, góp phần tạo sự ổn định tình hình kinh tế xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành, vùng và lãnh thổ theo hướng tích cực.
Trong 10 ngành công nghiệp xuất khẩu lớn nhất nước ta thì công nghiệp dệt may đứng thứ hai sau dầu thô. Trong thập kỷ 90, giá trị xuất khẩu của ngành tăng 27,3%/năm từ 178,7 riệu USD năm 1990 lên 1,892 triệ USD năm 2000, giá trị xuất khẩu ngành dệt may chiếm 18% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu trong cả nước.
Công nghiệp dệt may phát triển kéo theo và thúc đẩy sự phát triển của nhiều ngành công nghiệp khác. Trong đó có ngành cung cấp nguyên liệu và các ngành sử dụng sản phẩm của ngành dệt may.
Đối với xuất khẩu, xuất khẩu dệt may mang lại nguồn thu ngoại tệ quan trọng để nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên liệu cần thiết để phục vụ sản xuất và thực hiện các mục tiêu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Dệt may là ngành khá dễ tham gia vào quan hệ thương mại quốc tế. Hiện nay các nước nhập khẩu đều có ưu đãi cho hàng dệt may, đặc biệt là hàng dệt may của các nước đang phát triển. Hàng rào mậu dịch đối với các sản phẩm thuộc ngành này đã được dỡ bỏ và nới lỏng rất nhiều.
Dệt may là ngành xuất khẩu mũi nhọn có mặt tại hơn 50 nước trên thế giới, ngành dệt may không chỉ giữ vị trí quan trọng trong quá trình thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mà đối với chiến lược mở cửa kinh tế, hoà nhập vào khu vực và thế giới, ngành dệt may cũng đi đầu, mở đường cho mối liên kết ngày càng sâu sắc giữa kinh tế nước ta và kinh tế thế giới.
Chương 2. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA TẬP ĐOÀN DỆT MAY VIỆT NAM - VINATEX
Khái quát về Tập Đoàn Dệt May Việt Nam:
Quá trình hình thành và phát triển:
Việt Nam là nước nông nghiệp trồng lúa nước, do vậy ngành dệt may Việt Nam ra đời muộn hơn so với ngành dệt may của các nước phát triển trên thế giới . Tuy vậy, từ lâu Việt Nam cũng đã xuất hiện những làng nghề, vùng nghề dệt may khá phát triển: Vạn Phúc, Hà Đông, Nam Định… Những làng nghề này nổi tiếng về những sản phẩm dệt, may của mình, và cho đến nay những sản phẩm của họ vẫn rất được ưa chuộng, nhưng chỉ sản xuất thủ công, nhỏ lẻ, manh mún, tính tự cung, tự cấp là chính. Để xây dựng một ngành công nghiệp dệt may phát triển thì cần một trình độ công nghiệp cao mà bản thân những làng nghề, vùng nghề truyền thống này chỉ để lại một vốn kinh nghiệm về dệt may nhất định.
Trước khi Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam thành lập, để thực hiện chức năng làm đầu mối quản lý nha nước theo ngành chuyên môn hoá thì cơ quan được nhà nước giao nhiệm vụ đối với ngành dệt là Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam, đối với ngành may là Liên hiệp sản xuất nhập khẩu may.
Tổng Công Ty Dệt Việt Nam (TETIMEX) được thành lập theo Quyết định số 149-Cnn/TCLD ngày 4/3/1993 của Bộ trưởng Bộ Công Nghiệp nhẹ (nay là Bộ Công nghiệp). Liên hiệp sản xuất nhập khảu may (CONFECTIMEX) được thành lập theo Quyết định số 518-Cnn/TCLD ngày 29/12/1989.
Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam có tên giao dịch là Việt Nam National TEXTILE and CAMENT Coporaton (VINATEX ) được thành lập theo Quyết định số 253/Ttg của Thủ tướng Chính phủ. VINATEX có đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo pháp luật nước CHXHCN Việt Nam. Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam được thành lập với mục đích tăng cường tích tụ, tập trung, phân công chuyên môn hoá và hợp tác sản xuất để thực hiện nhiệm vụ nhà nước giao, nâng cao khả năng và hiệu quả kinh doanh của các đơn vị thành viên và toàn Tổnh công ty.
1.2.Chuyển đổi mô hình từ Tổng Công Ty Dệt May Việt Nam sang mô hình Tập Đoàn Dệt May Việt Nam:
Ngày 8/12/2005 Tổng ciong Ty Dệt May Việt Nam tổ chức lễ công bố Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập Tập Đoàn Dệt May Việt Nam VINATEX. Với Quyết định này, từ một Tổng công ty có trên 60 đơn vị thành viên và công ty liên kết, VINATEX trở thành một Tập đoàn có trên 10 công ty mẹ, công ty con, là công ty 100 % vốn nhà nước, công ty TNHH nhà nước một thành viên, hoặc công ty cổ phần như Dệt may Hà Nội, May Việt Tiến, May Nhà Bè, May 10…
Tập Đoàn Dệt May Việt Nam bao gồm các thành viên có quan hệ lợi ích khác ngoài vốn, là các đối tác kinh doanh, có quan hệ ràng buộc lợi ích về thương hiệu, uy tín. Hoạt động theo mô hình tập đoàn, VINATEX còn có chức năng thực hiện các hoạt động dịch vụ, thương mại, bán lẻ, dịch vụ tư vấn… Dự kiến sau khi hoạt động theo mô hình tập đoàn, VINATEX phấn đấu đạt một số mục tiêu sau: tới năm 2010, về doanh số đạt 36.800 tỷ đồng, bằng 217%; về kim ngạch xuất khẩu đạt 2,5 tỷ USD, bằng 191%; vốn điều lệ đạt 8.216 tỷ đồng, bằng 215% so với năm 2005.
Tập đoàn kinh tế Dệt-May là tổ hợp của nhiều doanh nghiệp hoạch toán độc lập, gồm có công ty mẹ và các công ty con, các công ty liên kết, trong đó công ty mẹ giữ vai trò chi phối các công ty khác về vốn, thị trường, thương hiệu. Công ty mẹ thực hiện chức năng vừa là đầu tư, vừa thực hiện kinh doanh và cung cấp các dịch vụ nghiên cứu, tư vấn, đào tạo chuyên ngành dệt may …
Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Công ty mẹ
AHỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
CƠ QUAN TỔNG GIÁM ĐỐC
BAN KIỂM SOÁT
NHOM NGUYÊN LIỆU
NHÓM HOÀN TẤT
NHÓM SỢI
NHÓM MAY
NHÓM DỆT THOI
NHÓM DỆT KIM
NHÓM BÁN LẺ
NHÓM QUẢN TRỊ NHÂN LỰC
NHÓM TÀI CHÍNH
NHÓM KHAI MỤC KỸ THUẬT
NHÓM XÚC TIẾN THƯƠNG MẠI
VĂN PHÒNG
CÁC CÔNG TY CON
Nguồn: Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
2. Khái quát về thị trường dệt may Thế Giới và các nước xuất khẩu chính của VINATEX:
Dệt may vẫn là một lĩnh vực được các nước trên Thế giới nói chung và các nước thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nói riêng rất quan tâm. Ngành công nghiệp này có một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường đa dạng ngành nghề và thường xuyên được đặt lên bàn nghị sự của các vòng đàm phán tự do hóa thương mại toàn cầu. Ngành đệt may tạo nhiều việc làm, riêng Indonesia sử dụng 1,18 triệu công nhân. Công nghiệp dệt may đạt giá trị xuất khẩu toàn cầu hơn 350 tỷ USD/năm là nguồn thu đáng kể của nhiều nền kinh tế như Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh, Malaysia, Pakixtan, Hàn Quốc… Trung Quốc đứng đầu thế giới về xuất khẩu sản phẩm may mặc. Dệt – may chiếm 4% tổng sản lượng hàng hóa, 4,8% tổng lượng thương mại và 7% việc làm của EU, 177 nghìn công ty với khoảng 2,1 triệu công nhân của ngành này năm 2003 làm ra đạt giá trị 200 tỷ EUR, so với 115 tỷ trước đó. Cùng với Mỹ, EU đứng đầu thế giới về kinh doanh dệt – may, đứng đầu về xuất khẩu sản phẩm dệt, đứng thứ hai về xuất khẩu sản phẩm may mặc, năm 2002 xuất khẩu hàng dệt – may đạt 43,8 tỷ EUR. Nếu đem so sánh những con số trên với thự trạng ngành công nghiệp dệt may của Việt Nam thì một thưc tế là chúng ta vẫn còn thua kém nhiều các nước trên Thế giới và trong khu vực.
Theo quy định của vòng đám phán Urugoay (năm 1994) từ ngày 1/1/2005 WTO xóa bỏ hạn ngạch xuất, nhập khẩu đối với sản phẩm dệt may.
Việc xóa bỏ quota đối với hàng dệt may sẽ làm tăng khối lượng hàng dệt và quần áo từ các nước châu Á vốn đã tăng trưởng mạnh. Thậm chí chỉ cần tăng trưởng 5,3%/năm trong 12 năm tới hoặc 3,2% trong ngành công nghiệp dệt, thị trường xuất, nhập khẩu toàn cầu hàng dệt và quần áo vẫn có thể đạt 600 tỷ USD vào năm 2015. Tuy nhiên thị trường dệt may sẽ cạnh tranh quyết liệt. Xóa bỏ quota buộc các nước phải có những biện pháp để bảo hộ ngành sản xuất trong nước như kiện chống bán phá giá. Đây là biện pháp không chỉ nước giàu mà cả nước nghèo cũng áp dụng.
Thực trạng hàng xuất khẩu dệt may Việt Nam và VINATEX những năm gần đây:
Đứng đầu trong các thị trường xuất khẩu dệt may Việt Nam là Mỹ với kim ngạch hơn 3 tỷ USD (chiếm 55% thị phần); Liên minh châu Âu (EU) xếp thứ hai với 1,2 tỷ USD (chiếm 20% thị phần); tiếp theo là các thị trường Nhật Bản, ASEAN, Canada, Nga và một số thị trường khác.
Theo số liệu thống kê từ Bộ Công thương, kim ngạch xuất khẩu trong 9 tháng qua lên tới 35,6 tỷ USD, tăng hơn 20% so với cùng kỳ năm ngoái. Đáng chú ý dệt may đã chính thức vượt dầu thô để trở thành mặt hàng xuất khẩu dẫn đầu của cả nước. 9 tháng qua xuất khẩu dệt may đạt 5,8 tỷ USD, trong khi dầu thô mới chỉ đạt 5,78 tỷ USD. Như vậy vị trí dẫn đầu xuất khẩu của dầu thổ trong suốt những năm qua đã bị thay thế bởi dệt may. Thực tế, khả năng dẫn đầu của dệt may xuất khẩu đã được dự báo trước, và có thể sẽ dữ vững vị trí này trong suốt giai đoạn tới. Dệt may tiếp tục đà tăng trưởng tốt sau khi gia nhập WTO được dỡ bỏ rào cản hạn ngạch vào Mỹ. Hoạt động nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ từ Việt Nam trong những tháng cuối năm diễn ra sôi động hơn so với những tháng đầu năm 2007:
Tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ từ Việt Nam so với kim ngạch nhập khẩu của Mỹ từ các nước khác tăng lên 4,53%.
Lượng nhập khẩu các Cát 844, 839, 434, 237, 648, 435, 644, 607, 642, 639… của Mỹ từ Việt Nam tăng rất mạnh.
Hoạt động nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ từ Việt Nam trong những tháng cuối năm diễn ra sôi động hơn so với những tháng đầu năm 2007. theo số liệu thống kê của cục Hải quan Mỹ, trong tháng 7 và tháng 8/2007, kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ từ Việt Nam đạt trung bình 465 triệu USD/tháng của 6 tháng đầu năm 2007. Tính chung 8 tháng đầu năm 2007, kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ từ Việt Nam đạt 2,9 tỷ USD, tăng 25,53% so với cùng kỳ năm 2006, cao hơn so với mức tăng 5,23% tổng kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ nhưng thấp hơn so với mức tăng 28,33% kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ từ Trung Quốc. Hàng dệt may của Việt Nam đã khẳng định được vị trí của mình trên thị trường Mỹ. Bằng chứng là lượng nhập khẩu nhiều chủng loại hàng dệt may của Mỹ từ Việt Nam chiếm tỷ trọng ngày càng cao so với tổng khối lượng nhập khẩu hàng dệt may của nước này, điển hình là các Cat 844, 839, 434, 237, 648...
Tập đoàn dệt may VINATEX nhìn chung những tháng cuối năm này có kim ngạch xuất khẩu ước tính với những con số rất khả thi. Tính chung kim ngạch xuất khẩu 9 tháng đầu năm tập đoàn VINATEX đạt 35,2 tỉ USD, bằng 75,4% kế hoạch năm và tăng 19,4% so với cùng kỳ năm 2006.
Trong 8 tháng đầu năm 2007, hàng dệt may của Việt Nam chiếm 4,53% kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ, tăng so với mức 3,8% của 8 tháng đầu năm 2006.
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO KHẢ NĂNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY CỦA VINATEX
Định hướng xuất khẩu:
. Định hướng chung đến năm 2020:
Trong tương lai, EU vẫn là thị trường xuất khẩu chủ lực của hàng dệt may Việt Nam. Thị trường Mỹ quả là một thị trường rộng lớn có rất nhiều triển vọng, đăc biệt mở ra nhiều cơ hội từ sau Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ được ký kết (năm 2000) và chính thức thông qua vào tháng 12/2001. Tuy nhiên, việc thâm nhập vào thị trường mới cần nhiều thời gian và chi phí, và trước mắt việc xuất vào thị trường này chưa thể gia tăng đột biến. Trong khi đó, EU vẫn là thị trường quen thuộc, có sức tiêu thụ lớn và trong tầm tay của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam . Việc các doanh nghiệp chỉ tập trung vào Mỹ và AFTA như hiện nay sẽ tạo ra độ vênh trong quá trình định hướng thị trường, gây mất cân đối trong chiến lược xuất khẩu . Khi EU dỡ bỏ hạn ngạch hàng dệt may vào đầu năm 2005 cho các nước thành viên của WTO, hàng dệt may Việt Nam phải cạnh tranh với nhiều cường quốc xuất khẩu trong khu vực, đặc biệt là về mặt giá cả, mà theo ước tính sẽ hạ xuống thấp hơn 7%. Tuy nhiên Việt Nam có những ưu thế nhất định trong cuộc chiến này nhất là khi giá cả không phải là yếu tố quyết định đối với người tiêu dùng châu Âu, vì họ luôn đặt chất lượng lên hàng đầu. Theo lộ trình, đến năm 2020, sẽ nâng tỷ lệ nội địa hóa nguồn nguyên liệu lên 75% và kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 20-22 tỷ USD. “Đây thực sự là một con số đầy tham vọng khi ngành dệt may Việt Nam phải cạnh tranh gay gắt với các nền sản xuất khác, nhất là các nước đang phát triển có cùng lợi thế về nhân công và cùng trình độ sản xuất”.
Như vậy, nếu như trong thời gian tới Việt Nam tiếp tục tận dụng được những ưu thế về giá nhân công, kỹ thuật lao động, đồng thời tiếp tục cải cách phương thức quản lý hạn ngạch, giảm chi phí lưu thông… thì chắc chắn các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn còn nhiều khả năng lấn át các đối thủ cạnh tranh trong khu vực và trên thế giới, kể cả hai cường quốc về dệt may như Trung Quốc và Indonesia.
1.2. Mục tiêu của VINATEX về hàng xuất khẩu đến năm 2020:
Theo Tập Đoàn Dệt May Việt Nam, có thể đưa ra mục tiêu cho những năm tới như sau:
Mục tiêu kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may năm 2010 và 2015
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Mục tiêu toàn ngành
2010
2015
Kim ngạch xuất khẩu
triệu USD
8.000
16.000
Nguồn: Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
Với những nước xuất khẩu chính mà Việt Nam đã, đang, và sẽ xuất khẩu hàng dệt may của mình sang, cạnh tranh trên thị trường này sẽ còn có nhiều những thuận lợi, nhưng sẽ phải đương đầu với rất nhiều đối thủ mạnh. Môi trường cạnh tranh càng tự do bao nhiêu thì các doanh nghiệp dệt may Việt Nam càng phải nỗ lực bấy nhiêu thì mới mong giành được phần thắng trong cuộc đua đầy thử thách này.
VINATEX chủ trương sẽ vẫn giữ vững thị trường cũ, khai thác thêm thị trường mới, nên trong thời gian tới, kim ngạch xuất khẩu sẽ theo hướng: thị trường Mỹ, Nhật Bản kim ngạch xuất khẩu vẫn giữ ở mức cao, tăng cường và chú trọng hơn đối với các nước khu vực EU, đồng thời một số thị trường mới ở Trung Đông, Mỹ La Tinh…cũng sẽ chiếm tỷ trọng ngày càng cao.
Mục tiêu xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU
Chỉ tiêu
2005
2010
2015
Kim ngạch xuất khẩu
800 triệu USD
2.000 triệu USD
3.500 triệu USD
Nguồn: Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
Với bảng số liệu dự tính trên, mục tiêu đến năm 2015 kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU đạt 3.500 triệu USD không phải là con số quá cao mà dệt may Việt Nam không thể đạt được ở thị trường EU. Với mục tiêu này thì, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường EU sẽ chiếm khoảng 25% tổng kim ngạch xuất khẩu sang thị trường thế giới . Tuy giá trị tương đối giảm (từ 40% xuống khoảng 25%) nhưng giá trị tuyệt đối vẫn tăng cao.
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu vẫn chủ yếu tập trung vào các mặt hàng có lợi thế của Việt Nam: áo sơ mi, áo jacket, quần áo thể thao…Khi đã gia nhập WTO, với sự kiện “quota dệt may” thì các mặt hàng này sẽ có kim ngạch xuất khẩu tăng rất nhiều trong những năm tới.
2. Giải pháp nhằm thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu của Tập Đoàn Dệt May Việt Nam - VINATEX trong giai đoạn tới:
Để thâm nhập được vào thị trường các nước trên thế giới như đã nói ở trên, và đạt được các mục tiêu đã đề ra, ngành dệt may Việt Nam cũng phải tiến hành những giải pháp chung để nâng cao năng lực cạnh tranh của toàn ngành.
2.1.Giải pháp về tài chính và vốn:
Để có thể thực hiện triển khai tăng tốc, vốn là một yếu tố rất quan trọng dẫn đến thành công. Nhưng điều khó khăn là làm sao xác định được nguồn vốn tài trợ cho ngành cũng là một khâu kế hoạch quan trọng. Sau đây là bảng đề xuất nhu cấu vốn cho giai đoạn tới:
Nhu cầu vốn đầu tư cho ngành dệt may giai đoạn 2006-2010:
Đơn vị: tỷ đồng
Nhu cầu vốn đầu tư
Toàn ngành
VINATEX
Tổng mức đầu tư, trong đó:
- Vốn đầu tư cho mở rộng:
- Vốn cho đầu tư chiều sâu:
Theo hình thức vốn gồm có:
- Vốn cho xây lắp:
- Vốn cho thiết bị:
- Chi phí khác:
- Chi phí dự phòng:
- Vốn lưu động:
30.000
20.000
10.000
2.550
18.000
1.500
1.500
6.450
9.100
1.800
7.300
800
5.500
500
500
1.800
Nguồn: Tập Đoàn Dệt May Việt Nam
Có thể thấy rằng: tỷ lệ tín dụng hỗ trợ đầu tư phát triển và cấp vốn lưu động từ ngân sách thấp, ngân sách hỗ trợ đào tạo và nghiên cứu phát triển còn hạn chế, việc xúc tién thương mại triển khai chậm. Đặc biệt cho tới nay, việc áp dụng cơ chế xuất khẩu tại chỗ cho vải và phụ liệu sản xuất trong nước nằm trong sản phẩm may xuất khẩu còn chưa được thực hiện. Cụ thể, đối với Tập Đoàn Dệt May Việt Nam, tỷ lệ hỗ trợ cho đầu tư phát triển chỉ đạt 20,3% nhu cầu; mục tiêu cấp vốn lưu động đủ 30% yêu cầu cho VINATEX chỉ đạt 3,8%; ngân sách hỗ trợ cho đào tạo và nghiên cứu phát triển còn hạn chế, mới đáp ứng khoảng 50% yêu cầu. Do vậy không thể trông chờ hoàn toàn nguồn vốn từ ngân sách mà Tập Đoàn Dệt May Việt Nam cần phải nghiên cứu và huy động các giải pháp huy động vón khác nữa như: nguồn vốn nội lực, phát hành cổ phiếu trái phiếu, keu gọi đầu tư nước ngoài, vốn vay tín dụng, vốn ngân sách…
2.2. Giải pháp về đầu tư:
Đầu tư vào công nghệ: Công nghệ yếu kém là một đặc điểm quan trọng của ngành dệt may Việt Nam. Muốn có công nghệ tiên tiến thì việc tìm giải pháp đầu tư để đổi mới công nghệ là rẩt cần thiết. Tuỳ vào tình hình và thực trạng của mỗi doanh nghiệp dệt may để có các giải pháp cho phù hợp. Có thể đầu tư công nghệ đã qua sử dụng, đầu tư mở rộng sản xuất, đầu tư công nghệ từ một số nước có uy tín trên thế giới, đầu tư vào nhiều chủng loại trang thiết bị khác nhau….
Đầu tư phát triển vùng nguyên liệu:Việt Nam phải nhập khẩu khoảng 90% nhu cầu về bông và 100% nhu cầu về xơ sợi tổng hợp. Nguyên liệu nhập khẩu lớn là nguyên nhân chính phải có hướng đầu tư phát triển nguyên liệu một cách hợp lý. Việc mở rộng diện tích quy hoạch trồng bông là có giới hạn do diện tích đất nông nghiệp không thể mở rộng được nhiều. Do đó để tăng sản lượng bông, thì đây lại là một bài toán nan giải cho Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn. Trên thực tế, chúng ta cũng đã thực hiện tót các biện pháp nâng cao sản lương bông như: trồng xen canh với các loại cây khác (ngô, đậu…); khuyến khích nông dân trồng bông và hình thành những khu trồng bông lớn với chất lượng tốt…
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực: Trong việc đẩy mạnh đào tạo nhân lực cho công nghiệp dệt sợi, cần chú ý đến hai vấn đề lớn là đảm bảo yêu cầu cân đối trên cả hai mặt cơ cấu nhành nghề, cơ cấu trình độ và chất lượng đào tạo. Phải đảm bảo đào tạo đủ số lượng lao động theo các khâu của quá trình công nghệ. Phải phát triển
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 61117.doc