Đề tài Thực trang và các giải pháp của hoạt động xuất khẩu ở doanh nghiệp công nghiệp hiện nay

Lời nói đầu. 2

Phần I : Vai trò của xuất khẩu và nội dung các giải pháp thúc đẩy

 hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp công nghiệp. 4

I. Sự cần thiết khách quan và vai trò của xuất khẩu trong

 phát triển và sản xuất kinh doanh công nghiệp. 4

1.Thực chất của hoạt động xuất khẩu. 4

2. Vai trò của xuất khẩu. 5

II. Nội dung cơ bản của các giải pháp. 6

1. Xây dựng một cơ cấu kinh tế theo mô hình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu. 6

2. Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu. 6

3. Thu hút đầu tư nước ngoài, được coi là giải pháp quan trọng

 để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế nói chung và thúc đẩy xuất khẩu nói riêng. 7

Phần II : Thực trang và các giải pháp của hoạt động xuất khẩu

 ở doanh nghiệp công nghiệp hiện nay. 9

I. Thực trạng của hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp công nghiệp. 9

1. Tình hình hoạt động xuất khẩu ở các doanh nghiệp

 công nghiệp trong thời gian qua. 9

a. Những đổi mới trong hoạt động xuất khẩu. 9

b. Tình hình xuất khẩu trong thời gian qua. 10

2. Xuất khẩu hàng công nghiệp còn những tồn tại sau. 11

II. Các giải pháp. 15

1. Biện pháp cơ bản của doanh nghiệp để tạo ra nguồn hàng

và cải tiến cơ cấu xuất khẩu là xây dựng các mặt hàng

xuất khẩu chủ lực. 15

2. Các giải pháp về đổi mới hoàn thiện chính sách

 và cơ chế quản lý hoạt động xuất khẩu. 17

3. Giải pháp thực hiện và hoàn thiện các biện pháp

 khuyến khích đầu tư nước ngoài. 18

Kết luận. 21

Tài liệu tham khảo. 22

 

 

doc22 trang | Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 816 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trang và các giải pháp của hoạt động xuất khẩu ở doanh nghiệp công nghiệp hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uất khẩu sẽ thúc đẩy sự tăng trưởng công nghiệp nhanh, bền vững, có hiệu quả. Thực chất của hoạt động xuất khẩu là đặt nền kinh tế quốc gia trong quan hệ cạnh tranh trên thị trường quốc tế nhằm: phát huy về lợi thế so sánh (cả về tự nhiên, kinh tế, xã hội) buộc sản xuất trong nước luôn luôn đổi mới công nghệ không thể tồn tại với năng suất thấp kém, mau chóng nâng cao khả năng tiếp thị, tự do hoá thương mại. Đích cuối cùng là đáp ứng nhanh nhạy nhu cầu của thị trường và giá rẻ kể cả thị trường trong nước và thế giới. Hoạt động xuất khẩu không có nghĩa là xem nhẹ nhu cầu trong nước, không chú ý thay thế nhập khẩu. Hoạt động xuất khẩu được hiểu theo nghĩa là không chỉ sản phẩm xuất khẩu mà tất cả các sản phẩm sản xuất trong nước phải có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, để từ đó mà cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng có hiệu quả nhất. Hoạt động xuất khẩu gắn nền sản xuất, nền kinh tế trong nước với các hoạt động của nền kinh tế thế giới, nối kết các nền kinh tế quốc gia với nhau, các doanh nghiệp công nghiệp với nhau, và tạo ra một không gian kinh tế rộng lớn. Xuất khẩu buộc các ngành kinh tế, các cơ sở sản xuất kinh doanh phải đổi mới công nghệ, tiếp thu kỹ thuật mới, phát huy lợi thế của nước đi sau để đi tắt vào kỹ thuật, công nghệ tiên tiến nhất. Hoạt động xuất khẩu là tác nhân và là sự đảm bảo thắng lợi cho tiến trình tự do hoá thương mại của các doanh nghiệp công nghiệp. 2. Vai trò của xuất khẩu. Phát triển quan hệ xuất khẩu trong doanh nghiệp công nghiệp là kết quả tất yếu của quá trình tự do hoá thương mại, quá trình nâng cao vai trò tự chủ kinh doanh, mọi doanh nghiệp công nghiệp đều chịu ảnh hưởng của hoạt động xuất khẩu. Thông qua hoạt động xuất khẩu công nghiệp sẽ tìm được cơ cấu ngành nghề, cơ cấu sản phẩm, cho phép khai thác tốt nhất các lợi thế so sánh, thúc đẩy tăng trưởng nhanh và có hiệu quả. Đối với các doanh nghiệp công nghiệp có quan hệ trực tiếp với thị trường nước ngoài thì hoạt động xuất khẩu ảnh hưởng tới quy mô, trình độ, tính chất, hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp công nghiệp không có quan hệ trực tiếp với thị trường nước ngoài cũng chịu ảnh hưởng của hoạt động xuất khẩu, vì nó phải cạnh tranh với hãng nước ngoài và các đối thủ nước ngoài, hoạt động xuất khẩu vừa là tác nhân vừa là sự đảm bẩo thắng lợi cho tiến trình tự do hoá thương mại Việt Nam trong quan hệ cạnh tranh và hợp tác với các nước trong khu vực. Hoạt động xuất khẩu là phương hướng cơ bản để tăng trưởng và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp công nghiệp, giúp cho các doanh nghiệp công nghiệp vươn xa trên thị trường thế giới, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, đáp ứng nhu cầu hàng tiêu dùng của nhân dân, giữ cho nền kinh tế ở mức ổn định, tỷ lệ lạm phát giữ ở mức thấp, hoàn thành tốt cơ sở vật chất cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá. II. Nội dung cơ bản của các giải pháp. 1. Xây dựng một cơ cấu kinh tế theo mô hình công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu. Các ngành định hướng vào xuất khẩu được phát triển mạnh các công nghệ mới nói chung và các công nghệ mới nói riêng được khuyến khích đưa vào Việt Nam thông qua chế độ ưu đãi trong việc đánh thuế nhập khẩu. Các doanh nghiệp Việt Nam chủ trương xây dựng một cơ cấu kinh tế theo mô hình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, khai thác lợi thế so sánh của nền kinh tế và tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hoá doanh nghiệp trên thị trường thế giới. Việc xác định các ngành trọng điểm của nền kinh tế có ý nghĩa quan trọng và cần phải được cân nhắc kỹ càng. Có ý kiến cho rằng doanh nghiệp công nghiệp có thể coi đây là những ngành trọng điểm: ngành công nghiệp: khai thác dầu khí, sản xuất vật liệu xây dựng (xi măng, gạch ngói và kính xây dựng), lắp ráp ôtô. 2. Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu. Việc quản lý nhà nước đối với hoạt động xuất khẩu ngày càng được cải tiến và hoàn thiện theo hướng khuyến khích xuất khẩu. Vừa qua quốc hội đã thông qua luật Thương Mại, tạo nên khuôn khổ pháp lý ổn định cho hoạt động xuất nhập khẩu. Nhà nước tập trung quản lý xuất khẩu vào một đầu mới là Bộ Thương Mại. Bộ Thương Mại thực hiện chức năng thống nhất quản lý nhà nước và phối hợp với các Bộ, các cơ quan ngang Bộ và các cơ quan thuộc Chính phủ để quản lý hoạt động thương mại nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Hiện nay tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình, không phân biệt thành phần kinh tế, đều được tự do buôn bán với nước ngoài trên cơ sở luật định. Đối với các doanh nghiệp đã có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu chính thức được xuất khẩu và nhận uỷ thác xuất khẩu cả những mặt hàng ngoài phạm vi mặt hàng ngành hàng ghi trong Giấy phép kinh doanh, trừ một số mặt hàng có quy định riêng: như hàng dệt may xuất khẩu vào EU, Canada, Thổ Nhĩ Kỳ; hàng xuất khẩu theo quy chế quản lý chuyên ngành. Từ cuối năm1995, thủ tục cấp giấy phép xuất khẩu từng chuyến hàng đã được bãi bỏ tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu, cũng như các doanh nghiệp sản xuất và được đông đảo các doanh nghiệp đánh giá cao. 3. Thu hút đầu tư nước ngoài, được coi là giải pháp quan trọng để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế nói chung và thúc đẩy xuất khẩu nói riêng. Việc thu hút đầu tư nước ngoài đã tạo điều kiện cho việc thúc đẩu xuất khẩu biểu hiện ở các khía cạnh sau: Khu vực có vốn nước ngoài đầu tư có hiệu quả vào các lĩnh vực thay thế nhập khẩu. Khu vực có vốn nước ngoài đầu tư vào các ngành có hàm lượng vốn và trình độ công nghệ cao. Khu vực có vốn nước ngoài đầu tư vào các ngành hướng mạnh ra xuất khẩu. Để đáp ứng yêu cầu đó, ngày 12/11/1996, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thay thế cho Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1987 và Luật sửa đổi bổ sung Luật đầu tư tháng 6/1990 và tháng 12/1992. Với việc tạo ra một sân chơi thông thoáng, hấp dẫn, bình đẳng, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng lên không ngừng cả về số vốn và số dự án. Tỷ lệ tăng trưởng trung bình hàng năm của vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam trong 9 năm qua là khoảng 50%. Hoạt động đầu tư nước ngoài đóng vai trò to lớn trong việc thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu. Các doanh nghiệp công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt cơ cấu xuất khẩu tiên tiến chỉ có 26% là nguyên liệu, còn lại 74% là hàng chế biến sẵn. Nhìn chung, từ khi thực hiện chính sách mở cửa, các doanh nghiệp công nghiệp đã áp dụng nhiều chính sách và biến pháp khác nhau để xây dựng một cơ cấu kinh tế năng động, tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế, tăng cường năng lực xuất khẩu của nền kinh tế quốc dân, đạt được tốc độ tăng trường hàng năm xuất khẩu hàng năm khoảng trên 20%. Đây là một tốc độ cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế trong nước và cao hơn tốc độ tăng trưởng trung bình của nền ngoại thương thế giới. Phần II : Thực trang và các giải pháp của hoạt động xuất khẩu ở doanh nghiệp công nghiệp hiện nay. I. Thực trạng của hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp công nghiệp. 1. Tình hình hoạt động xuất khẩu ở các doanh nghiệp công nghiệp trong thời gian qua. a. Những đổi mới trong hoạt động xuất khẩu. Qua thực tế xuất khẩu hàng hoá ở nước ta trong những năm qua đã đạt được những thành công đáng kích lệ, tổng kim ngạch xuất khẩu tăng không ngừng, cùng với sự gia tăng về kim ngạch xuất khẩu hàng hoá thực sự chuyển sang một thời kỳ mới và một số điểm nổi bật sau đây. Một là: Cơ cấu hàng xuất khẩu của nước ta trong mấy năm gần đây có những thay đổi đáng khích lệ theo hướng tiến bộ hơn, phản ánh diễn biến thuận chiều của nền sản xuất hàng hoá, xuất khẩu từ chỗ chỉ trông vào nguồn tài nguyên thiên nhiên đã chuyển dịch tăng dần hàng chế biến công nghiệp. Cơ cấu xuất khẩu. 1994 1995 1996 Công nghiệp nhẹ tiểu thủ công nghiệp. 14% 22,5% 31% Công nghiệp nặng, khoáng sản. 33% 28,5% 25% Hai là: Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã đạt đựoc tốc độ tăng nhanh về trị giá, khối lượng, chiếm tỉ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Ba là: Thị trường xuất khẩu được mở rộng nhanh theo đa dạng hoá đa phương hoá. Bốn là: Năm 1996 có bước tiến về cải cách thủ tục hành chính bãi bỏ giấy phép chuyển đổi với việc xuất khẩu. b. Tình hình xuất khẩu trong thời gian qua. Trong những năm gần đây, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 39,44 tỷ USD, tăng 2,31 lần so với thời kỳ 1986 - 1990. Trong đó xuất khẩu là 17,01 tỷ USD, tốc độ tăng xuất khẩu 26%/năm. Năm 1996 tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 18,4 tỷ USD chiếm 46,4% tổng kim ngạch của 5 năm 1991-1995 và tăng 35% so với năm 1995. 5 tháng đầu năm 1997, kim ngạch xuất khẩu đạt 3,363 tỷ USD bằng 37,8% kế hoạch năm và tăng 31,8% so với cùng kỳ năm ngoái. Kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 304 triệu USD tăng 23,1% và kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước đạt 3059 triệu USD, tăng 32,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu, chủ yếu là xuất nguyên liệu thô và sơ chế như dầu thô, than, cao su, quặng các loại,... các hàng công nghiệp tiêu dùng như dệt may, giày dép, xà phòng giặt, bánh kẹo.... Hiện nay kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta chiếm hơn 70% thị phần của các nước thuộc khu vực Châu á - Thái Bình Dương. Nhưng nói chung, chúng ta vẫn dựa vào được những thị trường xuất khẩu trực tiếp có quy mô lớn và ổn định, chưa vào được các thị trường mới. Với gần 1600 doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nhưng quy mô vẫn vừa và nhỏ. Qua hoạt động 7 tháng đầu năm, kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 12,43tỷ USD, trong đó xuất khẩu gần 5,485 tỷ USD (bằng 53,8% kế hoạch năm và tăng 8,8% so với cùng kỳ năm trước). Nhập siêu giảm cả về tuyệt đối so với cùng kỳ 1997, giảm 14,5% từ 1682 triệu USD, cả về tỷ lệ so với xuất khẩu (26,3% so với 33%). Dầu thô, một mặt hàng công nghiệp có tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu lớn nhất trong tất cả các hàng hoá xuất khẩu cũng đã đạt được 7,802 triệu tấn, bằng 86,7% kế hoạch năm và tăng 10% so với cùng kỳ 1996. Dự đoán cả năm 1997 có thể đạt 9 triệu tấn. Than đá đạt 2.777,7 ngàn tấn. Tuy giảm 3% so với cùng kỳ năm 1996 nhưng đã đạt được 99,2% kế hoạch cả năm. Do đó cả năm chắc chắn sẽ vượt mức kế hoạch đề ra (kế hoạch cả năm là 2,8 triệu tấn). Các mặt hàng may mặc trong nhiều năm qua có tốc độ xuất khẩu tăng mạnh nhất, nhưng 10 tháng đầu năm nay một số mặt hàng đã có xu hướng tăng. 2. Xuất khẩu hàng công nghiệp còn những tồn tại sau. Mặc dù cơ cấu hàng xuất khẩu có thể chuyển biến tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến và chế tạo nhưng còn chậm. Tới nay xuất khẩu nguyên liệu thô là vấn đề lớn nhất của tình hình hàng xuất khẩu. Chính sách thu hút vốn nước ngoài vào các ngành công nghiệp đã tăng nhanh chóng. Đến nay đã thu hút trên 4 tỷ vốn đầu tư nước ngoài vào ngành công nghiệp, chiếm khoảng 33% vốn đầu tư nước ngoài vào toàn nền kinh tế (không kể vốn thu hút vào ngành dầu khí và khí đốt). Tuy nhiên xuất khẩu của khu vực này chưa tương xứng, phần đóng góp của các xí nghiệp liên doanh trong xuất khẩu còn nhỏ bé, chỉ hướng vào tiêu thụ trong nước là chủ yếu. Thực tế các doanh nghiệp công nghiệp đang thực thi một chính sách công nghiệp hướng vào thay thế nhập khẩu là chủ yếu. Khả năng cạnh tranh của hàng công nghiệp xuất khẩu còn hạn chế do những tồn tại : Công nghiệp chế biến còn lạc hậu, chậm được đổi mới, ngay cả các thiết bị đầu tư trực tiếp cỉa nước ngoài cũng lạc hậu với tỉ lệ lớn, do đó chất lượng hàng hoá bị hạn chế khả năng cạnh tranh trên thị trường. Quy mô xuất khẩu còn nhỏ bé, chưa có mặt hàng xuất khẩu chủ lực vơi giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn, hàng công nghiệp chế biến sẵn còn chiếm tỷ trọng nhỏ, hàng may mặc, giày dép có kim ngạch lớn nhưng là gia công theo đơn đặt hàng nên giá trị gia tăng thấp. Trong điều kiện quốc tế hoá, các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam gặp nhiềuu khó khăn. Chúng ta chưa chủ động nghiên cứu thị trường quốc tế. Trong khu vực ASEAN chúng ta chậm đưa ra lộ trình hội nhập, thiếu nghiên cứu, dự báo xu thế chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp khu các doanh nghiệp Việt Nam tham gia hiệp ước mậu dịch tự do AFTA. Các tổ chức thương mại quốc tế khác chúng ta còn khoảng cách xa. Theo đánh giá của các nhà kinh tế thì hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp công nghiệp đạt hiệu quả chưa cao, thiếu ổn định và đang nổi cộm nhiều vấn đề cần giải quyết. Điều đáng lo ngại khi thấy cán cân thương mại của những năm gần đây mất cân đối. So với tốc độ nhập khẩu, xuất khẩu hàng hoá càng thấp và bị bỏ rơi một khoảng cách xa, thực tế này diễn ra cả trong quý I năm 1997. Nhập siêu tăng nhanh vượt quá giới hạn an toàn. Năm 1996, nhập siêu lên tới 3,9 tỷ USD, tăng 81% so với năm 1993, chiếm 18% GDP ảnh hưởng tới sự phát triển an toàn của nền kinh tế. Trị giá hàng xuất khẩu không tăng mặc dù số lượng sẽ nhiều hơn. Sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu còn yếu, chủ yếu xuất khẩu các nguyên liệu thô hoặc mới sơ chế. Có thể coi đây là hạn chế lớn nhất của hàng hoá xuất khẩu. Do hạn hẹp về vốn, máy móc thiết bị, công nghệ lạc hậu, chậm được đổi mới, chúng ta đã bán rẻ nhiều tài nguyên thiên nhiên. Trong lĩnh vực dệt may, còn nhiều doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở mức độ nhận gia công, tái chế bị lệ thuộc và hiệu quả đạt được thấp. Vấn đề tổ chức xâm nhập và phát triển thị trường trong xuất khẩu hoá còn nhiều hạn chế và mất cân đối. Xu hướng chính của Việt Nam là đa dạng hoá, đa phương hoá kinh tế đối ngoại. Thế nhưng cho đến nay hoạt động xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu mới diễn ra ở khu vực Châu á (70-75%) còn ở các Châu lục khác thì rất ít và hạn chế. Châu Âu 12 -15%; Châu Mỹ 2%. Mặt khác, hàng hoá xuất khẩu chưa có thị trường ổn định, vững chắc, quan hệ lâu dài và gắn bó. Giải quyết vấn đề đó đòi hỏi một sự nỗ lực rất lớn từ phía các doanh nghiệp công nghiệp. Điều quan trọng trong việc tổ chức xâm nhập và phát triển thị trường là phải tạo mối quan hệ kinh tế lâu dài, thực hiện nghiêm chỉnh các hợp đồng nâng cao chất lượng sản phẩm, bình đẳng và cùng có lợi. Tổ chức và co chế hoạt động xuất nhập khẩu cần được tiếp tục hoàn thiện, đặc biệt là các đầu mối, xuất khẩu các mặt hàng chủ lực. Hiện nay cơ chế chính sách xuất nhập khẩu chưa phát huy hết hiệu lực, tình trạng buôn lậu khá phổ biến, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình sản xuất và lưu thông hàng hoá trong nước. Trong hoạt động xuất khẩu vẫn chưa giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa các mặt hàng chủ lực với các nhóm hàng hoá khác. Quá chú trọng và ưu tiên cho một số mặt hàng mà không biết tận dụng và bỏ qua nhiều loại hàng hoá khác rất có triển vọng và tiềm năng. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng, các mặt hàng có kim ngạch lớn, chủ lực, thì việc đa dạng hoá các sản phẩm phải trở thành nội dung then chốt trong chiến lược xuất khẩu của nước ta sau này. Hiện nay xuất khẩu nước ta còn hạn chế chỉ bằng 5 phần vạn xuất khẩu thế giới, 10% xuất khẩu Thái Lan, 15% xuất khẩu Philipin. Mức xuất khẩu bình quân đầu người thấp nhất thế giới 70USD/ người (năm 1995), trong khu một nước XHCN đông dân như Trung Quốc con số này là 650USD. Khối lượng nhỏ bé đi liền với cơ cấu, chất lượng và hiệu quả xuất khẩu còn nhiều mặt yếu kém phản ánh trình độ kém phát triển của nước ta. Cơ cấu xuất khẩu, yếu tố quan trọng quyết định quy mô, tốc độ và hiệu quả xuất khẩu hầu như ít biến động. Hàng xuất khẩu thô còn chiếm tỉ trọng cao: 59% năm 95. Hàng công nghiệp nặng, khoáng sản (dầu mỏ, than đó, sản phẩm công nghiệp khai thác) tăng quá nhanh đặc biệt là dầu mỏ. Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp tăng với tốc độ chậm hơn năm 1995. Nhóm hàng này chỉ tăng 5 lần so với năm 1976. Nguyên nhân chính là gần đây chúng ta gặp khó khăn về thị trường tiêu thụ và nguồn nguyên liệu cho các cơ sở sản xuất. Bên cạnh đó sự tràn ngập của hàng ngoài đặc biệt là hàng Trung Quốc đang gây khó khăn cho các nhà sản xuất trong nước. Mặt hạn chế của xuất khẩu hiện nay là chất lượng thấp, không ổn định, thiếu sức cạnh tranh do hàm lượng khoa học thấp. Đôi điều kiến nghị về hoạt động xuất khẩu ở các doanh nghiệp công nghiệp. Kiên quyết đoạn tuyệt với cơ chế "xin cho" trong các hoạt đọng kinh doanh xuất khẩu, nhằm hạn chế nhiều mặt tiêu cực. Xây dựng cơ chế điều hành xuất khẩu, ổn định lâu dài,. Nâng cao hiệu lực của công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy dịnh về xuất nhập khẩu, không chỉ kiểm tra giám sát các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu mà cần thiết phải kiếm tra giám sát việc thực thi nhiệm vụ của các tổ chức và cá nhân quản lý hoạt động xuất khẩu. Biện pháp này để thực hiện chủ trương này, cần phải tổ chức các doanh nghiệp hoặc bộ phận giám sát độc lập thuộc hệ thống riêng giống như các đội " đặc nhiệm, trong ngành công an có nhiệm vụ giám sát hoạt động của các doanh nghiệp công nghiệp". Cải tiến các chính sách đối với hoạt động xuất khẩu sao cho tăng cường, khuyến khích xuất khẩu. Về chính sách xuất khẩu cần chú ý. Thay đổi theo hướng giảm dần mức thuế xuất của các hàng hoá xuất khẩu, tạo điều kiện khuyến khích các đối tượng tham gia sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu, kể cả các hộ, các doanh nghiệp cung ứng nguyên liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu. Có chính sách tỷ giá khuyến khích đối với một số mặt hàng xuất khẩu. Sử dụng quỹ hỗ trợ xuất khẩu để phát triển mặt hàng có chu kỳ kinh doanh dài hạn. Cấp thêm vốn lưu động cho các doanh nghiêp sản xuất và kinh doanh các mặt hàng xuất nhập khẩu chủ yếu, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô xuất khẩu và nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất khẩu. Có ưu đãi nào đó đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng thay thế nhập khẩu. Tạo điều kiện thuận lợi nhất để các doanh nghiệp có thể nghiên cứu thị trường xuất khẩu. II. Các giải pháp. 1. Biện pháp cơ bản của doanh nghiệp để tạo ra nguồn hàng và cải tiến cơ cấu xuất khẩu là xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Mặc dù chính sách đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu nghĩa là một nước không chỉ chuyên vào xuất khẩu một vài sản phẩm nhưng các doanh nghiệp đềuc ó chính sách xây dựng những mặt hàng chủ lực. Hàng chủ lực là hàng chiếm vị trí chủ lực trong kim ngạch xuất khẩu. Do có thị trường ngoài nước và điều kiện sản xuất trong nước thuận lợi. Ngoài hàng chủ lực còn có hàng quan trọng và hàng thứ yếu. Hàng quan trọng là hàng không chiếm tỉ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu nhưng đối với từng thị trường từng địa phương lại có vị trí quan trọng. Hàng thứ yếu bao gồm nhiều lợi kim ngạch của chúng thường nhỏ. Vấn đề xây dựng các mặt hàng xuất khẩu đã được nhà nước đề ra cuối những năm 60. Tuy nhiên chỉ mới gần đây khi chúng ta thực sự thâm nhập vào thị trường thế giới các doanh nghiệp mới thấy vấn đề này cần được xem xét một cách nghiêm túc. Hàng xuất khẩu chủ lực được hình thành qua quá trình thâm nhập vào thị trường nước ngoài, qua những cuộc cọ sát cạnh tranh trên thị trường thế giới và cuộc hàng trình đi vào thị trường thế giới ấy kéo theo việc sản xuất trong nước với quy mô lớn. Với chất lượng và đòi hỏi cao của người tiêu dùng nếu đứng vững được thì mặt hàng đó sẽ liên tục phát triển. Như vậy mặt hàng chủ lực ra đời cần có 3 điều kiện cơ bản. Có thị trường tiêu thụ tương đối ổn định và cạnh tranh trên thị trường đó. Có nguồn lực để tổ chức sản xuất và sản xuất với chi phí thấp để thu được lợi nhuận trong buôn bán. Có khối lượng kim ngạch lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu quốc gia. Vị trí mặt hàng xuất khẩu chủ lực không phải là cố định. Một mặt hàng ở thời điểm này có thể coi là mặt hàng chủ lực nhưng ở thời điểm khác thì không. Việc xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực có ý nghĩa lớn đối với việc mở rộng quy mô sản xuất trong nước, trên cơ sở đó kéo theo việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, mở rộng và làm phong phú thị trường nội địa, tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu. Vì vậy ta phải: Lựa chọn nhóm ngành mũi nhọn trong định hướng xuất khẩu trên cơ sở xem xét các tiêu thức như tận dụng lợi thế về nguồn nhiên liêu, về nguồn lao động, khả năng đảm bảo mức tăng trưởng xuát khẩu cao vững chắc và có định hướng đến công nghệ kỹ thuật cao. Những ngành sau được gợi ý là những ngành mũi nhọn:dệt may, hoá dầu, rắp ráp điện tử. Các doanh nghiệp công nghiệp nên tập trung vào các ngành vừa tận dụng được lợi thế nhân công, vừa phù hợp với khả năng đầu tư của chúng ta ở giai đoạn hiện nay. Khi đã tích luỹ được điều kiện về vốn và công nghệ thì chúng ta đầu tư vào các ngành có hàm lượng cao về vốn và công nghệ. Định hướng tăng trưởng xuất khẩu hiện nay là tăng trưởng xuất khẩu sản phẩm công nghiệp cụ thể là tăng trưởng xuất khẩu hàng chế tạo. 2. Các giải pháp về đổi mới hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý hoạt động xuất khẩu. Bãi bỏ chế độ cơ quan chủ quan: các doanh nghiệp thực hiện theo pháp luật, sự hướng dẫn của bộ quản lý nhà nước về ngành theo luật pháp không phải là cấp chủ quản của doanh nghiệp, hướng dẫn doanh nghiệp của riêng ngành hoặc một số doanh nghiệp. Tuy nhiên các doanh nghiệp công nghiệp xuất khẩu cần tổ chức lại để tiết kiệm các chi phí phân tán, mặt khác tạo ra sự thống nhất đối thoại với khách hàng. Miễn giảm thuế xuất khẩu: Tiếp tục điều chỉnh một cách cơ bản chính sách thuế nói chung theo hướng miễn giảm đối với các sản phẩm xuất khẩu, chỉ đánh thuế những sản phẩm không xuất khẩu hoặc đánh phụ thu khi có lợi nhuận cao chẳng hạn như: Đối với hàng xuất khẩu chưa khuyến khích nhà nước đánh thuế xuất khẩu rât cao: sắt phế liệu 35%, đồng chì kẽm phế liệu 45%, quặng các loại 35 -45%. Mở rộng chế độ trợ cấp xuất khẩu dưới hai hình thức trực tiếp và gián tiếp. Hình thức trực tiếp: đầu tư trực tiếp các nhà máy hiện đại công nghệ cao để tạo ra các sản phảm có chất lượng cao cạnh tranh được trên thị trường thế giới. Cung cấp đẩy đủ kịp thời yêu cầu nguyên liêu vật tư (kể cả nhập khẩu cho các doanh nghiệp sản úât hàng xuất khẩu chẳng hạn như : nhà máy chế biến đồ hộp, các nhà máy chế biến có tỉ trọng nguyên liệu lao động trong nước cao như chế biến sản phẩm cao su, may mặc giày da, điện tử... Hình thức gián tíêp là việc xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đới sống, ưu đãi về thuế xuất nhập khẩu, thuế doanh thu, thuế lợi tức nhằm tạo sản phẩm có sức cạnh tranh trong các tình huống của thị trường ví dụ như khi giảm giá. Hạn chế tới mức thấp nhất sử dụng các công cụ hàng chính trong điều tiết các mặt hàng xuất khẩu. Nhằm đảm bảo cân đối cán cân thương mại. Chính phủ điều hàng nhạy bén, chặt chẽ linh hoạt các kế hoạch xuất khẩu thuộc diện quản lý của nhà nước bằng hạn ngạch bằng giá trị tỉ trọng của từng mặt hàng trong tổng kim ngạch xuất khẩu và bằng chính sự điều chỉnh thuế xuất nhập khẩu đúng như quyết định 28/TTg của Thủ tướng Chính phủ đã ban hành đầu năm 1997 và giá tính thuế cũng đang là vấn đề phức tạp và vướng mắc chính là áp giá thuế theo hợp đồng. Vì vậy để đẩy mạnh các hoạt động xuất khẩu, điều tiết các hoạt động đó hướng vào mục tiêu chiến lược đã định, cần phải tăng cướng quản lý bằng các công cụ quản lý vĩ mô, giải toả các vướng mắc trong điều hành xuất khẩu. Một mặt phải tăng cường vai trò quản lý hoạt động xuất khẩu mặt khác, mở rộng quyền tiếp xúc với thị trường quốc tế, quyền hoạt động xuất nhập khẩu cho các ngành, các địa phương, các cơ sở sản xuất hàng xuất khẩu. 3. Giải pháp thực hiện và hoàn thiện các biện pháp khuyến khích đầu tư nước ngoài. Việc ưu tiên sản xuất hàng công nghiệp có sử dụng công nghệ cao, sử dụng nhiều lao động đã thể hiện rất rõ trong luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam thông qua các quy định về miễn giảm thuế lợi tức trong một thời gian nhất định cho các nhà đầu tư. Nếu dự án có nhiều tiêu chuẩn khuyến khích đầu tư thì miễn thuế lợi tức trong thời gian 4 năm kể từ khi kinh doanh có lãi và được giảm 50% thuế lợi tức trong thời giam 4 năm tiếp theo nếu là đặc biệt khuyến khích đầu tư thì thời gian miễn thuế lợi tức có thể kéo dài tới 8 năm. Hình thức liên doanh là hình thức thích hợp nhất cho Việt nam trong tích luỹ vốn, chuyển giao công nghệ và học tập kinh nghiệm quản lý. Cả trong trước mắt và lâu dài, đây là một nhân tố quan trọng cho thay thế nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu ở nước ta. Các doanh nghiệp đã và đang hoàn thiện các chính sách của mình trong đó có các chính sách thuế và các quy định về liên doanh và điều này đòi hỏi một thời gian nhất định. Trong thời gian tới khi thực hiện luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam nhà nước nên tuỳ thuộc vào từng giai đoạn , hoàn cảnh cụ thể để ban hành thêm các ưu đãi đầu tư, song không nên thay đổi luật một cách quá nhanh để trấnh gây tình trạng bất ổn trong quy chế. Việc thu hút đầu tư nước ngoài nhằn khuyến khích xuất khẩu của các doanh nghiệp công nghiệp cần đặt trong tương quan so sánh với các doanh nghiệp trong khu vực và đặt trên quan điểm thúc đẩy đầu tư trong nước. Với sự kiện ra nhập APTA giờ đây việc thu hút đầu tư thúc đẩy xuất khẩu của Việt nam cần đặt trong bối cảnh phát triển chung của ASEAN. Để thực hiện dự án đầu tư nước ngoài tốt hơn, trong thời gian tới cần giả quyết một số vấn đề cơ bản sau: Vấn đề quy hoạch và thu hút vốn đầu tư. Hiện nay cần khẩn trương hoàn thành quy hoạch các khu công nghiệp, các sản phẩm quan trọng như vật liệu xây dựng chất tẩy rửa, hóa

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV199.doc
Tài liệu liên quan