Đề tài Thực trạng và các giải pháp phát triển kinh tế nông thôn Việt Nam

MỤC LỤC

 

Tên đề mục Trang

MỞ ĐẦU 3

CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỰ CẦN THIẾT PHẢI CÓ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG THÔN VIỆT NAM HIỆN NAY 4

I. Lý luận chung về vai trò của Nhà nước đối với phát triển kinh tế nông thôn 4

1. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp nông thôn 4

2. Vai trò của nông nghiệp trong sự phát triển nền kinh tế đất nước 5

II. Nhà nước và vai trò của nhà nước đối với phát triển kinh tế nông thôn 6

1. Vai trò của nhà nước 6

2. Vai trò của chính phủ 7

3. Các biện pháp hỗ trợ trong nước 8

3.1. Xử lý mối quan hệ giữa gía đầu vào và giá tiêu thụ nông sản 8

3.2. Trợ giá nông sản 10

4. Chính sách bảo hộ nông nghiệp 11

4.1. Bảo hộ bằng thuế quan 11

4.2. Bảo hộ bằng phi thuế quan 11

III. Các giai đoạn chuyển dịch nền kinh tế nông nghiệp 12

CHƯƠNG II THỰC TRẠNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN

 KINH TẾ NÔNG THÔN VIỆT NAM 13

I. Thực trạng phát triển kinh tế nông thôn Việt Nam 13

II. Các giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam 16

1. Chuyển đổi cơ cấu sản phẩm nông lâm thủy sản, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nông thôn 16

2. Chuyển cơ cấu sử dụng đất 16

3. Chuyển đổi cơ cấu lao động nông thôn 17

4. Phát triển khoa học công nghệ ở nông thôn 17

5. Xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn 17

6. Một số chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn 18

6.1. Chính sách ruộng đất 18

6.2. Chính sách thuế sử dụng đất 19

6.3. Chính sách đầu tư 19

6.4. Chính sách phát triển công nghiệp và ngành nghề nông thôn 19

7. Hội nhập quốc tế 20

KẾT LUẬN 21

TÀI LIỆU THAM KHẢO 22

 

 

 

 

 

 

 

doc22 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1395 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và các giải pháp phát triển kinh tế nông thôn Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
này không quá 10% như ở Mỹ chỉ chiếm 3%. Về sản phẩm, giá trị sản lượng nông nghiệp ở các nước đang phát triển thường chiếm từ 30-60%, trong khi ở các nước phát triển tỷ lệ này thường dưới 10%. Sự biến động này chịu sự tác động của quy luật tiêu dùng sản phẩm và quy luật tăng năng suất lao động. 2. Vai trò của nông nghiệp trong sự phát triển nền kinh tế đất nước Nông nghiệp giữ vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, đặc biệt đối với các nước đang phát triển. Bởi vì ở các nước này đa số người dân sống dựa vào nghề nông. Để phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi xã hội cho nhân dân, Chính phủ cần có chính sách tác động vào khu vực nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất cây trồng và tạo ra nhiều việc làm ở nông thôn. Trừ một số ít nước dựa vào nguồn tài nguyên phong phú để xuất khẩu, đổi lấy lương thực, còn hầu hết các nước đang phát triển phải sản xuất lương thực cho nhu cầu tiêu dùng của dân số nông thôn cũng như thành thị. Nông nghiệp còn cung cấp các yếu tố đầu vào cho hoạt động kinh tế. Với hơn 70% dân số ở nông thôn thực sự là nguồn dự trữ dồi dào cho khu vực thành thị. Để đáp ứng nhu cầu lâu dài của phát triển kinh tế, việc gia tăng dân số ở khu vực thành thị sẽ không đủ khả năng đáp ứng. Cùng với việc tăng năng suất lao động trong nông nghiệp, sự di chuyển dân số ở nông thôn ra thành thị sẽ là nguồn nhân lực đáp ứng cho nhu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh đó, nông nghiệp còn là ngành cung cấp các nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Khu vực nông nghiệp cũng có thế là một nguồn cung cấp vốn cho phát triển kinh tế, với ý nghĩa lớn lao và vốn tích luỹ ban đầu cho công nghiệp hoá. Đa số các nước đang phát triển có những thuận lợi đáng kể, đó là tài nguyên thiên nhiên và các sản phẩm nông nghiệp. ở các nước không giàu tài nguyên (như dầu hoả), thì nông sản đóng vai trò quan trọng trong xuất khẩu, và ngoại tệ thu về sẽ được dùng để nhập máy móc, trang thiết bị cơ bản và những sản phẩm trong nước chưa sản xuất được. Dân số nông thôn ở các nước đang phát triển còn là thị trường quan trọng để tiêu thụ sản phẩm công nghiệp như tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng. Nếu Nhà nước có chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế ở khu vực nông thôn và thu nhập được phân phối công bằng thì thị trường nông thôn ngày càng có nhu cầu mở rộng về sản phẩm công nghiệp. Ngược lại, nếu có thị trường rộng lớn ở nông thôn thì công nghiệp có thể tiếp tục phát triển sau khi đã bão hoà nhu cầu của thành thị về các sản phẩm công nghiệp. Tóm lại, ở hầu hết các nước đang phát triển sẽ không có sự phát triển quốc gia, nếu không có sự phát triển nông thôn. Những vấn đề cốt lõi của đói nghèo, bất công tăng lên, dân số gia tăng nhanh chóng và thất nghiệp ngày càng tăng lên đều có nguồn gốc ở sự trì trệ và thụt lùi của hoạt động kinh tế ở các vung nông thôn so với thành thị. Do vậy, phát triển nông nghiệp và nông thôn là cơ sở để thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước. II. Nhà nước và vai trò của nhà nước đối với phát triển kinh tế nông thôn 1. Vai trò của nhà nước Chúng ta phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hoá ngày càng cao. Muốn vậy, đi đôi với phát triển sản xuất, phải mở rộng thị trường. Việc hình thành và phát triển các yếu tố thị trường như thị trường nông sản phẩm, thị trường đất đai, vật tư, vốn, sức lao động, khoa học và công nghệ, dịch vụ kỹ thuật,… ở nông thôn là hết sức quan trọng. Mở rộng tự do cạnh tranh sẽ tạo điều kiện cho việc giao lưu hàng hoá trong nông thôn, cũng như giữa nông thôn với đô thị, trong nước và ngoài nước. Người sản xuất có thể mua bán những thứ cần thiết phục vụ cho sản xuất và tiêu dùng theo giá cả thị trường, tránh tình trạng bị ép cấp, ép giá. Tham gia vào thị trường có nhiều thành phần kinh tế: kinh tế Nhà nước với các doanh nghiệp Nhà nước, kinh tế tập thể, cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Việc phát huy đầy đủ mọi tiềm năng đất đai, sức lao động, vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật của các thành phần kinh tế là động lực rất quan trọng để phát triển kinh tế nông thôn. Việc quan tâm đầy đủ lợi ích của hàng triệu nông hộ, các trang trại, hàng nghìn hợp tác xã và hàng vạn tổ kinh tế hợp tác đa dạng là hết sức quan trọng đối với phát triển nông thôn. Trong cơ chế thị trường đó các thành phần kinh tế hợp tác liên kết, liên doanh một cách đa dạng về hình thức quy mô và trình độ khác nhau. Cơ chế thị trường đòi hỏi phải chấp nhận không chỉ hợp tác với nhau, mà còn có sự cạnh tranh của các thành phần kinh tế, chấp nhận những cơ may và rủi ro theo quy luật cung cầu và giá cả của thị trường. Mặt khác phải có sự quản lý của Nhà nước đối với thị trường để đảm bảo cho sản xuất và đời sống ở nông thôn hoạt động bình thường. Dựa vào hệ thống quy hoạch, kế hoạch định hướng, dựa vào các công cụ quản lý như kế hoạch: tài chính, tín dụng, ngân hàng, thuế, bảo hiểm và các biện pháp kinh tế, tổ chức hành chính, pháp luật. Nhà nước quản lý, điều tiết các quá trình phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, tạo môi trường thuận lợi cho các thành phần kinh tế hoạt động một cách bình đẳng và có hiệu quả. Nhà nước có chính sách xoá đói giảm nghèo, nhưng cũng khuyến khích các hộ tiến lên khá và làm giàu. Nhà nước có các chính sách khuyến khích sản xuất đồng thời có chính sách tiêu thụ sản phẩm kịp thời với giá cả hợp lý, có chính sách đối với những vùng khó khăn và thuận lợi, đối với những năm được mùa và những năm mất mùa, đồng thời có chính sách điều chỉnh thích hợp khi các quan hệ cung cầu và giá cả thay đổi ở thị trường trong nước và thị trường quốc tế. 2. Vai trò của chính phủ Thành công hay thất bại của những nỗ lực nhằm chuyển biến nền nông nghiệp không những phụ thuộc vào khả năng và kỹ năng của người nông dân trong việc nâng cao năng suất cây trồng và năng suất lao động mà quan trọng hơn còn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của Nhà nước mà thông qua đại diện là Chính phủ nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của nông dân. Trong nền nông nghiệp truyền thống người nông dân không muốn và cũng không có điều kiện áp dụng kỹ thuật mới, mà đây lại là yếu tố quyết định sự chuyển động của nông nghiệp. Do đó, Chính phủ cần có chính sách giúp đỡ về kỹ thuật (giống mới, biện pháp canh tác mới …) và hướng dẫn họ thực hiện những biện pháp này. Sản xuất nông nghiệp chủ yếu là sản xuất nhỏ, hình thức trang trại hộ gia đình là chủ yếu. Do đó họ không có khả năng xây dựng các cơ sở hạ tầng. Để giúp họ đầu tư theo mô hình lớn như: hệ thống điện, đường xá, thủy lợi …Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ cho họ dưới nhiều hình thức đầu tư để tạo điều kiện phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá. Sản xuất nông nghiệp có độ rủi ro cao do hoạt động sản xuất của nó phụ thuộc nhiều vào yếu tố khách quan, đặc biệt là thời tiết. Thời tiết có tác động lớn đến nguồn nước, giai đoạn sinh trưởng của cây trồng và tình trạng sâu bệnh. Mặt khác do đặc điểm về sự co giãn của cung - cầu sản phẩm nông nghiệp thường làm cho giá cả sản phẩm có biến động lớn. Do đó, Chính phủ cần có chính sách bảo hộ và trợ giúp về giá cả tạo sự ổn định cho sản xuất nông nghiệp. 3. Các biện pháp hỗ trợ trong nước Các nước có thể áp dụng nhiều biện pháp hỗ trợ trong nước. Biện pháp thường được áp dụng là hỗ trợ giá dưới hình thức sau: 3.1. Xử lý mối quan hệ giữa gía đầu vào và giá tiêu thụ nông sản Khi người nông dân đã có sản phẩm trao đổi trên thị trường, thì cũng như các hoạt động sản xuất khác, họ quan tâm đến lợi nhuận. Lợi nhuận của sản phẩm nông nghiệp phụ thuộc vào giá bán của sản phẩm và giá mua các yếu tố đầu vào, trong đó phân bón hoá học thường chiếm tỉ lệ lớn. Mối quan hệ này có thế được biểu hiện thông qua hệ số trao đổi sản phẩm: In =  Pi/P0.100 (%) In - Hệ số trao đối sản phẩm phản ánh phần trăm chi phí đầu vào cho 1 đơn vị sản phẩm đầu ra. Pi - Giá bình quân các yếu tố đầu vào thứ i P0 - Giá bình quân tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Về lý thuyết người nông dân sử dụng phân bón hoá học cho đến khi sản phẩm cận biên bằng chi phí cận biên (MP=MC). Do vậy, để tăng lợi nhuận từ sản xuất lúa cần tăng giá lúa hoặc giảm giá phân bón hoá học hoặc cùng kết hợp cả hai. Mối quan hệ giữa giá lúa và giá phân bón hoá học với sản lượng lúa có thể biểu hiện trong hình sau: Tác động của giá lúa và giá phân bón đến sản lượng thóc Q1 Q3 Q2 Q4 Q MR1 MR2 MC2 MC1 P1 P2 P Trong hình này, dựa vào giá lúa và giá phân bón để xác định các đường phản ánh chi phí cận biên MC và doanh thu cận biên: - Nếu giá lúa là P1 và chi phí cho phân bón là MC1 thì mức sản lượng lúa được sản xuất là Q1. - Nếu giá phân bón giảm từ MC1 đến MC2 và giá lúa không đổi thì sản lượng lúa sẽ tăng từ Q1 đến Q2. - Nếu giá lúa tăng từ P1 đến P2 và giá phân bón không đổi thì sản lượng lúa sẽ tăng từ Q1 đến Q2. - Trong trường hợp cả giá lúa và giá phân bón đều biến đổi theo xu hướng giảm giá phân bón và tăng giá lúa thì sản lượng lúa tăng từ Q1 đến Q4. Như vậy, trong chính sách giá nông sản của Nhà nước cần chú ý đến tác động của mối quan hệ tương quan giữa giá tiêu thụ nông sản và giá các yếu tố đầu vào làm sao đảm bảo được lợi nhuận cho người nông dân. 3.2. Trợ giá nông sản ở các nước đang phát triển vấn đề trợ giá nông sản cũng thường được đặt ra. Trợ giá được xem xét cả dưới giác độ người sản xuất và người tiêu dùng. Đối với người sản xuất, nông dân là tầng lớp có thu nhập thấp nhất trong xã hội, nguồn thu chủ yếu của họ là từ lương thực, thực phẩm. Nếu giá tiêu thụ nông sản thấp sẽ tác động đến sản xuất làm cho mức sản lượng giảm, do đó thu nhập của người nông dân giảm. Thu nhập không đảm bảo được đời sống sẽ là áp lực thúc đẩy họ di dân ra thành phố tìm việc làm. Ngược lại, ở khu vực thành thị nếu giá nông sản tăng, cuộc sống của đại đa số các gia đình sẽ bị tác động mạnh vì người tiêu dùng thường phải chi đến 50% thu nhập cho lương thực, thực phẩm. Lợi ích của việc trợ giá cho người tiêu dùng hoặc người sản xuất được mô tả trong hình sau: Tác động của trợ giá nông sản cho người sản xuất và người tiêu dùng PLT Eo S P2 P0 P1 D Q2 Q4 Q0 Q3 Q1 QLT Nếu nông dân được hưởng trợ giá, có nghĩa là Nhà nước mua lương thực của nông dân với giá P2 và bán ra thị trường với cùng giá P2. Với giá thu mua tương đối cao, khuyến khích nông dân tăng sản lượng từ Q1 đến Q2. Nhưng do nhu cầu người tiêu dùng ở mức Q3 cho nên sẽ dôi ra một lượng lương thực dùng cho nhu cầu dự trữ hoặc xuất khẩu. Nếu người tiêu dùng được hưởng trợ gía, có nghĩa Nhà nước thu mua với giá P1 và bán ra thị trường cũng với giá P1. Khi đó nhu cầu tăng từ Q3 đến Q4 trong khi khả năng sản xuất là Q1. Trong trường hợp này lợi ích người tiêu dùng tăng, nhưng lại thiếu lương thực đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng, khi đó cần phải tiến hành nhập khẩu. Thông thường Chính phủ lựa chọn giải pháp trung gian: Trợ giá chi phí lưu thông vận chuyển từ nông thôn ra thị trường bán lẻ thành thị. 4. Chính sách bảo hộ nông nghiệp Bảo hộ nông nghiệp là những biện pháp của Chính phủ nhằm hỗ trợ sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng nông sản và đối phó với những hàng hoá nhập khẩu. Bảo hộ nông nghiệp thường được thực hiện qua phương thức sau: 4.1. Bảo hộ bằng thuế quan Xét về bản chất, bảo hộ bằng thuế nhập khẩu đối với nông nghiệp và công nghiệp là tương tự nhau. Tuy nhiên, mức độ, tính chất phức tạp và hình thức thì có sự khác nhau ít nhiều. Theo quan điểm của Tổ chức Thương mại WTO, thuế quan được thừa nhận là công cụ hợp pháp bảo hộ sản xuất trong nước và có ưu điểm rõ ràng, ổn định, dễ đàm phán. Hạn chế của thuế quan là không tạo được rào cản nhanh như phi thuế quan. 4.2. Bảo hộ bằng phi thuế quan Các nước nhìn chung thường áp dụng nhiều biện pháp phi thuế quan để bảo hộ sản xuất và thương mại hàng nông sản. Có thể chia thành các nhóm sau: - Hạn chế định lượng, bao gồm: cấm nhập khẩu, hạn ngạch, giấy phép. - Quản lý giá: là công cụ gián tiếp bảo hộ sản xuất trong nước. Mục tiêu của biện pháp này là để tránh gian lận thương mại. - Chế độ thương mại: biện pháp này liên quan đến các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. - Hàng rào kỹ thuật, như kiểm dịch động thực vật, nhãn mác hàng hoá… - Các biện pháp bảo vệ thương mại tạm thời: như hạn chế nhập khẩu tạm thời, chống bán phá giá… * Ưu điểm của bảo hộ phi thuế quan: - Hình thức phong phú do có nhiều cơ hội lựa chọn - Có thể thực hiện đồng thời nhiều mục tiêu với hiệu quả cao. * Hạn chế của bảo hộ phi thuế quan: - Gây khó khăn, tốn kém trong quản lý. - áp dụng các biện pháp phi thuế quan đôi khi gây ra những hậu quả xấu đối với nền kinh tế. - Nhà nước sẽ không hoặc ít thu được lợi ích tài chính. III. Các giai đoạn chuyển dịch nền kinh tế nông nghiệp Sự vận động của sản xuất nông nghiệp trong quá trình chuyển dịch kinh tế nông thôn sang các hoạt động có tính công nghiệp và dịch vụ mang những đặc thù với từng nước. Theo Giáo sư Randolph Barker, quá trình này có thể chia thành 3 giai đoạn từ thấp đến cao: - Giai đoạn 1: Đặc trưng bởi tình trạng dư thừa đất canh tác, gắn với sự trợ giúp kỹ thuật để mở rộng các vùng đất canh tác mới. - Giai đoạn 2: Đặc trưng bởi sự dư thừa về lao động; do dân số tăng nhanh, diện tích canh tác không tăng, làm cho bình quân diện tích canh tác trên mỗi người dân nông nghiệp giảm nhanh, năng suất lao động thấp. Điều kiện để tăng năng suất trong giai đoạn này là: Đầu tư cao vào đất sản xuất và ứng dụng nhanh các kỹ thuật canh tác, tiết kiệm đất. - Giai đoạn 3: Đặc trưng bởi tình trạng thiếu lao động do các ngành công nghiệp và dịch vụ phát triển mạnh, thu hút nhiều lao động, lực lượng lao động nông nghiệp giảm nhanh, bình quân đất canh tác trên lao động tăng lên. Trong giai đoạn này chính sách ứng xử đối với nông nghiệp là tăng cường sử dụng các kỹ thuật sản xuất tiết kiệm lao động, đạt tới mức năng suất lao động cao và tiền công trong nông nghiệp tăng lên. S.S.Park cũng phân chia tiến trình phát triển kinh tế nông nghiệp nói chung theo 3 giai đoạn, tuy tên gọi khác nhau, song về nội dung cũng tương tự. Tác giả gọi giai đoạn 1 là “giai đoạn sơ khai”, giai đoạn 2 là “ đang phát triển” và giai đoạn 3 là “phát triển”. Phân chia phát triển nông nghiệp theo 3 giai đoạn nói trên rất có ý nghĩa đối với công tác hoạch định chính sách phát triển nông nghiệp. Vấn đề là nhìn nhận cụ thể từng giai đoạn để đưa ra các chính sách phù hợp với yêu cầu thúc đẩy kinh tế phát triển. Chương II Thực trạng và các giải pháp phát triển kinh tế nông thôn Việt Nam I. Thực trạng phát triển kinh tế nông thôn Việt Nam * Về cơ cấu kinh tế: Nước ta trong gần 20 năm đổi mới từ 1986-2003, tỷ lệ GDP đã giảm từ 38,1% (1986) xuống 21,83% (2003) trong vòng 17 năm, tỷ lệ GDP ngành nông lâm thủy sản được 16,27% bình quân mỗi năm giảm được 0,95%. Để giảm tỷ lệ GDP nông lâm sản từ 40% xuống 7% các nước như Anh mất 113 năm, Hà Lan mất 165 năm, Hàn Quốc 26 năm. Cơ cấu kinh tế của nước ta so với các nước công nghiệp trên thế giới và các nước trong khu vực còn lạc hậu, tỷ lệ GDP nông nghiệp trong nền kinh tế còn cao, tỷ lệ dân số nông thôn, lao động nông nghiệp trong tổng số dân số, lao động còn lớn trong khi thu nhập bình quân đầu người thấp. Tổng GDP theo giá thực tế Việt Nam đứng thứ 58 trên 200 nước và vùng lãnh thổ của thế giới, thứ 19 trên 50 nước Châu á và thứ 7 trên 10 nước ASEAN. Cơ cấu GDP của nước ta hiện nay chỉ tương đương với các nước trung bình tiên tiến trong những năm 80 của thế kỷ XX. * Về cơ cấu nông lâm, thuỷ sản: Cơ cấu của ngành nông lâm thuỷ sản trong tổng GDP của các ngành kinh tế đã giảm từ 38,06% năm 1986 xuống còn 21,83% năm 2003 mất 17 năm. So với các nước trong khu vực tốc độ chuyển đổi cơ cấu kinh tế của nước ta vào loại chậm (Hàn Quốc để giảm tỉ lệ GDP nông nghiệp từ 40% xuống 7% chỉ mất có 26 năm, Trung Quốc giảm tỷ lệ cơ cấu GDP nông lâm nghiệp từ 30,1% năm 1980 xuống 17,3% năm 1999 mất 19 năm, Malaysia giảm GDP nông lâm nghiệp từ 18% năm 1990 xuống 8,7% năm 2000 mất 10 năm… Tốc độ tăng và cơ cấu giá trị sản xuất nông lâm ngư nghiệp thời kỳ 1986-2003 Đơnvị:% Năm Tốc độ tăng Cơ cấu Tổng số Chia ra Tổng số Chia ra Nông nghiệp Lâm nghiệp Thuỷ sản Nông nghiệp Lâm nghiệp Thuỷ sản 1986 2.6 0.29 27.7 5.7 100 81.27 11.78 6.95 1990 1.9 1.6 1.8 3.7 100 84.11 7.57 8.33 1995 5.9 6.9 -3.3 3.8 100 81.14 5.08 13.78 2000 7.3 5.4 4.9 19.3 100 80.2 4.2 15.6 2003 4.4 4.06 1.1 9.4 100 76.56 5 18.44 Tốc độ tăng trưởng của ngành nông lâm ngư nghiệp nước ta thời kỳ 1986-2003 luôn thấp hơn tốc độ tăng trưởng chung của ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ. Đây là xu thế diễn ra phù hợp với quy luật chung của nền kinh tế trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Ngành thuỷ sản của nước ta có tốc độ tăng cao, nguyên nhân là do xuất phát điểm của ngành thuỷ sản thấp (quy mô sản lượng và giá trị sản lượng nhỏ). Từ cuối những năm 90 của thế kỉ XX nước ta đã tận dụng được lợi thế của một nước có bờ biển dài, phát triển kinh tế thuỷ sản thuận lợi, đã tập trung phát triển thuỷ sản với tốc độ nhanh và điều quan trọng là sản phẩm thuỷ sản nước ta đã xâm nhập nhanh vào thị trường của thế giới. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của nước ta đã tăng nhanh từ 106 triệu USD năm 1986 lên 2.199,6 triệu USD. Có thể rút ra bài học của ngành thuỷ sản là phát huy lợi thế, gắn với thị trường xuất khẩu. Tuy vậy, cũng dễ dàng nhận thấy rằng tốc độ phát triển của ngành nông lâm thuỷ sản chưa ổn định, chuyển dịch cơ cấu diễn ra chậm. Lợi thế của một nước với 3/4 địa hình đồi núi chưa được phát huy, kinh tế lâm nghiệp chưa trở thành ngành kinh tế mạnh của nước ta. * Về chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp: Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp của nước ta thời kỳ 1986-2003 diễn ra chậm. Trồng trọt vẫn là ngành chủ yếu, chăn nuôi chưa trở thành ngành sản xuất chính, dịch vụ nông nghiệp nhỏ bé. Với điều kiện tự nhiên kinh tế của nước ta, cơ cấu ngành nông nghiệp hiện tại là chưa hợp lý. Chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp thời kỳ 1986-2003 Đơn vị: % Năm Tổng số Chia ra Trồng trọt Chăn nuôi Dịch vụ 1986 100 80,79 16,8 2,41 1990 100 79,60 17,90 2,50 1995 100 78,11 18,91 2,48 2000 100 78,19 19,33 2,48 2003 100 75,40 22,40 2,20 Cùng với việc giảm tỷ lệ GDP ngành nông nghiệp trong cơ cấu GDP toàn nền kinh tế, tỷ lệ dân số sống ở thành thị và nông thôn cần phải giảm nhanh, tỷ lệ này nước ta trong thời gian vừa qua giảm chậm. Thời kỳ 1990-2002, dân số nông thôn đã giảm từ 80,49% (1990) xuống 75% (2002), giảm được 5,49%; lao động ngành nông lâm thủy sản giảm từ 75% (1990) xuống 67,8% (2002). So với các nước trong khu vực trong cùng thời kỳ, dân số nông thôn, lao động nông nghiệp giảm cả về số lượng và tỷ lệ. Nước ta và Trung Quốc giảm tỷ lệ nhưng số lượng vẫn tăng. Đây là một trong những khó khăn lớn trong quá trình công nghiệp hóa-hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. * Về cơ cấu kinh tế nông thôn: Cơ cấu kinh tế nông thôn của nước ta hiện nay vẫn chủ yếu là nông nghiệp, giá trị thu nhập từ nông nghiệp ở vùng nông thôn chiếm 68%, công nghiệp xây dung nông thôn 15%, dịch vụ nông nghiệp 17% không đồng đều ở các vùng Tây Nguyên thu nhập chiếm 96,9%, Đông Bắc chiếm 83,2%, Tây Bắc chiếm 73,7%. Chuyển đổi cơ cấu hộ sản xuất diễn ra chậm trong thời gian từ năm 1994-2001. Số hộ sản xuất nông nghiệp chỉ giảm từ 79,6% xuống 77,4%. Hộ sản xuất thủy sản tăng từ 1,9% lên 3,4%. Hộ sản xuất lâm nghiệp giữ nguyên 0,2%. Hộ thương mại dịch vụ tăng từ 4,4% lên 10,6%. Hộ công nghiệp xây dựng tăng từ 1,6% lên 5,8%. Các hộ khác giảm từ 12,4% xuống 2,7%. II. Các giải pháp cơ bản để phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam 1. Chuyển đổi cơ cấu sản phẩm nông lâm thủy sản, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nông thôn Chuyển đổi cơ cấu sản phẩm nông lâm thủy sản, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nông thôn theo hướng tăng giá trị sản phẩm và giá trị sản phẩm hàng hóa trên một ha, tăng thu nhập trên lao động nông thôn. Trong nền sản xuất hàng hóa, thị trường tiêu thụ sản phẩm vừa là điều kiện, vừa là phương tiện và là nơi để thực hiện tái sản xuất, nó vừa là mục đích, vừa là động lực sản xuất, là khâu trung gian cần kết nối sản xuất với tiêu dùng, đảm bảo cho sự vận động không ngừng của quá trình tái sản xuất xã hội. Chính vì vậy, người sản xuất nông nghiệp phải từ thị trường để biết phải sản xuất sản phẩm gì, số lượng, chất lượng giá thành là bao nhiêu để có thể bán được mà quyết định quy mô sản xuất, quy trình công nghệ, thị trường tiêu thụ để đạt được lợi nhuận cao nhất. Vì vậy, phải xuất phát từ thị trường để xây dựng cơ cấu sản phẩm đáp ứng được nhu cầu thị trường. Chuyển đổi cơ cấu sản phẩm phải căn cứ vào yêu cầu của thị trường và lợi thế của đối phương. Mỗi địa phương phải chọn 1 - 2 sản phẩm hàng hóa có thế mạnh tập trung sản xuất. 2. Chuyển cơ cấu sử dụng đất Quỹ đất sản xuất nông nghiệp của nước ta vào loại thấp nhất so với các nước trên thế giới. Bình quân đất nông nghiệp trên hộ nông nghiệp của nước ta chỉ đạt 0,71ha/hộ. Khả năng mở rộng đất nông nghiệp ở nước ta là rất hạn hẹp. Quỹ đất nông nghiệp trong thời gian qua giảm mạnh, giảm chủ yếu ở các vùng đất thuộc, đất tốt, đất gần đô thị, gần đường giao thông có khả năng thâm canh cao. Quy mô đất nông nghiệp trên hộ của nước ta nhỏ phân tán gây khó khăn cho sản xuất hàng hóa. Vì vậy chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất ở nước ta phải dựa trên cơ sở tạo nguồn sản xuất hàng hóa tập trung có năng xuất và chất lượng cao cần phải tăng cường công tác quy hoạch quản lý đất cấp toàn quốc, tỉnh, huyện, xã. Chuyển đổi mục đích sử dụng đất phải theo quy hoạch. Chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất trên cơ sở phát triển cây trồng, vật nuôi gắn với bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. 3. Chuyển đổi cơ cấu lao động nông thôn Lao động nông thôn nước ta hiện nay chiếm tỷ lệ cao trong lực lượng lao động toàn quốc khoản 66% trong thời kỳ (1986-2003). Tỷ lệ lao động nông thôn trong tổng số lao động giảm chậm, lao động nông thôn chủ yếu là nông nghiệp chiếm 75,3% (1990-2003). Trong thời kỳ 1990-2003, lao động trong ngành nông lâm thủy sản giảm về tỷ lệ là 7,2% nhưng tăng về số lượng là 5,32 triệu người. Chuyển đổi cơ cấu lao động nông thôn là một trong những nội dung chủ yếu của chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa-hiện đại hóa. Chúng ta cần tăng cường hệ thống đào tạo dạy nghề nâng cao trình độ học vấn chuyên môn kỹ thuật, tay nghề của lực lượng lao động nông thôn để đào tạo những lao động có chất lượng cao phục vụ cho phát triển kinh tế nông thôn. 4. Phát triển khoa học công nghệ ở nông thôn Khoa học công nghệ là yếu tố quyết định đến phương thức hiệu quả của quá trình phát triển kinh tế nông thôn. Nhà nước tích cực với việc xã hội hóa công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công, khuyến thương nông thôn để đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật về từng cơ sở hộ nông dân. 5. Xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn Đây là một trong những điều kiện cơ bản kiên quyết đến chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn. Do thị trường yếu tố quyết định đến quy mô sản xuất, chủng loại sản phẩm, công nghệ bảo quản và chế biến. Vì vậy, cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn: thủy lợi, giao thông, điện …là những điều kiện cơ bản không thể thiếu được trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Cần phải xây dung cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn ở những vùng sản xuất hàng hóa tập trung tạo điều kiện để đẩy nhanh tốc độ chuyển đổi cơ cấu nông nghiêp, nông thôn có hiệu quả. 6. Một số chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn Nông nghiệp, nông thôn là khu vực đặc biệt của nền kinh tế. Sự phát triển của khu vực này có vai trò quan trọng trong việc thực hiện thành coong công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước theo định hướng XHCN. Vì vậy, nhà nước cần phải tác động vào nông nghiệp, nông thôn bằng các chính sách chủ yếu sau đây: 6.1. Chính sách ruộng đất Chính sách ruộng đất của Việt Nam được mở đầu bằng luật Cải cách ruộng đất. Mục tiêu của cải cách ruộng đất là thực hiện “người cày có ruộng”. Cải cách ruộng đất đã đem lại thành quả quan trọng là giải phóng người nông dân thoát khỏi sự kìm kẹp của phương thức sản xuất phong kiến, đưa nông dân từ thân phận nô lệ lên vị trí người làm chủ ở nông thôn. Tiếp đến là luật đất đai đã được Quốc hội Việt Nam thông qua 7/1993 và sửa đổi bổ sung liên tục qua các năm 1998, 2000, 2003. Luật đất đai đã khẳng định: đất đai thuộc quyền sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý, là cơ sở pháp lý cho việc quản lý đánh thuế sử dụng đất. Nhà nước giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng lâu dài. Luật cũng quy định về các quyền của người sử dụng đất khi được Nhà nước giao đất. Việc thực hiện các quyền như chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê lại… đã làm cho các giao dịch trên thị trường thứ cấp về đất nông nghiệp diễn ra khá sôi động ở Việt Nam. Các giao dịc diễn ra trên thị trường chủ yếu là giữa hộ nông dân với nhau, giữa hộ nông dân với chủ trang trại, với các doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp. Đối với đất đai nông nghiệp, Luật đất đai quy định rõ hạn mức đất cây trồng hàng năm cho mỗi hộ khoảng 2 ha; đất trồng cây lâu năm không qu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28171.doc
Tài liệu liên quan