Đề tài Thực trạng và các giải pháp quản lý, sử dụng và hoàn trả nợ nước ngoài của Việt Nam

MỤC LỤC

 

I. TỔNG QUAN VỀ NỢ NƯỚC NGOÀI 3

1.1. Nợ nước ngoài là gì? 3

1.2. Các hình thức vay nợ nước ngoài 3

1.3. Ảnh hưởng của việc vay nợ đối với sự phát triển kinh tế đất nước 3

1.4. Lý do vay nợ nước ngoài 5

II. THỰC TRẠNG VAY NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM 7

2.1. Đánh giá tình trạng nợ nước ngoài của Việt Nam 7

2.2 Về cơ cấu vay nợ nước ngoài của Việt Nam hiện nay 8

2.3. Thực trạng quản lý và sử dụng vốn vay nợ nước ngoài tại Việt Nam 10

2.4. Thực trạng hoàn trả nợ nước ngoài của Việt Nam 22

III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ CÁC NƯỚC BỊ KHỦNG HOẢNG NỢ 23

3.1. Argentina(2001) 24

3.2. Trung Quốc 25

3.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 27

IV. GIẢI PHÁP QUẢN LÝ, SỬ DỤNG VÀ HOÀN TRẢ NỢ NƯỚC NGOÀI 28

4.1. Nhóm giải pháp liên quan đến việc quản lý nợ nước ngoài 28

4.2. Nhóm giải pháp liên quan đến việc sử dụng nợ nước ngoài tại Việt nam 30

4.3. Nhóm giải pháp liên quan đến việc hoàn trả nợ nước ngoài 32

4.4. Nhóm giải pháp khác 35

 

 

doc39 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3701 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và các giải pháp quản lý, sử dụng và hoàn trả nợ nước ngoài của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
am. Đồng thời, cơ chế, chính sách tài chính nói chung và cơ chế, chính sách quản lý nguồn vốn vay, viện trợ nước ngoài nói riêng không ngừng được hoàn thiện, đóng góp tích cực vào kết quả huy động các nguồn vốn. Trong giai đoạn này, vốn cam kết ODA năm sau luôn cao hơn năm trước, ngay cả trong điều kiện nguồn vốn ODA của các nước phát triển dành cho các nước đang phát triển ngày càng giảm sút, và vốn ODA có xu hướng ưu tiên nhiều cho các nước châu Phi. Năm 2005, Việt Nam được WB và các nhà tài trợ đánh giá là một trong những nước sử dụng ODA hiệu quả nhất. Tổng vốn ODA cam kết cho Việt Nam giai đoạn 2002-2007 là 29 tỉ USD (trong đó riêng năm 2007 các nhà tài trợ cam kết 5,43 tỉ USD). - Về quản lý nợ, Việt Nam luôn theo đuổi chính sách quản lý nợ thận trọng. Đã xây dựng được Chiến lược nợ nước ngoài giai đoạn 2001-2010 và Kế hoạch hành động cụ thể cho giai đoạn 2001-2005. Đồng thời, không ngừng hoàn thiện cơ chế chính sách quản lý nợ nước ngoài (Nghị định 134/2005/NĐ-CP về quản lý vay, trả nợ nước ngoài; các quy chế kèm theo các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng và quản lý hệ thống chỉ tiêu nợ; quy chế thu thập, báo cáo thông tin nợ, quy chế bảo lãnh, quy chế cho vay lại). Việc quản lý nợ nước ngoài căn cứ theo kế hoạch, chiến lược, hạn mức vay thương mại của Chính phủ và quốc gia hàng năm; phù hợp các ngưỡng an toàn nợ được phê duyệt; * Đánh giá công tác quản lý nợ: Những thành tựu đạt được: - Huy động được nguồn lực đáng kể từ bên ngoài với điều kiện vay khá ưu đãi. Vốn vay nước ngoài của Chính phủ chủ yếu là theo điều kiện ODA. Đầu tư bằng nguồn ODA chiếm bình quân 11% tổng vốn đầu tư toàn xã hội và bằng 29% chi Ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển, thể hiện như sau: + Nhờ vốn ODA, đã cải thiện cơ bản và phát triển một bước quan trọng cơ sở hạ tầng kinh tế, trước hết là giao thông vận tải và năng lượng điện, góp phần khơi dậy nguồn vốn trong nước và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. + Góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn, lâm nghiệp, thuỷ lợi, xóa đói giảm nghèo, cung cấp tín dụng nông thôn, góp phần đáng kể tạo ra thành tựu đầy ấn tượng về giảm nghèo của Việt Nam. + Đóng góp có ý nghĩa cho sự phát triển cơ sở hạ tầng xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: hiện đại hoá cơ sở vật chất cho giáo dục, đào tạo, đổi mới hệ thống giáo dục đào tạo; thực hiện các chương trình dân số và phát triển, Chương trình tiêm chủng mở rộng, Chương trình dinh dưỡng trẻ em, Chương trình nước sạch nông thôn, Chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu... - Luôn thực hiện chính sách quản lý thận trọng, đảm bảo các tỉ lệ nợ trong giới hạn an toàn và có xu hướng giảm dần so với GDP. Hạn chế tối đa vay nợ ngắn hạn của nền kinh tế; Chính phủ không vay hoặc bảo lãnh vay ngắn hạn. - Đồng thời, công tác quản lý cũng ngày càng thể hiện tính chủ động, linh hoạt. Đã chủ động đàm phán, cơ cấu lại các khoản nợ cũ để giảm chi phí trả nợ và giảm tỉ lệ nợ/GDP của Việt Nam. Bắt đầu thực hiện đánh giá bền vững nợ và phân tích cơ cấu danh mục nợ để quản lý tốt rủi ro của danh mục nợ về trung – dài hạn. Trong bối cảnh diễn biến kinh tế thế giới không thuận lợi trong năm 2007-2008, cùng với việc Chính phủ điều chỉnh chỉ tiêu tăng trưởng GDP, Bộ Tài chính đã chủ động trình Chính phủ hạn chế cấp bảo lãnh cho một số khoản vay nước ngoài của doanh nghiệp, tạm dừng việc phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường vốn quốc tế v.v… - Về thể chế, chính sách không ngừng được hoàn thiện và tiến dần tới các thông lệ tốt của quốc tế. Nghị định 134/2005/NĐ-CP và các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ hướng dẫn các nghiệp vụ quản lý nợ cụ thể đã đưa ra khung pháp lý tương đối toàn diện về quản lý công tác vay, trả nợ nước ngoài, nhấn mạnh nguyên tắc thống nhất đầu mối trong quản lý nợ nước ngoài. Luật quản lý nợ công đã được trình Quốc hội xem xét cho ý kiến trong tháng 11/2008 và dự kiến được thông qua tháng 5/2009 sẽ là khung pháp lý cao nhất để việc quản lý nợ được chuẩn hoá, trong đó có quản lý nợ nước ngoài. Một số tồn tại: - Nguyên tắc quản lý nợ theo chiến lược nợ dài hạn và các công cụ quản lý trung hạn chưa được thực hiện tốt trên thực tế. Chiến lược nợ do Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì xây dựng cho giai đoạn 2001-2010 được Chính phủ ban hành năm 2004 không hoàn toàn đáp ứng yêu cầu về một chiến lược chủ động, cập nhật. Chiến lược nợ dài hạn chưa được cụ thể hoá bằng các chương trình quản lý nợ trung hạn. Hiện nay Bộ Tài chính mới bắt đầu xây dựng Chương trình quản lý nợ trung hạn đầu tiên cho nợ nước ngoài. - Công tác phân tích, dự báo đã và đang được thực hiện nhưng hiệu quả chưa cao; Đặc biệt mảng vay, trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp do Ngân hàng Nhà nước quản lý là các khoản vay theo điều kiện thị trường có tính rủi ro cao đối với cả nền kinh tế, nhưng chưa có những phân tích, tính toán kịp thời về cơ cấu nợ và điều chỉnh hạn mức nợ của doanh nghiệp để đảm bảo quản lý tốt rủi ro từ khu vực này. - Quản lý nợ nước ngoài của Chính phủ chưa gắn kết với quản lý nợ trong nước của Chính phủ và khu vực công (nợ nước ngoài là một bộ phận của nợ CP), vì vậy chưa thể phát huy được hiệu quả. Việc tuân thủ các hạn mức an toàn nợ đối với nợ nước ngoài sẽ mất đi ý nghĩa nếu đồng thời không có được những hạn mức tương tự đối với vay nợ trong nước, vì rủi ro có thể phát sinh từ hoạt động vay, trả nợ trong nước. Hiệu quả chi phí cũng chưa cao khi không có sự điều hành, phối hợp thống nhất về vay nợ trong nước và nước ngoài. - Nguyên tắc quản lý thống nhất nợ nước ngoài đã được quy định tại Nghị định 134/2005/NĐ-CP nhưng chưa được áp dụng ổn định, thể hiện ở việc Chính phủ vừa ban hành Nghị định 96/2008/NĐ-CP về chức năng nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước trong đó quy định Ngân hàng Nhà nước vẫn chủ trì đàm phán, ký kết vay nợ thay mặt Chính phủ đối với các khoản vay từ WB, ADB; và đối với nợ doanh nghiệp, Ngân hàng Nhà nước trực tiếp báo cáo thông tin, số liệu tổng hợp lên Thủ tướng Chính phủ và chỉ đồng gửi Bộ Tài chính để biết. * Đánh giá công tác quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA Theo báo cáo của NHNN thì tính đến cuối năm 2009, nợ nước ngoài của Việt Nam chiếm khoảng 60% trong tổng nợ chính phủ (trong đó ODA chiếm tới 85% tổng nợ nước ngòai), Số liệu của Bộ Tài chính cho hay, tổng dư nợ nước ngoài trung và dài hạn của Việt Nam hiện nay (không bao gồm dư nợ ngắn hạn nước ngoài của các doanh nghiệp và tổ chức tín dụng) vào khoảng 30,5% GDP. Cụ thể, tính đến cuối năm 2009, tổng số vốn ODA đã đàm phán và ký kết các Hiệp định vay ODA và vay ưu đãi ước tính  trị giá 37,5 tỷ USD; giải ngân được 19,5 tỷ USD, chiếm 52% so với tổng số vốn ODA đã ký vay. - Những mặt đã đạt được: + Về cơ bản, các quy định về quản lý tài chính đối với chương trình, dự án ODA đã được ban hành đầy đủ, toàn diện và từng bước được hoàn thiện như các Thông tư số 108/2007/TT-BTC hướng dẫn quản lý tài chính đối với chương trình, dự án ODA vay nợ; Thông tư số 82/2007/TT/BTC hướng dẫn quản lý tài chính dự án viện trợ nước ngoài; Thông tư 123/2007/TT/BTC hướng dẫn chế độ thuế đối với dự án ODA; các Thông tư hướng dẫn về quy trình thanh toán, quyết toán vốn đầu tư, vốn sự nghiệp, quản lý tài sản trang bị trong các chương trình, dự án đều có những quy định riêng đối với chương trình, dự án ODA. + Các quy định về quản lý tài chính đối với nguồn ODA không ngừng được cải tiến, hoàn thiện theo hướng tăng cường phân cấp và tăng tính trách nhiệm của cơ quan thực hiện trong các khâu quyết định đầu tư, tổ chức thực hiện, thanh toán vốn; đơn giản hoá quy trình, thủ tục, tránh chồng chéo về trách nhiệm kiểm tra, kiểm soát nhưng vẫn đảm bảo tuân thủ quy định của Luật NSNN. Ví dụ Thông tư 108/2007/TT/BTC của Bộ Tài chính về quản lý tài chính đối với chương trình, dự án ODA đã quy định nguyên tắc đổi mới trong kiểm tra việc thanh toán vốn ODA là chủ yếu căn cứ theo hợp đồng đã được ký kết bởi cấp có thẩm quyền căn cứ theo quyết định trao thầu; cơ quan kiểm soát chi không can thiệp sâu về quyết định mua sắm, chất lượng, khối lượng công trình v.v… mà căn cứ chủ yếu vào các điều khoản thanh toán của hợp đồng để xác nhận thanh toán. Các quy định cụ thể về thời hạn thanh toán, rút vốn nước ngoài cũng giúp đẩy nhanh đáng kể tiến độ trong khâu thanh toán, giải ngân. Chính sách thuế đối với dự án ODA cũng không ngừng được hoàn thiện để vừa có hướng dẫn cụ thể theo pháp luật thuế trong nước, vừa tính đến đặc thù và các cam kết quốc tế liên quan đến thuế đối với nguồn vốn ODA. - Một số tồn tại: + Về cơ chế thanh toán, giải ngân vốn mặc dù đã được cải tiến đáng kể nhưng vẫn cần tiếp tục được nghiên cứu, rà soát để hoàn thiện trong bối cảnh các quy định về quản lý đầu tư XDCB của Nhà nước liên tục được thay đổi, cập nhật; biến động lớn về giá cả, vật tư; quan hệ hợp đồng kinh tế ngày một phức tạp v.v… (ví dụ chưa có hướng dẫn cụ thể để xử lý việc thanh toán cho các trường hợp phát sinh khối lượng, trượt giá, điều chỉnh hợp đồng v.v…). Đồng thời trên thực tế vẫn còn hiện tượng chưa có được cách hiểu nhất quán để thực hiện tại một số địa bàn, cần phải tăng cường công tác kiểm tra, hướng dẫn, tập huấn về chính sách, chế độ mới cho đội ngũ cán bộ của KBNN và cơ quan cho vay lại; + Về quản lý tài chính, nguồn vốn ODA theo hình thức tài trợ dự án chưa hoàn toàn được phản ánh đầy đủ vào NSNN từ khâu phân bổ, lập kế hoạch, hạch toán chi tiêu kịp thời, báo cáo, quyết toán nên có hạn chế nhất định trong hiệu quả quản lý tài chính. Ví dụ các dự án ODA do các Bộ, ngành vận động, đề xuất với Bộ Kế hoạch và Đầu tư để trình Chính phủ không phản ánh trong phân bổ nguồn lực chung của NSNN, có những trường hợp thiếu cân đối ví dụ một Bộ, địa phương vận động được nhiều dự án nhưng không giải ngân được; trong quá trình thực hiện các Bộ, địa phương chậm giao hoặc thậm chí không giao đủ kế hoạch vốn nước ngoài nhưng vẫn giải ngân được vì việc giải ngân không phụ thuộc vào kế hoạch. Quy định giải ngân vốn nước ngoài không căn cứ vào kế hoạch tài chính được duyệt đã góp phần đáng kể đẩy nhanh tiến độ giải ngân (vì vốn nước ngoài được bố trí theo dự án mà không phải theo kế hoạch hàng năm, và có thể giải ngân khi có khối lượng công việc được nghiệm thu); tuy nhiên có hạn chế là không buộc các Bộ, địa phương thực hiện nghiêm túc công tác xây dựng kế hoạch vốn, và các thông tin thể hiện trên báo cáo NSNN không phản ánh được đầy đủ việc bố trí nguồn lực cho các ngành, địa phương; việc GTGC vốn giải ngân phụ thuộc vào thông báo của nhà tài trợ và phụ thuộc vào điều hành mức bội chi NSNN nên cũng không phản ánh đúng tiến độ giải ngân nguồn vốn ODA; việc quyết toán dự án cũng bị chậm do nhiều dự án ODA kéo dài đến 7- 9 năm rất khó quyết toán. + Nếu nguồn vốn ODA thực hiện theo hình thức hỗ trợ ngân sách thì sẽ khắc phục được các bất cập trên, tuy nhiên hình thức hỗ trợ ngân sách cũng có một số hạn chế như hệ thống các quy trình, thủ tục trong nước chưa hoàn toàn hài hoà với quy trình, thủ tục và tiêu chuẩn của nhà tài trợ. Ví dụ như thủ tục mua sắm, đấu thầu chưa đảm bảo minh bạch và đối xử bình đẳng giữa các nhà thầu; quy định về đền bù, tái định cư, tiêu chuẩn môi trường chưa hài hoà v.v…; hệ thống quản lý tài chính chưa cung cấp được các thông tin cần thiết cho nhà tài trợ để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn; trong khi đó cũng chưa có hệ thống đánh giá kết quả đầu ra (đánh giá việc đạt được các chỉ số phát triển) để thay thế cho việc đánh giá sử dụng nguồn lực đầu vào. Ví dụ chương trình 135 khi vốn phân bổ xuống địa phương các dự án được phân bổ vốn trực tiếp giao dịch với KBNN để rút vốn nhưng không báo cáo kịp thời cho cơ quan chủ nhiệm chương trình để có thông tin tổng hợp báo cáo nhà tài trợ; KBNN cũng không có trách nhiệm báo cáo mà chỉ xác nhận đối chiếu với báo cáo của các BQLDA; nhà tài trợ không có thông tin để đánh giá, giám sát; cơ quan chủ nhiệm chương trình không có được báo cáo đánh giá kết quả đầu ra. Việc điều chỉnh kế hoạch vốn đã giao trong trường hợp nguồn tài trợ nước ngoài không giải ngân được đúng theo dự kiến chưa linh hoạt. Đồng thời, yếu tố hỗ trợ kỹ thuật, tăng cường năng lực và cải cách thể chế, hiệu quả chuyển giao công nghệ, tri thức của các khoản hỗ trợ ngân sách theo chương trình mục tiêu chưa đáp ứng được yêu cầu của cả Chính phủ và các nhà tài trợ. Một số ví dụ về việc quản lý và sử dụng nguồn vốn vay nợ nước ngoài kém hiệu quả VD1: Với 750 triệu USD vừa phát hành, tiền vay được không phải để làm đường, xây trường học mà dành cho các doanh nghiệp nhà nước sử dụng. 500 triệu USD trong khoản vay này sẽ được dành cho Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy VN (Vinashin). Cơ sở để Chính phủ đi vay nợ và trao cho Vinashin đó là tổng công ty này đã có được hợp đồng đóng tàu đến hết năm 2012. Như vậy, Vinashin có trách nhiệm phải trả nợ với Chính phủ nhưng về đối ngoại thì nghĩa vụ trả nợ là Chính phủ. Do vậy khả năng trả đủ nợ cho nhà đầu tư nước ngoài đã mua TPQTCP tùy thuộc hoàn toàn vào hiệu quả hoạt động của Vinashin. Vinashin có hợp đồng đóng tàu đến năm 2012 nhưng cũng không ít khó khăn vì trong điều kiện giá xăng dầu ở mức cao, lại thường xuyên biến động, rất dễ gây thiệt hại cho các ngành đóng tàu, máy bay, ôtô…  Từ cuối năm 2007, Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (Vinashin) đã đầutư hơn 60 triệu Euro, tương đương 1.300 tỷ đồng để mua một con tàuRo-Pax của Italia. Sau 7 tháng vận hành tuyến Cái Lân (Quảng Ninh) đếnNhà Rồng (thành phố Hồ Chí Minh), đơn vị được giao quản lý vận hành contàu cho biết đã thua lỗ nặng nề. Tàu Ro-Pax, được đặt tên là Hoa Sendài 187m có tốc độ 30 hải lý (tương đương 55 km/giờ); sức chở 1.000hành khách và 500 ôtô (có thể chở được 153 container loại 40 feet).Theo lịch trình, tàu Hoa Sen chạy mỗi tuần một chuyến, xuất phát từcảng Cái Lân (Quảng Ninh) đến cảng Nhà Rồng (TP. Hồ Chí Minh) trongthời gian 48 giờ đồng hồ trong đó có 8 tiếng dừng ở cảng Chân Mây (ThừaThiên- Huế). Mặc dù đơn vị chịu trách nhiệm quản lý vận hành tàu HoaSen chưa đưa ra con số cụ thể, tuy nhiên, các chuyên gia về tàu thủy ước tính chi phí, chỉ tính tiền xăng dầu để thực hiện lịch trình này không dưới 1 tỷ đồng cho một chuyến “xuyên Việt”. Đến thời điểm hiện tại, tàu Hoa Senđã vận hành được 7 tháng và đang trong tình trạng lỗ nặng. Hiện tại,công suất vận hành tàu chưa đạt 50%, tính chung cho cả người và xe,chưa tính đến lãi suất 5% cho khoản vay 60 triệu Euro. Ví dụ 2: Vụ PCI Mức cam kết ODA hàng năm đều tăng, năm sau cao hơn năm trước. Trong thời kỳ 1993-2007, tổng giá trị ODA cam kết đạt 42.438 triệu USD, trong đó những nhà tài trợ cam kết nhiều vốn ODA cho Việt Nam bao gồm Nhật Bản, WB, ADB, các tổ chức Liên hợp quốc, Pháp, Đức,… Điều này đã thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ của cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế đối với công cuộc đổi mới của Việt Nam, hỗ trợ Việt Nam trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và xoá đói giảm nghèo,... Trong thời kỳ 1993 - 2007, tổng vốn ODA ký kết đạt 32.109 triệu USD, tương đương 75,66% tổng lượng ODA cam kết cùng kỳ; tổng vốn ODA giải ngân đạt 19.865 triệu USD, tương đương 61,86% tổng lượng ODA ký kết cùng kỳ. Bảng 2. ODA cam kết, ký kết và giải ngân thời kỳ 1993-2008 Đơn vị: Triệu USD Năm Số vốn cam kết Vốn ký kết Vốn giải ngân 1993 1.861 817 413 1994 1.959 2.598 725 1995 2.311 1.444 737 1996 2.431 1.602 900 1997 2.377 1.686 1 1998 2.192 2.444 1.242 1999 2.146 1.503 1.35 2000 2.4 1.768 1.65 2001 2.399 2.418 1.5 2002 2.462 1.805 1.528 2003 2.839 1.757 1.422 2004 3.441 2.568 1.65 2005 3.748 2.515 1.787 2007 4.457 2.824 1.785 2008 5.426 3.795 2.176 Tổng số 42.438 32.109 19.865 a) Cơ cấu sử dụng vốn ODA thời kỳ 1993 - 2007 theo ngành, lĩnh vực thể hiện trong Bảng 3. Bảng 3. Cơ cấu sử dụng vốn ODA theo ngành, lĩnh vực thời kỳ 1993 – 2007 Đơn vị: Triệu USD Ngành, lĩnh vực Hiệp định ODA ký kết 1993 - 2007 Tổng Tỷ lệ % 1. Nông nghiệp và phát triển nông thôn kết hợp xoá đói, giảm nghèo 5.130,73 15,90 2. Năng lượng và công nghiệp 7.376,28 22,97 3. Giao thông vận tải, bưu chính viễn thông, cấp, thoát nước và phát triển đô thị, trong đó: 11.286,64 35,15 - Giao thông vận tải, bưu chính viễn thông 8.222,99 25,61 - Cấp, thoát nước và phát triển đô thị 3.063,65 9,54 4. Y tế, giáo dục đào tạo, môi trường, khoa học kỹ thuật, các ngành khác 8.315,6 25,90 Tổng số 32.109,25 100%  b) Cơ cấu sử dụng vốn ODA thời kỳ 1993 - 2007 theo vùng thể hiện trong Bảng 4. Bảng 4. Cơ cấu sử dụng vốn ODA theo vùng lãnh thổ thời kỳ 1993 - 2007 Đơn vị: Triệu USD Bảng 4. Cơ cấu sử dụng vốn ODA theo vùng lãnh thổ thời kỳ 1993 - 2007 Đơn vị: Triệu USD Ngành, lĩnh vực Hiệp định ODA ký kết 1993 - 2007 Tổng Tỷ lệ % 1. Vùng Đồng bằng Sông Hồng 3.500,83 13,69 2. Vùng Trung du miền núi Bắc Bộ 2.063,78 8,07 3. Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Miền Trung 3.278,19 12,82 4. Vùng Tây Nguyên 1.132,39 4,43 3. Vùng Đông Nam Bộ 3.995,60 15,62 4. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long 2.394,67 9,36 5. Liên vùng 9.211,33 36,01 Tổng số 25.576,79 100% 2.4. Thực trạng hoàn trả nợ nước ngoài của Việt Nam Cùng với quá trình vay nợ nước ngoài, Việt Nam cũng luôn phải đứng trước áp lực về nghĩa vụ trả nợ nước ngoài hàng năm. Số liệu thống kê cho thấy nghĩa vụ trả nợ hàng năm của Việt Nam như Bảng 5 dưới đây Bảng 5: Tổng trả nợ của Việt Nam qua các năm từ 2005-30/06/2009 Đơn vị: triệu USD Chỉ tiêu 2005 2006 2007 2008 30/06/09 Tổng trả nợ trong kỳ 698.31 764.50 885.90 1,103.88 600.94 Nợ của Chính phủ 532.88 601.53 701.40 820.78 422.98 Nợ được chính phủ bảo lãnh 165.42 162.97 184.50 283.10 177.96 Tổng trả gốc trong kỳ 435.19 435.51 504.83 679.49 366.87 Nợ của Chính phủ 316.36 315.58 385.64 517.00 260.85 Nợ được chính phủ bảo lãnh 118.84 119.93 119.19 162.49 106.03 Tổng trả lãi và phí trong kỳ 263.12 329.00 381.07 424.39 234.07 Nợ của Chính phủ 216.53 285.95 315.76 303.78 162.13 Nợ được chính phủ bảo lãnh 46.59 43.04 65.31 120.61 71.94 Như vậy theo bảng số liệu có thể thấy, nghĩa vụ trả nợ của Việt Nam qua các năm gần đây có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên tốc độ tăng của vốn gốc phải trả không bằng tốc độ tăng của lãi và phí phải trả trong kỳ. Mặt khác, tỷ lệ lãi và phí/gốc phải trả hàng năm đều ở mức trên 50%, theo đó, gánh nặng về lãi vay đối với Việt Nam là tương đối lớn. Mặt khác, nếu so sánh giá trị nợ phải trả hàng năm trên tổng dư nợ hàng năm có thể thấy, hiện tại tỷ lệ nợ phải trả hàng năm/dư nợ đang ở mức rất thấp, chỉ vào khoảng 2.54% (số liệu 30/06/2009). Như vậy, hiện nay mức độ nợ phải trả của Việt Nam đang còn rất thấp. Đây là giai đoạn áp lực trả nợ của Việt Nam chưa cao do còn thời hạn vay vốn dài. Tuy nhiên, điều này có thể gây áp lực trả nợ cho thế hệ tương lai nếu Việt Nam không có chiến lược và kế hoạch hoàn trả nợ hợp lý. Đánh giá về khả năng hoàn trả nợ của Việt Nam có thể thấy, theo số liệu thống kê về nghĩa vụ trả nợ của Việt Nam năm 2009, nước ta phải tiến hành hoàn trả giá trị nợ vào khoảng 576.52 triệu USD nợ gốc và 314.87 triệu USD tiền lãi. Như vậy so với mục tiêu của cả năm 2009, số liệu hoàn trả nợ sáu tháng đầu năm 2009 cho thấy, mặc dù chỉ mới nửa năm 2009, Việt Nam đã hoàn trả được 366.87 triệu USD nợ gốc (chiếm 63.6% kế hoạch) và 234.07 triệu USD tiền lãi (chiếm 74.3% kế hoạch năm). Như vậy có thể nói Việt Nam là nước hoàn trả nợ nước ngoài tương đối đầy đủ. III. BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ CÁC NƯỚC BỊ KHỦNG HOẢNG NỢ Nhiều cuộc khủng hoảng nợ đã diễn ra trong quá khứ điển hình như cuộc khủng hoảng nợ Mexico năm 1982, Philippin năm 1985 và gần đây nhất là Argentina năm 2001. Tuy nhiên cũng có nhiều nước đã quản lý tốt nợ nước ngoài và đạt được những thành công như Malaysia hay Trung Quốc. 3.1. Argentina(2001) Liên tục trong nhiều năm của thập niên 90, Argentina thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế mạnh mẽ, tư hữu hóa hang loạt xí nghiệp quốc doanh khá giống với nền kinh tế đang chuyển đổi. Việc này đã mang lại một lượng ngoại dự trữ ngoại tệ khá lớn cho Argentina Nhờ tư hữu hóa và vay nợ nước ngoài chính phủ Argentina đã ổn định được đồng nội tệ và với những thành tựu về kinh tế Argentina trở thành điểm đến của các dòng vốn quốc tế Argentina trở thành điển hình sự tăng trưởng thần kỳ cũng không khác nhiều so với Việt Nam bây giờ. Chính phủ Argentina liên tục vay nợ nước ngoài khoảng 35% năm 1995 (ngưỡng an toàn) đến gần 65% năm 2001. Các khoản nợ âm thầm tăng lên làm sức đề kháng của chính phủ yếu đi với các rủi ro trong thâm hụt ngân sách. Đến đến năm 1999 Argentina bắt đầu mất cân đối trong chi tiêu ngân sách, chính phủ không còn nguồn thu nào khác từ thuế để bù đắp thâm hụt. Trong khi đó nguồn thu ngoại tệ từ xuất khẩu giảm đi(nguồn thu chính là xuất khẩu dầu thô) và nhập khẩu tăng, liên tục phải trả các hóa đơn vay nợ nước ngoài khủng hoảng tài chính là điều khó tránh khỏi Sau khi quốc hội Argentina họp khẩn cấp ngày 11/07/2001 để triển khai kế hoạch “Giảm thâm hụt ngân sách xuống bằng không” Moody"s và S&P đã hạ thấp điểm xếp hạng tín nhiệm, các chỉ số niềm tin liên tục suy giảm và IMF ngưng hỗ trợ tín dụng. Đối với các nước đang phát triển ngưỡng an toàn đối với tỷ lệ nợ phải thấp hơn 40%/GDP. Nhưng ngoài ra các nước phải tính đến lãi suất thực phải trả thì đó thực sự là khoản nợ khổng lồ (lãi suất trái phiếu chính phủ VN vay nợ nước ngoài khoảng 6,5% ). Những năm qua chúng ta đã cố gắng giảm tỷ lệ nợ nước ngoài so với GDP giảm xuống từ 37.2% năm 2004 xuống 29.8% năm 2008 nhưng mối hiểm họa nợ nước ngoài luôn phải được nhắc đến. Chúng ta có thể thấy Argentina không giải quyết được các vấn đề nội bộ đó là tình trạng tham nhũng, cổ phần hóa ào ạt, bộ máy thu thuế yếu kém, vay nợ nước ngoài thiếu tính toán. Nhưng quan trọng nhất ta vẫn thấy việc Argentina thiếu cơ chế giám sát hữu hiệu các khoản nợ 3.2. Trung Quốc Một trong những nước quản lý nợ nước ngoài tốt là Trung Quốc. Trung Quốc có mức nợ nước ngoài lớn thứ 5 trên thế giới nhưng đó không phải vấn đề lớn khi Trung Quốc có nguồn dự trữ ngoại tệ cao và mức xuất khẩu lớn. Trong giai đoạn 1979 – 1983, giai đoạn khởi đầu của hoạt động vay nợ nước ngoài ở Trung Quốc, tốc độ vay nợ nước ngoài tương đối thấp, nợ nước ngoài hàng năm tăng khoảng 0,7 tỷ USD. Từ năm 1984, cùng với chính sách khuyến khích quyền tự chủ của các cơ sở, các địa phương, khuyến khích sử dụng vốn vay ưu đãi để xây dựng hạ tầng cơ sở tại các đặc khu kinh tế, nợ nước ngoài của Trung Quốc tăng mạnh. Nhưng các khoản nợ chủ yếu là trung và dài hạn chiếm 89,1% Nếu như giai đoạn trước vay nợ là nhằm mục đích tiêu vay càng nhiều càng tốt để đầu tư cải tạo hạ tầng cơ sở và nhập khẩu thì sang những năm 90 Trung Quốc đã điều chỉnh lại chính sách vay nợ theo hướng vừa phát triển đất nước vừa không quá phụ thuộc vào nước ngoài: - TQ ko chủ trương tăng nợ nước ngòai, khai thác tối đa nguồn vốn không gây nợ nước ngòai như phát hành trái phiếu cổ phiếu trong nước thu hút dòng vốn FDI đồng thời kiểm sóat việc vay nợ nước ngoài. - Quy mô các khoản vay phải hợp lý và khoa học, phải căn cứ vào nhu cầu xây dựng kinh tế và khả năng trả nợ của các đơn vị vay - Nguyên tắc vay nợ của Trung Quốc trong giai đoạn này là chú trọng các khoản vay trung và dài hạn với lãi suất ưu đãi của các nước và các tổ chức tiền tệ quốc tế, tận dụng các khoản vay hỗn hợp mang tính ưu đãi, các khoản vay xuất khẩu và các khoản vay thương mại, lựa chọn các điều kiện vay hợp lý nhất. - Các hạng mục về giao dịch vốn được kiểm soát chặt. Việc vay trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp được quản lý nghiêm ngặt - Xây dựng hệ thống thông tin quản lý kết nối giữa ngân hang nhân dân , tổng cục quản lý ngoại hối, tổng cục hải quan các ngân hàng thươg mại để quản lý ngoại hối 3.3. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam Đối với mỗi một nước đều có những nét đặc thù riêng tuy nhiên kinh nghiệm và bài học của những nước này cũng có những giá trị nhất định đối với Việt Nam: - Không nên quá phụ thuộc vào nguồn vốn bên ngoài. Có gắng khai thác tối đa các nguồn vốn trong nước như phát hành trái phiếu cổ phiếu. Sử dụng các công cụ tài chính linh hoạt đa dạng để thu huets ngoại tệ trên thì trường tài chính quốc tế. Lựa chọn các hình thức thích hợp giảm nợ như vay bắc cầu thanh tóan trả trước các khỏan nợ để giảm chi phí trả lãi vay và kéo dài thời hạn vay - Kiểm sóat chặt luồng vốn và khi có đủ năng lực quản lý và xử lý các tình huống phát sinh sẽ tiến tới tự do hóa luồng vốn. Khi tự do hóa tài khoản vốn cần các biện pháp kiểm sóat hữu hiệu để đề phòng bùng nổ số dư nợ nước ngòai và an ninh tài chính quốc gia - Duy trì tỷ lệ nợ ngắn hạn hợp lý và kiểm sóat luồng vốn ngắn hạn vào ra để can thiệp khi có biến động - Đảm bảo duy trì 3 cân đối vĩ mô bao gồm: cân đối giữa nguồn tài trợ từ tiết kiệm, kể cả từ tiết kiệm bên ngòai và đầu tư; cân đối thu chi ngân sách; cân đối nguồn ngoại tệ vào và ra - Đảm bảo cơ sở thể chế quản lý nợ mang tính pháp lý cao. cơ chế giám sát hữu hiệu các khoản vay nợ nước ngoài của chính phủ, ấn định giới hạn nợ; sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng liên quan trong quản lý nợ IV. GIẢI PHÁP QUẢN LÝ, SỬ DỤNG VÀ HOÀN TRẢ NỢ NƯỚC NGOÀI 4.1. Nhóm giải pháp liên quan đến việc quản lý nợ nước ngoài * Thành lập hội đồng tư vấn nợ: Tổ chức này có trách nhiệm

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26205.doc
Tài liệu liên quan