Đề tài Thực trạng và các giải pháp quản trị rủi ro giá cả hàng hóa cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam

CHƯƠNG I

TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ RỦI RO

1.1.Khái niệm quản trị rủi ro . 1

1.2. Khái niệm sản phẩm phái sinh trên thị trường hàng hóa . 1

1.3. Lợi ích của việc sử dụng các sản phẩm phái sinh hàng hóa . 1

1.4. Các loại rủi ro mà một DNXKNS thường gặp phải . 2

1.4.1.Rủi ro tỷ giá. 2

1.4.2. Rủi ro thanh toán . 2

1.4.3. Rủi ro về lãi suất . 2

1.4.4. Rủi ro pháp lý . 2

1.4.5. Rủi ro cạnh tranh . 2

1.4.6. Rủi ro chính trị . 3

1.4.7. Rủi ro giá cả hàng hóa nông sản . 3

1.5. Các công cụ có thể áp dụng để QTRR giá cả hàng hóa nông sản

.3

1.5.1. Thị trường kỳ hạn. . 4

1.5.1.1.Khái niệm hợp đồng kì hạn . 4

1.5.1.2. Đặc điểm của hợp đồng kỳ hạn . 4

1.5.1.3.Loại hợp đồng kỳ hạn . 5

1.5.1.5. Nhược điểm của hợp đồng kỳ hạn. . 6

1.5.2. Hợp đồng tương lai (Hợp đồng giao sau) . 6

1.5.2.1. Khái niệm hợp đồng giao sau. . 6

1.5.2.2. Đặc điểm của hợp đồng giao sau . 6

1.5.2.3.Ưu điểm của hợp đồng giao sau . 6

1.5.2.4. Nhược điểm của hợp đồng giao sau . 7

1.5.3. Quyền chọn (options) . 7

1.5.3.1. Khái niệm

1.5.3.2. Đặc điểm của hợp đồng quyền chọn . 8

1.5.3.3.Các loại quyền chọn . 8

1.5.4. Sự hoán đổi hàng hóa (Swaps) . 9

1.5.4.1. Khái niệm . 9

1.5.4.2. Đặc điểm . 9

1.5.4.3. Các loại hoán đổi . 9

1.6. Bài học kinh nghiệm của một số nước trên thế giới . 10

1.6.1. Kinh nghiệm của Mỹ. 10

1.6.2. Kinh nghiệm của Brazil . 11

1.6.3. Bài học kinh ngiệm rút ra cho các DN xuất khẩu Việt Nam . 13

CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG BIẾN ĐỘNG VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO GIÁ CẢ HÀNG HÓA

NÔNG SẢN Ở CÁC DN XUẤT KHẨU

2.1. Thực trạng XKNS ở các DNXK Việt Nam . 14

2.1.1. Đánh giá chung về tình hình XKNS . 14

2.1.2. Biến động giá cả của một số mặt hàng nông sản chủ yếu. 15

2.12.1. Mặt hàng gạo xuất khẩu . 15

2.1.2.2. Mặt hàng cà phê xuất khẩu . 16

2.1.2.3. Mặt hàng điều xuất khẩu . 19

2.1.3. Đánh giá tình hình hoạt biến động giá của các DN XKNS . 21

2.2. Những rủi ro mà các DN xuất khẩu đang phải đối mặt . 22

2.2.1. Rủi ro tỷ giá . 22

2.2.2. Rủi ro về lãi suất . 22

2.2.3. Rủi ro pháp lý . 23

2.2.4. Rủi ro cạnh tranh . 23

2.2.5. Rủi ro giá cả hàng hóa nông sản . 23

2.3. Dự báo biến động giá nông sản trong năm 2008 . 24

2.3.1. Mặt hàng gạo . 24

2.3.2. Mặt hàng cà phê . 25

2.3.3. Mặt hàng điều. 25

2.4. Những cơ hội và thách thức . 26

2.4.1 Cơ hội: . 26

2.4.2. Thách thức . . . .27

2.5. Thực trạng tiến hành quản trị rủi ro giá cả hàng hóa tại các DN XKNS . 28

2.5.1.Đánh giá chung về thực trạng quản trị rủi ro giá cá hàng hóa nông sản . 28

2.5.2. Xây dựng và phát triển thị trường giao sau cafe . 29

2.5.2.1. Sự phối hợp của các ngân hàng . 29

2.5.2.2. Hình thành sàn giao dịch giao sau cà phê. 30

2.6. Kết luận chung về những biện pháp quản trị rủi ro giá cả mà các DNXKNS

đã áp dụng. 34

CHƯƠNG III

CÁC GIẢI PHÁP QUẢN TRỊ RỦI RO GIÁ CẢ HÀNG HÓA CHO CÁC

DOANH NGHIỆP XUẤT KHẨU NÔNG SẢN VIỆT NAM

3.1. Các giải pháp định hướng . 35

3.1.1 Xây dựng nền kinh tế ổn định. . 35

3.1.3. Đầu tư nhân lực và vật lực cho nông nghiệp, DN xuất khẩu . 36

3.1.4. Những biện pháp tác động đến chi phí đầu vào . 36

3.1.5. Nâng cao nhận thức và tầm quản trị rủi ro cho các DNXK . 37

3.1.6. Các DN phải tự thân vận động, tự đấu tranh để tồn tại . 37

3.2. Giải pháp hoàn thiện sàn GDGS cà phê tiến đến hình thành sàn GSNS . 38

3.2.1. Hoàn chỉnh thị trường giao ngay . 38

3.2.2. Học tập kinh nghiệm của thế giới. . 39

3.2.3. Trang bị kiến thức luật pháp, xử lý thông tin, tiếp cận với thị trường . 39

3.2.4. Tuân thủ những quy tắc chung khi tham gia sàn giao dịch . 40

3.2.5. Đầu tư cơ sở hạ tầng, máy móc thiết bị cho sàn giao dịch . 40

3.2.6. Vận động nhiều DN tham gia thị trường . 40

3.2.7. Xây dựng sàn giao dịch giao sau nông sản ảo. . 41

3.3. Mô hình để hình thành và phát triển thị trường các CCCKPS ở Việt Nam . 41

3.3.1. Mô hình thị trường phi chính thức. 41

3.3.2. Mô hình sàn giao dịch chứng khoán phái sinh . 43

3.3.2.1. Cơ chế quản lý sàn giao dịch . 43

3.3.2.2 Sàn giao dịch HIDEX . 43

3.3.2.3. Mô hình tổ chức sàn giao dịch HIDEX . 44

3.4. Những đề xuất về phương pháp quản trị rủi ro giá hàng hóa nông sản . 44

3.4.1. Phương pháp độ lệch chuẩn. . 45

3.4.2. Mô hình hồi quy. . 46

3.4.3. Mô hình phân tích hồi quy ước lượng thiệt hại. 48

KẾT LUẬN

pdf69 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 4586 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và các giải pháp quản trị rủi ro giá cả hàng hóa cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thế giới. Trong đó nhiều thị trường “khó tính” như: EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ… gạo Việt Nam cũng đã “chinh phục” được. Lượng gạo xuất năm 2007 ước đạt 4,5 triệu tấn, kim ngạch 1,46 tỷ USD, so với năm 2006 giảm 3% về lượng, nhưng tăng 14,4% về giá trị. Khoảng cách giá gạo xuất khẩu của Việt Nam với Thái Lan đã thu hẹp, có thời điểm đạt mức ngang giá Năm 2007, xuất khẩu gạo 15% tấm đạt 1,512 triệu tấn với kim ngạch 501,5 triệu USD, tăng 15,04% về lượng và tăng 37,96% về trị giá so với năm 2006; tăng 21,84% về lượng và tăng 44,67% về trị giá so với năm 2005 + Về thị trường: Đứng đầu về thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam năm 2007 là Philippine với 1,454 triệu tấn, trị giá 464,87 triệu USD,giảm 3,71% về lượng nhưng tăng 8,3% về trị giá so với năm 2006. Xuất khẩu sang thị trường này chủ yếu là gạo 25% tấm. Xuất khẩu sang Indonesia năm 2007 tăng khá mạnh, đạt 1,11 triệu tấn gạo với trị giá 360,66 triệu USD, tăng tới 226,6% về lượng và tăng 244,75% về trị giá so với năm 2006; còn so với năm 2005 tăng 1029,39% về lượng và tăng 1220,74% về trị giá. Thị trường này chủ yếu nhập khẩu gạo 15% tấm và gạo nếp 10% tấm. +Về giá cả gạo xuất khẩu Theo số liệu thống kê của WTO trong 14 năm trở lại đây cho thấy, cơn sốt giá nông sản thế giới hiện nay đang bước vào thời điểm gay gắt giống như ở thời điểm năm 1996 của chu kỳ sốt nóng trước. Giá gạo xuất khẩu bình quân năm 2007 đạt khoảng 300 USD/tấn, tăng 17,5% so với năm trước và dự đoán năm 2008 giá gạo sẽ tiếp tục tăng lên. (Nguồn: www. agro. gov. vn) Từ giữa tháng 2/2008, giá gạo của Việt Nam xuất khẩu đã lên mức 460 USD/tấn. Giá gạo Việt Nam hiện đã vượt qua giá gạo Thái Lan. So với cùng kỳ năm trước, nếu giá gạo Thái Lan tăng 71-73% thì giá gạo Việt Nam tăng 77-82%. Giá gạo liên tục tăng làm gia tăng những quan ngại về bùng phát bất ổn xã hội trên toàn châu Á, nơi thóc gạo là lương thực chính của hơn 2,5 tỷ người. Gạo cũng là lương thực quan trọng ở châu Phi, nhất là ở các nước nhỏ đang phải gánh chịu sự bất ổn xã hội do giá lương thực leo thang. 2.1.2.2. Mặt hàng cà phê xuất khẩu Trong mối tương quan với các nước sản xuất cà phê trên thế giới thì cà phê Việt Nam có bước phát triển vượt bậc. Từ vị trí rất thấp, hiện nay chúng ta đã vươn lên đứng thứ 2 thế giới, chỉ sau Brazil. Biểu đồ: Thị phần các nước sản xuất và xuất khầu cà phê chính năm 2006. Trong đó: 1: Việt Nam, 2: Etopia, 3: Brazil, 4: Costa Rica, 5: Guatemala, 6: Mexico, 7: Ấn Độ, 8: Tanzania, 9: Kenya, 10: Colombia, 12: Cote d’Ivoire, 13: Uganada, 14: Indonesia, 11: Khác. Năm 2007, cà phê Việt Nam lại có một năm bội thu cả về sản lượng và giá xuất khẩu luôn duy trì ở mức cao, khoảng 1. 430 USD/ tấn so với mức 1227 USD/tấn năm 2006 vàmức 1. 066 USD/tấn năm 2005. Vị thế ngày càng vững chắc của cây cà phê Việt Nam là một trong những cơ sở quan trọng để Hiệp Hội Cà phê Ca Cao (Vicofa) triển khai ý tưởng đưa cà phê Việt Nam lên sàn giao dịch cà phê quốc tế. + Về giá cả cà phê Trong thời gian qua giá cà phê biến động chịu sự chi phối của qui luật cung – cầu. Niên vụ 2005-2006, cà phê mất mùa vì thời tiết khô hạn kéo dài. Sản lượng cung giảm thấp, khiến các DN kinh doanh cà phê thế giới phải huy động cả nguồn cà phê dự trữ. Vì vậy nguồn cà phê lưu kho cạn kiệt, giới chuyên doanh cà phê thế giới lại càng tăng cường mua vào dự trữ. Mặc dù niên vụ 2006 -2007, cà phê thế giới được mùa, sản lượng của Việt Nam đạt gần 1 triệu tấn, Brazil đạt 2 triệu tấn, nhưng vẫn không đáp ứng được nhu cầu thu mua của giới chuyên doanh, nên giá cà phê liên tục tăng cao. Trong năm 2007, cả nước đã sản xuất được 1. 194 nghìn tấn cà phê các loại với trị giá 1,854 tỉ USD, tăng 21,73% về lượng và tăng 52,32% về trị giá so với năm 2006. Lượng và giá cà phê xuất khẩu trung bình từ T12/06 đến T12/07 Lượng và giá cà phê xuất khẩu trung bình từ 2001 đến 2007 Nguồn: www. agro. gov. vn Năm 2007 là năm đặc biệt thành công đối với ngành cà phê của nước ta với lượng cà phê xuất khẩu đạt 1.209 nghìn tấn và kim ngạch đạt 1,88 tỷ USD, tăng 23,32% về lượng và tăng 54,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2006 (mức kỷ lục về lượng và trị giá). Trong năm 2007, giá cà phê xuất khẩu trung bình của nước ta đạt 1. 553 USD/tấn, tăng 25,12% so với năm 2006. Vào khoảng cuối tháng 2/2008, giá cà phê robusta xuất khẩu loại II dao động trong khoảng 1.870-1. 940 USD/tấn, tăng trên 10% so với đầu năm 2008 và tăng gần 40% so với cùng kỳ năm ngoái. Tại thị trường trong nước, giá cà phê cũng liên tục tăng, có khi đạt 42. 000 đ/kg, xấp xỉ mức kỷ lục năm 1995. Ngày 17/3/2008, ngày đánh dấu lịch sử của giá vàng và giá dầu thô khi leo lên mức kỷ lục 1.033,90 USD/ounce và 111,30 USD/thùng do đồng USD giảm. Tuy nhiên cuối ngày, giá vàng cùng giá dầu thô và giá các nông sản khác trong đó có cà phê đồng loạt giảm do tin Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) chắc chắn sẽ cắt giảm lãi suất đã khiến các nhà đầu cơ bán tháo mặt hàng cà phê và đẩy giá rơi xuống mức thấp nhất kể từ giữa tháng 1/08. Ngay sau đó, chuỗi ngày ảm đạm xuất hiện trên thị trường cà phê. Ngày 19/3, giá giảm xuống mức thấp nhất trong 4 tháng trở lại sau quyết định cắt giảm lãi suất thêm 75 điểm phần trăm xuống còn 2,25% của FED (ngày 18/3) khiến đồng USD tăng giá trở lại đẩy các mặt hàng khác giảm xuống. Tiếp đó vào ngày 20/3, giá cà phê thế giới tiếp tục giảm mạnh xuống mức thấp nhất trong vòng 10 tuần trở lại do hoạt động giao dịch thưa thớt trước kỳ nghỉ Lễ Phục trong khi đồng USD tăng giá trở lại. Cũng theo đà của thị trường thế giới, giá cà phê tại Việt Nam - nước đang cạnh tranh với Braxin ở vị trí đầu bảng về xuất khẩu cà phê - đã tăng lên mức cao kỷ lục 42.000 đồng/kg trong tháng 3 do nguồn cung thắt chặt. Giá cà phê robusta xuất khẩu giao tại cảng Tp.HCM lúc cao nhất đạt 2.635 USD/tấn so với mức 2.757 USD/tấn cà phê cùng loại tại Luân Đôn. Tuy nhiên không lâu sau, khi giá cà phê thế giới đột ngột giảm thì giá trong nước cũng không tránh khỏi xu thế này và liên tục giảm trong thời gian qua nhưng với biên độ nhẹ. + Thị trường xuất khẩu Năm 2007, cà phê của nước ta được xuất sang 143 thị trường trên thế giới, tăng 68% so với 86 thị trường năm 2006. Trong đó, Đức tiếp tục là thị trường xuất khẩu cà phê lớn nhất, đạt 177 nghìn tấn, tăng 17,59% so với năm 2006. Bên cạnh đó, lượng cà phê xuất sang một số thị trường chủ lực như Italia, Thuỵ Sĩ, Bỉ và Indonesia tăng rất mạnh, lần lượt tăng tới 70,14%; 88,38%; 32,27%; 104,81% và tăng 844,3% so với năm 2006 (Xem bảng phụ lục 02, 03). Tính riêng trong tháng 12/07, lượng xuất khẩu cà phê sang thị trường Mỹ đạt cao nhất với 20 nghìn tấn, kim ngạch đạt 35 triệu USD, so với tháng 11/07 tăng 109% về lượng và 106% về kim ngạch. Nhìn chung lượng xuất khẩu cà phê của Việt Nam sang các thị trường đều tăng so với năm 2006, tuy nhiên cũng có một số thị trường giảm khá mạnh về lượng nhập. Cụ thể, Ấn Độ giảm 71% về lượng và 66% về kim ngạch so với năm 2006; CH Séc giảm lần lượt 61% và 49%; Đài loan là một trong những thị trường xuất khẩu cà phê chính của nước ta những cũng giảm khá mạnh về lượng nhập trong năm 2007, giảm 60% về lượng và 17% về kim ngạch 2.1.2.3. Mặt hàng điều xuất khẩu Thống kê cả năm 2007, lượng điều xuất khẩu của nước ta đạt khoảng 153 ngàn tấn với kim ngạch 650 triệu USD, tăng 20,65% về lượng và tăng 29,03% về kim ngạch so với năm 2006; tăng 40,4% về lượng và tăng 29,61% về kim ngạch so với năm 2005. Theo Hiệp hội Điều Việt Nam, lượng điều xuất khẩu của Việt Nam hiện chiếm trên 50% lượng điều xuất khẩu của thế giới. Nguồn: Vn + Về giá cả Trong năm 2007, cùng với sự phục hồi của giá điều trên thị trường thế giới, giá điều xuất khẩu trung bình của nước ta cũng tăng trở lại trong năm 2007, trung bình đạt 4. 248 USD/tấn, tăng 7% so với năm 2006 nhưng vẫn thấp hơn 7,7% so với năm 2005. Bên cạnh đó, giá điều xuất khẩu trung bình của nước ta từ tháng 7/2007 đến hết năm 2007 luôn đứng trên ngưỡng 4. 200 USD/tấn, tăng khá so với những tháng đầu năm 2007 và cùng kỳ năm 2006. Đây cũng là thời điểm lượng tập trung phần lớn lượng điều xuất khẩu của cả nước trong năm 2007. Với kết quả trên, năm 2007 được coi là năm thành công của ngành điều nước ta. (Xem phụ lục 04,05 ). Sang năm 2008, giá điều trên thị trường thế giới sẽ tiếp tục vững do lượng dự trữ toàn cầu thấp, diện tích đất canh tác tại nhiều nước bị thu hẹp trong khi nhu cầu thế giới luôn đứng ở mức cao. Trong tháng, giá xuất khẩu trung bình hạt điều đứng ở mức 4.398 USD/tấn, giảm 0,2% so với tháng trước. Còn so với cùng kỳ năm ngoái thì giá xuất khẩu trong tháng này lại tăng rất mạnh, cụ thể tăng 10%. Giá điều xuất khẩu trung bình từ T01/06 đến T11/2007 Nguồn: vn +Thị trường xuất khẩu: Xuất khẩu sang Mỹ: Tính cả 11 tháng năm 2007, lượng xuất khẩu tăng 26%, kim ngạch tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoái tương đương là 48,7 ngàn tấn, kim ngạch 206 triệu USD Xuất khẩu sang Trung Quốc: Kết thúc 11 tháng năm 2007, lượng xuất khẩu chỉ đạt 22 ngàn tấn, kim ngạch đạt 84 triệu USD, giảm 10% về lượng nhưng tăng 0,89% về kim ngạch so với cùng kỳ năm ngoái. Xuất khẩu tới Canađa: Xuất khẩu 11 tháng năm 2007 lên đạt 4,5 ngàn tấn, kim ngạch 18 triệu USD, tăng 25% về lượng, 29% về kim ngạch so với 11 tháng năm ngoái. (Xem phụ lục 05). 2.1.3. Đánh giá tình hình hoạt biến động giá của các DN XKNS Nhìn chung các DN xuất khẩu đang có nhiều lợi thế khi giá cả tăng như hiện nay. Họ có điều kiện cải thiện giá cả, thâm nhập thị trường, xây dựng thương hiệu…Tuy nhiên họ lại gặp phải không ít trở ngại khi thu mua nông sản vì bị nông dân phá hợp đồng hoặc họ giữ hàng đầu cơ...Hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đều gắn mác ngoại và thực tế chất lượng còn thua kém các nước khác nên sản lượng xuất khẩu được cải thiện không đáng kể. Họ vẫn chưa đủ sức cạnh tranh trong khi môi trường hội nhập đang lấn dần vào thị trường nội địa, vì vậy nguy cơ nhiều DN sẽ không trụ vững trên thương trường do sức ép cạnh tranh và do không đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng... Các DN trong ngành đều thừa nhận rằng, tuy giá sản phẩm hiện có tăng, nhưng... không thể vui và an tâm được. Lý do tiêu tăng giá là vì sản lượng năm nay ở một số cường quốc về hồ tiêu như Ấn Độ, Brazin bị sụt giảm, khan hiếm do hạn hán, lũ lụt. Còn cao su tăng giá, thì đó chỉ là giá "ảo", tăng nóng trong thời điểm các nước có sản xuất mủ cao su đã hết hàng. Hơn nữa, sự biến động về giá chỉ xảy ra chủ yếu với thị trường Trung Quốc - nơi VN có lượng xuất khẩu theo đường mậu biên nhiều…. 2.2. Những rủi ro mà các DN xuất khẩu đang phải đối mặt 2.2.1. Rủi ro tỷ giá Do mở cửa thị trường theo các cam kết của WTO, nên các biến động giá hàng hóa và tỉ giá VND/USD ngày càng trở nên khó lường. Nếu không lường hết các biến động này và xây dựng cho mình một chương trình quản trị rủi ro thích hợp, các DN (DN) nước ta sẽ gặp phải khó khăn thật sự trước những công ty nước ngoài vốn có truyền thống phòng ngừa rủi ro - điều mà hầu như đã trở thành bản năng của bất kỳ DN nào trong môi trường cạnh tranh toàn cầu. Biến động tỷ giá là một trong những nguồn gốc rủi ro chính khiến các DN trên thế giới luôn rơi vào thế bị động. Với việc có khả năng trong tương lai tỉ giá VND/USD ngày càng linh hoạt hơn, mà gần đây là việc Ngân hàng Nhà nước công bố chính thức mở rộng biên độ tỉ giá VND/USD lên 0,5%, thì bất ổn trong tỉ giá giờ đây đã trở thành một nguồn rủi ro mà các DN cần phải tính đến trong khi xây dựng kế hoạch kinh doanh. Điều đáng lưu ý là sắp tới đây sẽ ngày càng có nhiều DN kinh doanh xuất nhập khẩu tiến tới sử dụng các ngoại tệ khác không phải là USD, mà tỉ giá trao đổi giữa VND và các ngoại tệ như đồng Euro, Bảng Anh, Yên Nhật lại hoàn toàn thả nổi theo giá thị trường (không theo biên độ như tỉ giá VND/USD). Thế cho nên, các bất ổn trong tỉ giá ngày càng khó lường. Kinh tế Mỹ đang phải vật lộn với nguy cơ suy thoái, đồng USD sẽ tiếp tục giảm giá, trong khi xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ hiện lên tới 10,3 tỉ USD, chiếm tới 21,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, nên tốc độ tăng xuất khẩu vào Mỹ nếu không bị giảm thì sẽ không tăng cao như trước. Mặt khác, hàng hóa của các nước nhất là Trung Quốc, các nước trong khu vực xuất khẩu vào Mỹ nếu gặp khó khăn sẽ tràn vào nước ta, cạnh tranh khốc liệt với hàng hóa sản xuất trong nước. 2.2.2. Rủi ro về lãi suất Trong bối cảnh hiện nay khi mà lãi suất ở các ngân hàng đua nhau tăng vọt thì chi phí sản xuất cũng tăng lên từ đó tác động lên giá thành sản phẩm và kéo theo giá cả tăng lên. Nếu giá cả không tăng tương ứng hay giảm xuống thì rõ ràng rủi ro là điều không tránh khỏi. Cho đến lúc này, có thể xem như lãi suất của Việt Nam đã được tự do hóa hoàn toàn. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia, vấn đề chạy đua lãi suất trong các năm qua giữa các ngân hàng thương mại nhiều lúc không tuân theo một qui luật nào cả. Điển hình là trong năm 2006, khi mà chỉ số CPI giảm, kéo theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố giảm, các ngân hàng thương mại vẫn điều chỉnh tăng lãi suất? Việc “chạy đua lãi suất” giữa các ngân hàng thương mại đã tạo ra không ít rủi ro cho DN. 2.2.3. Rủi ro pháp lý Các DN Việt Nam vẫn còn hạn chế trong việc tiếp cận và áp dụng luật pháp quốc tế nên rất dễ bị các DN nhập khẩu ép giá và gây khó khăn trong hoạt động xuất khẩu. Theo cam kết gia nhập WTO, mức thuế nông nghiệp bình quân của Việt Nam sẽ là 21% và lộ trình cắt giảm từ 3 - 7 năm (tùy từng nhóm hàng). Điều đáng chú ý là trong quá trình sản xuất, sản phẩm nông nghiệp Việt Nam phải có chứng chỉ an toàn để chứng minh mặt hàng này luôn đảm bảo an toàn vệ sinh, chẳng hạn như chứng chỉ xác định nguồn gốc giống (chứng chỉ xác nhận giống không thuộc loại cây biến đổi gen), chứng chỉ báo cáo chất lượng (hàm lượng protein, chống oxy hóa...). Ngoài ra, tổ chức Lương thực thế giới (FAO) và Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đã công bố báo cáo chung “Triển vọng nông nghiệp 2006-2015”, cho biết buôn bán nông sản từ nay đến năm 2015 vẫn tiếp tục bị cản trở do các nước phát triển còn áp dụng trợ giá nông nghiệp và dựng các rào cản thương mại. 2.2.4. Rủi ro cạnh tranh Nếu xét về năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới thì hàng nông sản Việt Nam còn rất nhiều hạn chế. Các sản phẩm nông, lâm nghiệp, thủy sản có kim ngạch xuất khẩu lớn chủ yếu nhờ vào sự gia tăng số lượng và được lợi về giá cả do biến động của thị trường. Hầu hết nông sản xuất khẩu ở dạng sơ chế, giá trị gia tăng thấp, các yếu tố phát triển theo chiều sâu như công nghệ, thể chế, trình độ nhân lực cao vv...chưa đủ để đáp ứng cũng như chưa tận dụng và phát huy tốt. Các cam kết WTO sẽ bao trùm lên tất cả lĩnh vực về thuế, phi thuế, hỗ trợ trong nước, trợ cấp xuất khẩu, thương mại nhà nước... Theo xu thế hiện nay, để được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN) của các nước thành viên WTO, các nước mới gia nhập phải cam kết ở mức độ cao hơn nhiều so với các nước đã là thành viên của WTO. Hơn nữa, một thực tế là thương mại hàng nông sản trên thế giới không công bằng do các nước phát triển đã trợ cấp rất lớn cho hàng nông sản. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích của các nước đang phát triển vốn trông chờ vào nguồn ngoại tệ từ XKNS. 2.2.5. Rủi ro giá cả hàng hóa nông sản Thực tế nhìn chung khi nông dân được mùa thì giá cả có xu hướng giảm còn khi mất mùa thì giá cả lại tăng. Nghịch lý này là điều dễ hiểu nhưng xét trên góc độ tai chính chúng ta có thể tiến hành phòng ngừa bằng công cụ phái sinh. Những biến động mạnh và thất thường về giá trên thị trường nông sản quốc tế cũng là nhân tố sẽ ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất, XKNS của Việt Nam. Và điều đó sẽ làm xuất hiện nhiều rủi ro về giá cả cho các nhà sản xuất, XKNS Việt Nam. Bởi xu hướng giá cả thường tuân theo quy luật thị trường nên rủi ro là không thể tránh khỏi, vấn đề là phòng ngừa và hạn chế nó được đến mức độ nào. Trên thế giới khi dân số ngày càng tăng thì nhu cầu cũng tăng lên, chưa kể đến nhu cầu của những người nghèo không đủ lương thực để sống ở các nước châu Phi. . . Như vậy chắc chắn một điều rằng nông sản sẽ không bị ế, không có người mua mà sẽ là nguồn hàng hóa rất có lợi thế trong việc đảm bảo an ninh lương thực cho thế giới. Trong khi đó nguồn cung đang có nhiều nguy cơ sẽ bị thu hẹp do đất đai ngày càng thu hẹp, thời tiết ngày càng có nhiều bất lợi cho việc sản xuất, năng suất nhờ khoa học công nghệ cũng chỉ có thể đạt đến một mức độ nhất định, chuyển đổi canh tác của Nhà nước – chuyển dần sang công nghiệp dịch vụ. Nguồn cung có thể có xu hướng giảm và không đáp ứng được nhu cầu của toàn xã hội do tâm lý công nghiệp hóa ngày càng ăn nhập vào những người sản xuất nhỏ lẻ manh mún dẫn đến họ dễ dàng từ bỏ sản xuất. Giá cả sẽ có xu hướng tăng lên, tuy nhiên cũng không tránh khỏi những thăng trầm biến cố, nó có thể sụt giảm. Sự đầu cơ cũng ảnh hưởng đến giá sản phẩm. Cầu đột ngột đối với một hợp đồng - bị kích động do tin đồn, thông tin nội bộ hoặc các yếu tố khác - có thể khiến giá hàng hoá đó "cao đến tận mây xanh". Hoặc điều ngược lại có thể xảy ra khi có các tin đồn hoặc các sự kiện khiến nhà đầu tư do dự không muốn bán. Giá nguyên liệu đầu vào cao do nhập khẩu chiếm đến 70% đối với sản phẩm lúa, chăn nuôi lợn, chủ yếu là nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, xăng dầu…Việc hình thành giá đầu vào còn có thuế nhập khẩu, thuế VAT, thuế thu nhập DN, nông dân còn chịu những chênh lệch giá do đầu cơ và hình thức công nghiệp vay nặng lãi (vay tiền và vay vật tư). 2.3. Dự báo biến động giá nông sản trong năm 2008 Năm 2008 nhằm mục tiêu hàng nông sản xuất khẩu đạt kim ngạch cao, Bộ Công Thương nhận định hướng xuất khẩu một số mặt hàng nông sản được dự báo như sau: 2.3.1. Mặt hàng gạo Theo dự báo của Bộ Nông nghiệp & Phát triển nông thôn, sản lượng lúa năm 2008 vào khoảng 36,5 triệu tấn, sau khi trừ tiêu dùng nội địa lượng lúa dành cho xuất khẩu vào khoảng 8,8 triệu tấn, tương đương với 4,8 triệu tấn gạo. Dự kiến năm 2008 Việt Nam xuất khẩu 4,5 triệu tấn gạo trắng các loại và gạo nếp, đạt kim ngạch 1,5 tỷ USD tăng 1,4% về trị giá so với năm 2007. Nhìn chung, xuất khẩu gạo năm 2008 không gặp khó khăn về thị trường do diện tích canh tác trên toàn thế giới có xu hướng ngày càng thu hẹp. Sự gia tăng dân số là một thách thức lớn đối với nền kinh tế thế giới và đối với vấn đề an ninh lương thực toàn cầu nói riêng. Theo dự báo của Liên Hợp Quốc, dân số thế giới sẽ tăng thêm 2,5 tỷ người vào năm 2020, riêng Châu Á là 1,5 tỷ. Điều này sẽ làm tăng đáng kể khối lượng nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm nông nghiệp, đặc biệt là các sản phẩm lương thực, thực phẩm. Do đó, có thể thấy rằng, thị trường thế giới đang tạo ra cơ hội lớn cho các nông sản Việt Nam, nhất là các sản phẩm lương thực đang là thế mạnh của nông nghiệp Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 2.3.2. Mặt hàng cà phê Sản lượng cà phê toàn cầu trong niên vụ 2007 - 2008 ước đạt 116 triệu bao (60 kg/bao), giảm trên 7% so với năm trước, trong khi tổng mức tiêu thụ cà phê thế giới năm nay sẽ ở mức khoảng 125 triệu bao, mức thiếu hụt dự kiến trên 9 triệu bao. Riêng sản lượng cà phê của Việt Nam ước đạt 17.4 triệu bao tương đương 1044 triệu tấn tức giảm khoảng 16-17% so với năm 2007. Ngày 12/3, Tổ chức Cà phê Thế giới (ICO) đã nâng dự báo về sản lượng cà phê thế giới vụ 2007/08 thêm 2 triệu bao so với trước đó, lên 118 triệu bao loại 60 kg, nhờ triển vọng từ vụ mùa bội thu ở Việt Nam - nước sản xuất cà phê robusta lớn nhất thế giới. Tuy nhiên, dự báo mới nhất của ICO vẫn thấp hơn so với con số 125 triệu bao đạt được trong vụ 2006/07. Tại Việt Nam, nước sản xuất cà phê lớn thứ 2 thế giới, trong 6 tháng đầu vụ 2007/08 (tháng 10 – tháng 3), đã xuất khẩu 622.000 tấn cà phê hay 10,37 triệu bao loại 60kg, giảm 18,2% so với cùng kỳ vụ trước, riêng tháng 3 chỉ xuất khẩu đựơc 150.000 tấn, giảm 13,8%. Về nhu cầu, ICO dự đoán tiêu thụ cà phê thế giới trong năm 2008 ước đạt 123 triệu bao, cao hơn so với 120 triệu bao của năm 2007. Trong khi đó Hiệp hội Cà phê Quốc gia Mỹ cho biết, tiêu thụ cà phê của nước này thời gian gần đây giảm mạnh do sự sụt giảm của nền kinh tế. 2.3.3. Hạt điều nhân Trong năm 2008, nhu cầu tiêu thụ điều thế giới sẽ tiếp tục tăng (trung bình 4%/năm). Dự báo ngành điều Việt Nam sẽ xuất khẩu 160.000 tấn đạt kim ngạch khoảng 680 triệu USD do giá thế giới thuận lợi và trong điều kiện sản lượng điều Việt Nam tiếp tục tăng. Mỹ và Trung Quốc và châu Âu sẽ vẫn là những thị trường XK chủ lực. theo đánh giá, giá điều xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2008 sẽ tiếp tục tăng, có khả năng đạt mức trung bình 4. 400 - 4. 500 USD/tấn. Dự báo, nhờ giá điều xuất khẩu đang ổn định ở mức khá cao nên khác với những năm trước, lượng điều xuất khẩu của nước ta có thể sẽ tiếp tục được duy trì ở mức cao trong 2 tháng đầu năm 2008. Ngoài ra, sang năm 2008, giá điều trên thị trường thế giới sẽ tiếp tục vững do lượng dự trữ toàn cầu thấp, diện tích đất canh tác tại nhiều nước bị thu hẹp trong khi nhu cầu luôn đứng ở mức cao. 2.4. Những cơ hội và thách thức của các DN xuất khẩu nông sản xét trên góc độ quản trị rủi ro giá cả hàng hóa khi gia nhập WTO 2.4.1 Cơ hội: Do giá cả các mặt hàng thế giới luôn biến động mà Việt Nam là nước XKNS lớn, vì vậy, sẽ gặp rất nhiều rủi ro nhất là rủi ro biến động giá. Đây chính là cơ hội để các DN tận dụng để san sẻ rủi ro và đầy rủi ro ra thị trường thế giới. Bằng cách học tập kinh nghiệm, tham gia vào thị trường thế giới, thực hiện các công cụ phòng ngừa rủi ro biến động giá mà các nước trên thế giới đã từng làm sẽ giúp cho các DN giảm thiểu rủi ro và có thể quản trị tốt khi có những biến động bất thường xảy ra. Triển vọng tiếp cận thị trường xuất khẩu của các DN XKNS cũng tốt hơn do vị thế mới của Việt Nam trong WTO và Việt Nam sẽ được tham gia vòng đàm phán Doha để bảo vệ quyền lợi về nông nghiệp trong đó có các sản phẩm nông sản. Thị trường nội địa của Việt Nam cũng sẽ phát triển, hệ thống phân phối mở rộng, thuận lợi hơn cho tiêu thụ nông sản. Điều này không chỉ có lợi cho các DNXKNS nói riêng mà còn cho cả những DN hoạt động có liên quan đế nông nghiệp nói chung. Am hiểu hơn môi trường kinh doanh quốc tế và có cơ hội để trang bị kiến thức tài chính, từ đó có thể áp dụng và xây dựng cho mình một chương trình quản trị rủi ro. Cơ hội lớn nhất chính là sự quan tâm, môi trường pháp lý và chính sách đối với nông nghiệp nói chung và nông sản nói riêng minh bạch và ổn định hơn, do vừa xuất phát từ nhu cầu phát triển của Việt Nam, vừa phù hợp với các cam kết của WTO. Điều này đồng nghĩa với việc Nhà nước sẽ điều chỉnh chiến lược, quy hoạch phát triển nông sản xuất khẩu theo hướng thị trường bền vững hơn. Đây là điều quan trọng, là bước đệm thúc đẩy và tạo điều kiện cho các DN phát triển. Bởi vì nhiều chiến lược, chủ trương trong lĩnh vực XKNS cho đến nay vẫn chưa thực sự theo hướng thị trường hoặc tôn trọng các quy luật của thị trường. Trong thời gian tới, khi thị trường phát triển thì DN cũng có cơ hội phát triển. 2.4.2. Thách thức Rủi ro do biến động về giá hàng hóa nông sản không chỉ có các DN sản xuất, XKNS Việt Nam chịu ảnh hưởng mà còn có ở các nước khác. Tuy nhiên, trên thực tế các DN Việt Nam vẫn chưa biết cách phòng ngừa và quản trị rủi ro cho mình. Hiện tại, Nhà nước đã xây dựng, cho triển khai và áp dụng một số công cụ phòng ngừa rủi ro nhưng những công cụ này quá mới mẻ và xa lạ đến với các DN. Một phần là do các DN còn thờ ơ, ngại không biết cách tự phòng ngừa và quản trị rủi ro, phần khác là do thị trường các sản phẩm phái sinh để quản trị rủi ro giá cả còn chưa phát triển và chưa được ứng dụng, sử dụng rộng rãi ở Việt Nam, một phần là do năng lực tài chính và kiến thức không được trang bị. Chính điều này là một thách thức lớn khi chúng ta giao thương trên thương trường quốc tế đặc biệt là phải cạnh tranh với các nước đã có kinh nghiệm về phòng ngừa rủi ro và đã phát triển thành công thị trường các công cụ phòng ngừa rủi ro giá cả hàng hóa. Khi gia nhập WTO, theo quy tắc, chính phủ không được hoặc hạn chế tối đa những can thiệp trực tiếp vào quá trình buôn bán nông sản, rủi ro của các nhà XKNS và nông dân không thể đẩy vào tay chính phủ và càng không thể chuyển từ tay người này sang tay người khác khi mà rủi ro vẫn còn quanh quẩn trong phạm vi đất nước. Vì vậy, các nhà XKNS cần phải học hỏi và xây dựng cho mình một chương trình quản trị rủi ro đồng bộ như các nước tiên tiến đã áp dụng. Thực hiện các cam kết WTO cũng có nghĩa là Nhà nước giảm bớt trợ cấp cho nông nghiệp và mở cửa thị trường cho hàng hóa nông sản. Đây cũng là một triển vọng cho XKNS. Tuy nhiên, điều này cũng đồng nghĩa với thách thức lớn khi các biến động về giá, tác động chính sách, rào cản kĩ thuật, khiếu kiện thương mại trên thị trường quốc tế sẽ tác động trực ti

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfBai hoan chinh.pdf
  • pdfPhu luc 1.pdf
  • pdfPhu luc 2.pdf
Tài liệu liên quan