Vốn đầu tư là yếu tố vật chất trực tiếp quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ, cải thiện môi trường. Nhận thức được tầm quan trọng này, nên trong chiến lược 10 năm cũng như kế hoạch 5 năm, Đảng và Nhà nước đều đưa ra mục tiêu này và được coi là một trong mười mục tiêu tổng quát nhất. Trong thời gian qua, tỷ lệ huy động vốn đầu tư so với GDP tăng đều qua các năm: năm 2001 là 34%; năm 2002 là 34.3%; năm 2003–35.8%; năm 2004 là 36.4%, năm 2005 là 38.4% và 2007 ước đạt 40.6% tăng 0.6% so với kế hoạch. Đây là mức cao so với nhiều quốc gia khác. Điều này đã chứng minh rằng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam là chủ yếu do tăng mạnh vốn đầu tư.
47 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1551 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và đánh giá chung về cơ cấu đầu tư ở Việt Nam trong giai đoạn 2001-2007, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dịch chuyển về cơ cấu nguồn vốn đầu tư của Việt Nam trong thời gian qua.
2.2 Thực trạng về cơ cấu của vốn đầu tư
2.2.1 Quy mô và cơ cấu vốn đầu tư.
Có nhiều cách phân loại cơ cấu vốn đầu tư khác nhau. Cơ cấu vốn đầu tư thể hiện quan hệ tỷ lệ giữa từng loại vốn trong tổng vốn đầu tư xã hội, vốn đầu tư của doanh nghiệp hay một dự án. Dưới đây, chúng ta sẽ xem xét cơ cấu vốn đầu tư của Nhà nước ta trong thời gian qua cho các hoạt động chính sau: hoạt động xây dựng cơ bản, công tác nghiên cứu và triển khai khoa học và công nghệ, vốn đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực.
* Cơ cấu vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng và xây dựng cơ bản.
Đầu tư xây dựng cơ bản (ĐTXDCB) là hoạt động đầu tư nhằm tạo ra các công trình xây dựng theo mục đích của người đầu tư, là lĩnh vực sản xuất vật chất tạo ra các tài sản cố định và tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội. ĐTXDCB là một hoạt động kinh tế.ĐTXDCB của nhà nước có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Trong những năm qua nhà nước đã giành hàng chục ngàn tỷ đồng mỗi năm cho ĐTXDCB. ĐTXDCB của nhà nước chiếm tỷ trọng lớn và giữ vai trò quan trọng trong toàn bộ hoạt động ĐTXDCB của nền kinh tế ở Việt Nam. Nhà nước luôn dành khoảng hơn 30% tổng chi ngân sách của mình đầu tư cho lĩnh vực đầu tư phát triển mà trong đó chủ yếu là vào ĐTXDCB. Hoạt động ĐTXDCB của nhà nước đã tạo ra nhiều công trình, nhà máy, đường giao thông… quan trọng, đưa lại nhiều lợi ích kinh tế xã hội thiết thực.
* Cơ cấu vốn đầu tư cho khoa học công nghệ.
Trong quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế hiện nay, khoa học công nghệ đang trở thành yếu tố then chốt cho sự phát triển của nền kinh tế cũng như của từng doanh nghiệp. Cùng với đà tăng lên của các loại vốn đầu tư, vốn đầu tư từ ngân sách của nhà nước cho lĩnh vực khoa học, công nghệ cũng tăng lên tuy nhiên quy mô ở mức độ rất nhỏ. Năm 2002 đạt khoảng gần 300 tỷ đồng chiếm 2% tổng vốn chi ngân sách Nhà nước, năm 2004 đã tăng lên nhưng cũng chưa đầy 4000 tỷ đồng tuy vậy tỷ trọng cơ cấu trong tổng chi ngân sách Nhà nước dành cho Khoa học, công nghệ lại giảm đi, chỉ còn khoảng hơn 1%.
* Cơ cấu vốn đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực.
Đào tạo nguồn nhân lực có vai trò vô cùng quan trọng trong sự phát triển của doanh nghiệp nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Nguồn nhân lực là nhân tố không thể thiếu là lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội. Vì vậy công tác đầu tư cho đào tạo nguồn nhân lực rất cần được quan tâm chú trọng. Trong thời gian vừa qua, đầu tư của ngân sách Nhà nước liên tục tăng lên. Nếu năm 2001 chỉ đạt khoảng hơn 15000 tỷ đồng, năm 2003 đạt khoảng 24000 tỷ đồng chiếm khoảng 16.4% tổng chi ngân sách thì năm 2005 là 42.943 tỷ đồng; năm 2006 - 54.789 tỷ đồng; năm 2007 - 66.770 tỷ đồng chiếm gần 20% tổng chi ngân sách Nhà nước.
2.2.2 Đánh giá những sự dịch chuyển theo cơ cấu vốn đầu tư trên.
Qua xu hướng trên, ta thấy, Nhà nước ta đã và đang có những chuyển biến nhất định trong việc đầu tư cho các lĩnh vực XDCB, chi cho khoa học công nghệ và giáo dục đào tạo. Điều đó được thể hiện trước hết ở sự tăng lên ở quy mô của vốn đầu tư và bên cạnh đó là sự dịch chuyển cơ cấu đầu tư ở một số lĩnh vực ví dụ như giáo dục đào tạo. Năm 2008, đầu tư của ngân sách Nhà nước cho giáo dục đào tạo vẫn tiếp tục tăng lên, dự kiến là 72.520 tỷ đồng. Việc nâng tỷ lệ chi cho giáo dục đào tạo lên tới 20% tổng chi ngân sách Nhà nước sớm 3 năm so với mục tiêu đề ra là một cố gắng lớn, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước khi thực hiện Nghị quyết 05/2005 của Chính phủ. Tuy vậy, vẫn có một số vấn đề đáng bàn về cơ cấu của các loại vốn đầu tư này trong ngân sách Nhà nước.
* Về vốn ĐTXDCB : Vốn dành cho ĐTXDCB của nhà nước cũng chiếm tỷ trọng quan trọng trong tổng vốn ĐTXDCB nói chung. Điều này thể hiện năng lực huy động vốn khu vực ngoài nhà nước và thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho ĐTXDCB còn yếu. Nhà nước vẫn còn bao cấp khá nặng trong ĐTXDCB. Tổng vốn dành cho ĐTXDCB có tăng nhưng khó tạo ra sự phát triển đột phá nếu nguồn vốn đầu tư nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng quá lớn trong tổng đầu tư xã hội. Trong khi đó, ĐTXDCB của Nhà nước vẫn còn hướng tới những lĩnh vực không đáng đầu tư, những lĩnh vực mà có thể để cho khu vực tư nhân hay đầu tư nước ngoài thực hiện sẽ có hiệu quả hơn ví dụ sản xuất đường ăn, xi măng, sắt thép… Đầu tư còn sai, dàn trải, khép kín và những tiêu cực trong việc sử dụng vốn đầu tư, sử dụng vốn đầu tư lãng phí, không hiệu quả, tham nhũng, thất thoát. * Về đầu tư cho khoa học, công nghệ: tỷ lệ 2% trong tổng vốn chi ngân sách Nhà nước là một tỷ lệ quá nhỏ, không những vậy, tỷ lệ này lại còn đang có xu hướng giảm xuống. Trong khi lĩnh vực khoa học công nghệ ở nước ta còn vô cùng yếu kém, nghèo nàn và lạc hậu. Theo báo cáo “Tầm nhìn 2020 của Bộ khoa học, Công nghệ và môi trường” (năm 2001) trình độ năng lực KHCN ở Việt Nam đứng ở vị trí rất thấp so với các nước trên thế giới và khu vực. Đặc biệt, năng lực công nghệ ở Việt Nam thua kém khá xa với các nước trong khu vực. Kết quả điều tra tính toán của diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) cho biết: Năm 2000, chỉ số công nghệ ở Việt Nam là -0.51 thì Trung Quốc là 0.35; Philipin là 0.54; Malaixia là 1.08; Singapore là 1.95. Hay heo số liệu điều tra năm 2005 trong công nghiệp, tỷ trọng doanh nghiệp có công nghệ cao mới chiếm 20.6%, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực: Philipin là 29.1%, Malayxia là 51.1%, Singapore là 73%. Không những đầu tư còn nhỏ bé, nhiều cơ chế chính sách của ngành đưa ra lại chưa thực sự phù hợp. Về nhân lực hoạt động trong lĩnh vực này, chế độ đãi ngộ chính sách đối với cán bộ khoa học chưa thực sự là đòn bẩy khuyến khích cán bộ khoa học tận tâm, tận lực với nghề trong khi mức lương vừa thấp, môi trường làm việc và nghiên cứu không tốt. Tất cả đang là trở ngại cho việc thay đổi bộ mặt của ngành khoa học và công nghệ ở nước ta.
* Ngay cả trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo: Trên thực tế, tính theo thu nhập trên đầu người, Việt Nam có lẽ là nước chi cho giáo dục đào tạo vào loại cao của thế giới: trung bình hàng năm khoảng 8% GDP/năm, ở Mỹ mới chỉ là 6%, Trung Quốc là 2,7%..; nếu tính theo thu nhập của hộ gia đình tỷ lệ chi cho giáo dục ở nước ta còn cao hơn nữa. Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo năm 2000 là 11,5%, năm 2005 là 13%, năm 2007 là 20% (nguồn TCTK và BKHĐT), nhiều quốc gia mơ tưởng chỉ số này dành cho giáo dục của họ. Gần đây còn có nhiều quyết sách khác về tài chính – kể cả việc cho sinh viên vay tiền ngân hàng để chi cho học tập – hỗ trợ việc phát triển giáo dục. Nghĩa là cả nước nỗ lực rất lớn cho phát triển giáo dục nói riêng và phát triển nguồn nhân lực nói chung. Tuy vậy, lĩnh vực giáo dục và đào tạo ở Việt Nam vẫn còn gặp rất nhiều bất cập, khó khăn. Kinh phí đầu tư tăng lên cũng mới chỉ đáp ứng được 70% nhu cầu tối thiểu cho lĩnh vực này và khoảng cách này sẽ còn là lớn hơn nữa nếu chúng ta muốn áp dụng các điều kiện học tập tốt hơn cho học sinh. Do đó, thời gian qua, các chủ trương như xã hội hoá giáo dục, thương mại hoá giáo dục đang được hô hào nhằm tăng đóng góp của người dân cho giáo dục, đào tạo tuy vậy vẫn còn đang vấp phải nhiều phản đối, dư luận từ phía xã hội.
2.3 Thực trạng về cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành.
2.3.1 Quy mô và cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành.
Bảng 8: Vốn đầu tư toàn xã hội phân theo ngành kinh tế
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Tổng số
170496
200145
239246
290927
343135
398900
Nông, lâm, ngư nghiệp
16142
17584
20220
22963
25749
29843
Trong
đó
Nông nghiệp và lâm nghiệp
13629
14605
17077
18113
20079
22123
Thuỷ sản
2513
2934
3143
4850
5670
7720
Công nghiệp và xây dựng
72250
84734
98794
124372
146104
163831
Trong đó
Công nghiệp
63204
74244
87286
113175
132902
148588
Xây dựng
9046
10490
11508
11197
13202
15243
Dịch vụ
82104
97827
120232
143592
171282
205226
Nguồn: T ính theo Niên giám thống kê 2006
Bảng 9: Cơ cấu đầu tư theo ngành, thời kỳ
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Tổng số
100.00
100.00
100.00
100.00
100.00
100.00
Nông, lâm, ngư nghiệp
9.46
8.78
8.45
7.89
7.50
7.48
Công nghiệp, xây dựng
42.38
42.34
41.29
42.75
42.58
41.07
Dịch vụ
48.16
48.88
50.26
49.36
49.92
51.45
Nguồn: T ính theo Niên giám thống kê 2006
Trong 6 năm vừa qua, từ năm 2001-2006, tổng số vốn đầu tư vào khu vực nông, lâm, ngư nghiệp đạt khoảng 132.5 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 8.26% tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Tổng số vốn đầu tư vào khu vực công nghiệp, xây dựng 690.1 nghìn tỷ, chiếm tỷ trọng khoảng 42.07 % tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hội. Nhưng có sự thu hút mạnh mẽ nhất về vốn đầu tư trong những năm gần đây phải kể đến là khu vực dịch vụ. Khu vực này đã thu hút được tới hơn 820 nghìn tỷ đồng trong 6 năm vừa qua. Tính trung bình, năm sau số vốn đầu tư thu hút vào khu vực dịch vụ tăng hơn năm trước đó là 20% và luôn là khu vực thu hút vốn đầu tư chiếm tỷ trọng cao nhất trong cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế của toàn xã hội, chiếm khoảng 50% tổng số vốn đầu tư toàn xã hội, năm 2006, con số này lên tới 51.45%.
Biểu 3: Cơ cấu đầu tư theo ngành, thời kỳ 1996- 2005
2.3.2 Sự dịch chuyển cơ cấu đầu tư theo ngành giai đoạn 2001-2007.
Như vậy, có thể thấy, cơ cấu đầu tư phát triển theo ngành kinh tế trong thời gian qua. Từ năm 2001-2007 dịch chuyển theo hướng tăng dần tỷ trọng đầu tư cho các ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng đầu tư cho ngành nông, lâm, ngư nghiệp. Tỷ trọng vốn đầu tư cho khu vực nông, lâm, ngư nghiệp đã giảm liên tiếp từ 9.46% năm 2001 xuống 7.5% năm 2005 và 7.48% năm 2006. Như vậy, xét về số tuyệt đối, tổng số vốn đầu tư phát triển nông, lâm, ngư nghiệp vẫn tăng nhưng tỷ trọng của chúng trong tổng vốn đầu tư phát triển lại giảm. Về lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, tổng số vốn đầu tư vào lĩnh vự này trong thời gian qua tăng lên rất nhanh chóng, tuy vậy tỷ trọng đầu tư của khu vực này trong cơ cấu đầu tư theo ngành kinh tế trong 6 năm vừa qua không có sự thay đổi rõ nét, luôn sấp sỉ ở con số 42%. Tuy vậy, nếu so sánh tỷ trọng vốn đầu tư trong giai đoạn này, từ năm 2001-2006 so với giai đoạn trước đó từ năm 1996-2000 thì ta thấy đã có sự thay đổi rõ rệt. Giai đoạn trước đó, tỷ trọng vốn đầu tư vào khu vực công nghiệp và xây dựng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội chỉ chiếm khoảng 36.1%. Như vậy, sự giảm đi về mặt tỷ trọng của khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trong thời gian qua chủ yếu nhường chỗ cho sự tăng lên tỷ trọng đầu tư của khu vực dịch vụ trong tổng số vốn đầu tư phát triển. Tỷ trọng vốn đầu tư trong lĩnh vực dịch vụ chiếm khoảng 48.16% năm 2001 đã tăng lên tới 50.26% năm 2003 và 51.45% năm 2006 và luôn giữ ở vị trí cao nhất.
Có thể thấy rằng sự dịch chuyển cơ cấu đầu tư theo ngành trong thời gian qua là hợp lý, phù hợp với chủ trương, chiến lược của Nhà nước ta và đã tạo động lực cho sự phát triển và sự chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá. Trong giai đoạn vừa qua Việt Nam luôn luôn là quốc gia có tốc độ tăng trưởng GDP cao. Đứng trong khu vực Đông Á, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đứng thứ 2 chỉ sau Trung Quốc. Các lý thuyết và học thuyết kinh tế hiện đại đã nghiên cứu và giải đáp thành công mối quan hệ nhân quả giữa đầu tư và phát triển kinh tế và đã chứng minh được rằng, đầu tư là chìa khóa được cụ thể hoá trong mối tương quan giữa tăng trưởng vốn đầu tư và tăng trưởng GDP. Như vậy, đóng góp vào sự tăng trưởng GDP này đó chính là do có sự thay đổi trong vốn đầu tư và đặc biệt là sự đóng góp, sự thay đổi cơ cấu đầu tư phân theo ngành kinh tế.
Do chiếm tỷ trọng lớn trong GDP (chiếm khoảng 40%) và có tốc độ tăng giá trị tăng thêm cao nhất khoảng 10.3%, do đó trong những năm qua công nghiệp và xây dựng vẫn là khu vực có đóng góp lớn nhất vào tốc độ tăng trưởng chung, chiếm tới 49,7% hay 4,2 điểm phần trăm tốc độ tăng trưởng GDP. Khu vực nông- lâm- thủy sản chịu nhiều tác động bất lợi của thời tiết, dịch cúm gia cầm và biến động của thị trường; tốc độ tăng trưởng của khu vực nông- lâm- thủy sản trong những năm qua chỉ đạt khoảng 3.6% đóng góp 9,8% hay 0,8 điểm phần trăm tốc độ tăng trưởng GDP. Giá trị tăng thêm của khu vực dịch vụ là khoảng 7.38% trong 7 năm qua. Trong đó phải kể đến 3 năm gần đây, tốc độ tăng giá trị của khu vực này đã đạt 8.48% năm 2005, đây được coi là năm khu vực dịch vụ có mức tăng trưởng cao nhất kể từ trước và lần đầu tiên cao hơn mức tăng trưởng GDP của toàn bộ nền kinh tế và năm 2007 đã đạt được 8.6%.
Đầu tư có mối quan hệ chặt chẽ với chuyển dịch cơ cấu. Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy nếu muốn tốc độ phát triển kinh tế tăng cao (9-10%) thì phải tăng cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do hạn chế nhiều mặt, để đạt tốc độ tăng trưởng từ 5-6% là rất khó khăn. Như vậy chính đầu tư đã quyết định chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Bảng 10: Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) phân theo ngành kinh tế
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
GDP
6.89
7.08
7.34
7.79
8.44
8.17
8.44
Nông, lâm, ngư nghiệp
2.89
4.17
3.62
4.36
4.02
3.3
3.0
Công nghiệp, xây dựng
10.39
9.48
10.48
10.22
10.69
10.37
10.4
Dịch vụ
6.10
6.54
6.45
7.26
8.48
8.29
8.6
Nguồn: Niên giám thống kê 2006 (tr69)
2.4 Thực trạng về cơ cấu đầu tư phát triển theo vùng, lãnh thổ.
2.4.1 Quy mô và cơ cấu đầu tư phát triển theo vùng.
Ở nước ta hiện nay, khi phân tích cơ cấu vùng, lãnh thổ, thường chia làm 7 vùng kinh tế gồm Trung du và miền núi phía Bắc, Đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung bộ và duyên hải miền Trung, Tây nguyên, đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ.Trong tất cả các vùng, lãnh thổ đó, khu vực kinh tế đồng bằng Bắc Bộ và Đông Nam Bộ luôn là 2 khu vực có tỷ lệ thu hút vốn đầu tư cao nhất cả nước. Vùng Đồng Bằng Bắc Bộ trong giai đoạn từ 2001-2005 tỷ lệ vốn đầu tư vào khu vực chiếm khoảng 27.7% vốn đầu tư toàn quốc và vùng Đông Nam bộ là hơn 30%. Như vậy chỉ tính riêng 2 khu vực này đã chiếm quá nửa tỷ trọng vốn đầu tư vào nước ta.
* Về nguồn vốn từ Nhà nước: Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông Cửu Long cũng chính là những vùng tiếp nhận vốn đầu tư nhà nước nhiều nhất trong thời gian qua. Tuy nhiên trong các nguồn vốn đầu tư nhà nước các vùng lãnh thổ kém phát triển hơn thường nhận đưoc tỷ trọng đầu tư lớn hơn từ ngân sách nhà nước. Với các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng cơ sở hạ tầng giao thông, thuỷ điện nước còn kém thì nhà nước thực hiện các chính sách hỗ trợ bằng nguồn vốn ngân sách nhằm tạo điều kiện tốt hơn cho việc thu hút các nguồn vốn khác đến đầu tư.
Bảng 11: Cơ cấu đầu tư theo vùng, lãnh thổ kinh tế
Loại vùng
1996-2000
2001-2004
1996-2004
Trung du và vùng núi phía Bắc
7.00
7.10
7.05
Đồng Bằng Bắc Bộ
28.30
27.70
28.00
Bắc Trung Bộ và duyên hải mi ền Trung
16.40
17.40
16.90
Tây Nguyên
4.10
4.00
4.05
Đông Nam Bộ
31.30
30.60
30.95
Đồng Bằng sông Cửu Long
12.90
13.20
13.05
Nguồn: Ngô Doãn Vịnh “ Những vấn đề chủ yếu của đầu tư phát triển” NXB Chính trị Quốc Gia, 2006
Bảng 12: Phân bổ vốn đầu tư nhà nước theo vùng lãnh thổ 2001-2005
Tổng vốn đầu tư Nhà nước
( nghìn tỷ đồng)
Tỷ trọng trong tổng đầu tư trên toàn quốc
(%)
Đầu tư từ ngân sách Nhà nước (nghìn tỷ đồng)
Tỷ trọng đầu tư ngân sách Nhà
nước trong tổng đầu tư Nhà nước
(%)
Tổng
498.1
100
211.7
42.5
Trung du và miền núi phía Bắc
48.4
9.7
27.7
57.2
Đồng bằng sông Hồng
115.1
23.1
43.5
37.8
Bắc Trung Bộ
47.0
9.4
26.0
55.3
Duyên Hải Miền Trung
57.7
11.6
24.1
41.8
Tây Nguyên
25.4
5.1
10.0
39.4
Đồng Bằng sông Cửu Long
81.0
16.3
37.1
45.8
Đông Nam Bộ
123.5
24.8
43.3
35.1
Nguồn: Viện nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương.
* Về nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài: cơ cấu đầu tư FDI theo vùng lãnh thổ cũng rất chênh lệch nhau, chủ yếu tập trung vào vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và phía Bắc, các tỉnh vùng sâu, vùng xa tỉ trọng rất thấp. Cụ thể, số vốn thực hiện tại các tỉnh thuộc vùng Đông Nam bộ chiếm 61,6%, khu vực Đông Bắc bộ 7,1%, đồng bằng sông Hồng 5,3%, Tây Nguyên 5,6%, khu vực Tây Bắc chỉ có… 0,4%. Các địa phương như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai, Hải Phòng, Vĩnh Phúc, Vũng Tàu...là những địa phương có nhiều dự án ĐTNN tìm đến. Cụ thể:
- Các tỉnh phía Bắc thu hút 2220 dự án với vốn đầu tư khoảng 24 tỷ USD từ năm 1988 đến 2007 chiếm 26% về số dự án, 19% về vốn đăng ký cả nước và 24% tổng vốn thực hiện của cả nước. Hà nội chiếm 51% vốn đăng ký và 50% vốn thực hiện cả vùng, tiếp đến là Hải Phòng, Hải Dương, Quảng Ninh.
- Các tỉnh phía Bắc và Nam Trung Bộ trong đó có Quảng Nam và Đà Nẵng đặc biệt là Phú Yên hiện đang đứng đầu các tỉnh miền Trung về thu hút vốn đầu tư nước ngoài tuy nhiên còn dưới mức yêu cầu và tiềm năng.
- Các tỉnh phía Nam từ Ninh Thuận trở vào thu hút 5452 dự án với tổng vổn 46.8 tỷ USD vốn thực hiện đạt 15.68 tỷ USD chiếm 63% về số dự án 56% về vốn đăng ký và 51% về vốn thực hiện của cả nước. Đồng bằng sông Cửu Long thu hút vốn đầu tư còn thấp so với các vùng khác. Chỉ chiếm 3.6% số dự án 4.4% về vốn đăng ký và 3.2% về vốn thực hiện của cả nước.
Như vậy có thể thấy rằng vốn đầu tư được phân bố theo các vùng kinh tế, nhưng chủ yếu trong mỗi vùng miền: miền Bắc, miền Trung và miền Nam, số vốn đầu tư vẫn chỉ tập trung vào một số tỉnh nhất định đó là những vùng kinh tế trọng điểm:
- Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ gồm 8 tỉnh: thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh. Vùng KTTĐ Bắc Bộ có những lợi thế quan trọng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của cả nước, là nơi tập trụng nhân lực dồi dào, trình độ dân trí cao; kết cấu hạ tầng khá nhất trong cả nước.
- Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung gồm 5 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương là Đà nẵng, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi và Bình Định.
- Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam gồm thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà-Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Tây Ninh, Bình Phước và Long An.
Bảng 13 : Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội các vùng kinh tế trọng điểm (KTTĐ) thời kỳ 2001-2005
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
KTTĐ Bắc Bộ
Số vốn
38982.3
42641.0
48125.8
54471.5
61832.2
Cơ cấu
24.11
24.08
23.39
25.76
28.00
KTTĐ Miền Trung
Số vốn
10393.6
11643.0
14300.2
16791.5
18971.0
Cơ cấu
6.43
6.57
6.95
7.94
8.59
KTTĐ Miền Nam
Số vốn
51329.6
59343.0
72949.4
87006.8
94855.1
Cơ cấu
31.74
33.5
35.45
41.14
42.97
Toàn quốc
161713.2
177082.0
205782.3
211475.3
220762.0
Nguồn: Ban nghiên cứu phát triển vùng- Viện chiến lược phát triển, Bộ kế hoạch đầu tư
2.4.2 Sự dịch chuyển cơ cấu đầu tư theo vùng, lãnh thổ giai đoạn 2001-2007
Như vậy, có thể thấy trong thời gian cơ cấu đầu tư đã có những bước dịch chuyển theo hướng tương đối tích cực, theo hướng khai thác lợi thế từng vùng để phát triển. Đó là tập trung vào những vùng KTTĐ, tuy vậy cũng đang có bước dịch chuyển tích cực với các vùng khác, những vùng lân cận, vùng sâu, vùng xa.
Nguyên nhân có sự dịch chuyển trên trong thời gian qua:
Có thể nói rằng, việc phân chia vốn đầu tư vào các vùng về quy mô và cơ cấu như thế nào là xuất phát từ rất nhiều những nguyên nhân khác nhau: đó là cơ chế và chính sách của Nhà nước, nguồn lực của địa phương, điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, truyền thống sản xuất cũng như những thế mạnh riêng khác của vùng…
- Đối với các vùng kinh tế trọng điểm: Đây là những vùng, lãnh thổ được xem như là có tính chất động lực của cả nước. Và là những vùng có lợi thế so sánh đặc biệt so với các vùng khác.Trong đó, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có những lợi thế quan trọng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của cả nước, là nơi tập trung nhân lực dồi dào, trình độ dân trí cao; kết cấu hạ tầng khá nhất trong cả nước… hay như vùng KTTĐ miền Nam là vùng kinh tế năng động nhất nước, đi đầu trong cả nước về thu hút vốn đầu tư và phát triển thị trường xuất khẩu. Do đó các vùng này luôn thu hút được lượng lớn FDI đổ vào, số vốn FDI vào đây chiếm tới 84% tổng vốn đầu tư. Tuy nhiên, xu hướng thu hút FDI đang từng bước lan ra các vùng khác ngoài cùng trọng điểm.
- Bên cạnh việc tăng cường đầu tư cho các vùng kinh tế trọng điểm. Nhà nước trong thời gian qua đã có những cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư cho các vùng chậm phát triển, các vùng đặc biệt khó khăn. Nhiều cơ chế, chính sách đối với vùng miền núi nói chung và khu vực khó khăn đã được ban hành có tác động tích cực và đem lại kết quả tương đối tốt. Tại các vùng khó khăn trong những năm gần đây khi có các chương trình135, chương trình xoá đói giảm nghèo, chương trình cơ sở hạ tầng nông thôn.... đã hình thành được nhiều trung tâm cụm xã, hàng trăm km đường giao thông, nhiều trường học, cơ sở y tế... được xây dựng và được cải thiện đáng kể.
- Đối với các vùng lãnh thổ, chúng ta đã thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách đối với các vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng cơ sở hạ tầng giao thông thuỷ lợi, điện nước, còn yếu kém...nhằm tạo điều kiện tốt hơn cho việc thu hút các nguồn vốn khác đến đầu tư.
- Cơ chế, chính sách cởi mở đối với các cửa khẩu quốc tế đã tạo điều kiện cho một số cửa khẩu trở thành khu kinh tế cửa khẩu có sự phát triển vượt bậc, góp phần quan trọng làm thay đổi bộ mặt kinh tế xã hội ở khu vực biên giới.
2.5 Đánh giá về thực trạng cơ cấu đầu tư của nước ta giai đoạn 2001-2007
2.5.1 Những kết quả đạt được
Có thể thấy rằng, trong thời gian qua, cơ cấu đầu tư thay đổi theo hướng hợp lí hơn, phù hợp hơn với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội được thể hiện qua một số mặt như sau:
2.5.1.1 Cơ cấu đầu tư theo nguồn vốn ngày càng đa dạng phong phú hơn
Trong thời gian qua, Nhà nước ta đã áp dụng nhiều chính sách và cơ chế quản lý mới, có nhiều cố gắng trong việc huy động các nguồn vốn đầu tư phát triển thuộc mọi thành phần kinh tế, cả trong nước và ngoài nước, nhất là nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Do đó, vốn đầu tư phát triển hàng năm không ngừng tăng, các nguồn vốn huy động tham gia đầu tư ngày càng đa dạng. Nếu trước đây, nguồn vốn cho đầu tư phát triển chủ yếu là của Nhà nước thì bây giờ tất cả các thành phần kinh tế đều tham gia. Kết quả là làm cho bộ mặt đất nước có nhiều thay đổi, các vùng kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp, khu chế xuất được hình thành; các ngành công nghiệp then chốt của đất nước được phát triển; cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải ngày được mở rộng... Hạ tầng xã hội đã được chú trọng đầu tư và được cải thiện đáng kể, tạo ra tiền đề cần thiết và quan trọng trong thời kỳ phát triển mới, đẩy nhanh tốc độ phát triển của các ngành kinh tế.
* Cơ chế bao cấp từng bước đã được hạn chế, xóa bỏ.
Kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay, bộ mặt kinh tế đất nước đã có nhiều thay đổi và chuyển biến rõ rệt. Những chuyển biến, thay đổi đó đặc biệt được phát huy tác dụng và thẩy rõ nét nhất trong mấy năm gần đây. Cơ chế bao cấp được xoá bỏ, doanh nghiệp tư nhân được thừa nhận, quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được thử nghiệm và đã đang đi vào thực hiện, tạo thêm cơ hội cho kinh tế phát triển. Chúng ta đã chuyển từ hình thức cấp phát vốn sang cho vay tín dụng đầu tư đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn. Nhà nước còn hỗ trợ về lãi suất cho các dự án và các doanh nghiệp tự vay tự trả, tự chịu trách nhiệm về việc sử dụng vốn đầu tư. Xoá bỏ chính sách phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, chính sách giành đặc quyền đặc lợi cho DNNN, ban hành luật đầu tư chung, luật doanh nghiệp và chính thức có hiệu lực vào năm 2006 đã mang lại những thay đổi cơ bản cho môi trường đầu tư và kinh doanh ở Việt Nam, thể hiện rõ quyết tâm của chính phủ trong việc chủ động hội nhập quốc tế.
* Nguồn vốn trong nước được sử dụng ngày càng nhiều và có hiệu quả, đặc biệt là vốn trong dân.
Nhận thấy được những ưu thế rất lớn từ việc huy động vốn của khu vực dân cư và tư nhân so với các nguồn vốn Nhà nước, vốn vay ngân hàng hay vốn đầu tư từ nước ngoài, trong thời gian vừa qua, nguồn vốn tiết kiệm từ trong dân được huy động mạnh mẽ. Nguồn vốn này có tiềm năng rất lớn, bên cạnh đó nguồn vốn này lại không chịu ảnh hưởng từ bên ngoài nhất là trong điều kiện môi trường bên ngoài đang biến động rất mạnh mẽ, gay gắt. Một ưu thế khác nữa của loại nguồn vốn này là nguồn vốn này có chủ sở hữu thật sự và cụ thể, lãi suất đầu tư thấp, do vậy hiệu quả đầu tư cao hơn, cùng một lượng vốn sẽ tạo ra được tốc độ tăng trưởng cao hơn so với vốn Nhà nước.Trong thời gian vừa qua, khu vực kinh tế dân doanh liên tục phát triển vươn lên nhanh chóng đã tạo thành nền kinh tế với cơ cấu mới về chất. Kinh tế dân doanh trong nước đã đạt tỷ trọng trên 40%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài gần 20%; doanh nghiệp nhà nước gần 40%. Sự biến đổi về cơ cấu thành phần kinh tế như vậy, xét về mặt tổ chức quản lý nền kinh tế là thể hiện xu hướng tất yếu tiến bộ: Chuyển mạnh chức năng tích luỹ, đầu tư và điều hành sản xuất kinh doanh từ nhà nước sang khu vực kinh tế dân doanh. Kinh tế dân doanh đã được giải p
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34878.doc