Đề tài Thực trạng và giải pháp cho vấn đề tiêu thụ nông sản ở Việt nam

MỤC LỤC

PHẦN I 1

MỞ ĐẦU 1

PHẦN II: TỔNG QUAN ĐỀ TÀI 3

PHẦN III: Nội dung nghiên cứu 5

1. Những biến đổi, phát triển của thị trường tiêu thụ nông sản. 5

2. Những tồn tại trong tiêu thụ nông sản và nguyên nhân. 8

2.1. Những tồn tại trong tiêu thụ nông sản. 8

2.2. Các nguyên nhân. 10

3. Một số đề xuất nhằm thúc đẩy, phát triển, tiêu thụ nông sản. 12

3.1. Những căn cứ đề xuất 12

3.2. Các đề xuất nhằm thúc đẩy, phát triển thị trường tiêu thụ nông, sản phẩm. 15

PHẦN IV: KẾT LUẬN 29

DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO 30

 

 

doc31 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 15643 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp cho vấn đề tiêu thụ nông sản ở Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n là địa bàn rộng lớn nhưng sức mua lại hạn chế, nhất là sức mua các mặt hàng nông sản đã qua chế biến. Không phải là người dân không có nhu cầu tiêu dùng mặt hàng này, mà là thu nhập của họ quá thấp để có thể mua lại các sản phẩm mà chính họ đã làm ra. Thực tế, vào các siêu thị bán các mặt hàng chế biến từ nông sản, ta có thể dễ dàng thấy các mặt hàng , mẫu mã chẳng thua kém đồ ngoại nhập, nhưng chỉ mới qua khâu chế biến thôi mà giá cả đã quá xa vời đối với người nông dân. Vậy thì, liệu người nông dân có dám “chạm tay” vào các sản phẩm mình đã làm ra. Đến khi nào thu nhập của người nông dân được cải thiện để có thể được hưởng thụ những gì đáng ra phải thuộc về họ, ít nhất cũng là đầy đủ các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Thứ năm, năng lực chế biến nông sản thực phẩm và công nghệ bảo quản sau thu hoạch còn nhiều hạn chế, gây ra hiện tượng ế thừa giả, gây thất thu cho nông dân. Ta có thể thấy rõ điều này qua sự thua thiệt không đáng có về cả giá bán và chất lượng của các sản phẩm xuất khẩu. Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong việc đầu tư đổi mới, trang bị thêm một số thiết bị hiện đại ,nhưng vẫn phải thừa nhận rằng các sản phẩm xuất khẩu đã qua chế biến của ta còn có một khối lượng lớn chưa đạt được tiêu chuẩn gắt gao của thị trường thế giới, các sản phẩm đó hoặc không đạt tiêu chuẩn hoặc bị khách hàng ép giá, mua với giá rẻ hơn so với các sản phẩm cùng loại của các nước khác . Chính vì sự yếu kém này còn dẫn đến hậu quả bản thân công nghiệp chế biến cũng đang gặp ách tắc về tiêu thụ hàng hoá của mình, do vậy không đủ sức đóng vai trò kích thích phát triển tiêu thụ hàng hoá trong nông nghiệp. Thứ sáu, việc tiêu thụ nông sản còn gặp khó khăn về điều kiện giao lưu hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Yếu tố cơ bản trong điều kiện này là sự phát triển còn thấp kém của giao thông vận tải. Tuy đã có những cải thiện nhất định, nhưng hệ thống hạ tầng kĩ thuật nói chung, hệ thống giao thông nói riêng của chúng ta còn quá thấp so với yêu cầu khai thác các vùng có tiềm năng nông nghiệp và mở rộng giao lưu trao đổi hàng hoá. Ngoài ra các nơi diễn ra giao dịch hàng hoá như chợ, trung tâm thương mại còn chưa được đầu tư thoả đáng ,qui mô và điều kiện chưa đáp ứng được các yêu cầu trao đổi. Những tồn tại, ách tắc trong quá trình tiêu thụ nông sản đang là một trong những trở ngại lớn trong sự phát triển sản xuất nông nghiệp ở nước ta. Cần phải xác định được nguyên nhân trung tâm của các tồn tại trên, để từ đó có những giải pháp hữu hiệu và tức thời để đẩy nhanh, bền vững và có hiệu quả sản xuất nông nghiệp cũng như sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 2.2. Các nguyên nhân. Các nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trong tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp thì có nhiều, xét cả về mặt chủ quan và khách quan. Tuy nhiên qua quá trình phân tích những tồn tại trên, ta có thể đưa ra một số nhóm nguyên nhân chính như sau: * Nhóm nguyên nhân về sản xuất - chế biến: - Sản xuất nông nghiệp của nước ta vẫn còn mang nặng tính tự cung, tự cấp . - Cơ sở hạ tầng cho vùng nguyên liệu và chế biến nông sản chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn. - Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã có chuyển biến mới nhưng vẫn còn chậm và chưa rõ ràng, chưa thoát khỏi tính chất thuần nông, độc canh, tỷ suất hàng hóa còn thấp, cơ cấu sản xuất chậm biến đổi và chưa phát huy được lợi thế của các vùng sinh thái. Sản xuất nông nghiệp chưa thực sự gắn bó với công nghiệp chế biến. Ngành nghề dịch vụ trong nông thôn phát triển chậm, chưa hình thành được thế phân công lao động tại chỗ trong nông thôn. - Công nghệ sau thu hoạch nhìn chung đang ở trong tình trạng cũ kỹ, lạc hậu; chế biến tiêu hao nguyên liệu cao nhưng chất lượng thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu cả trong nước lẫn nước ngoài. Cơ cấu mặt hàng đơn điệu, không có sự khác biệt so với các nước trong khu vực nên bị thua thiệt và ít có lợi thế trong cạnh tranh trên thị trường. * Nhóm nguyên nhân về tiêu thụ và thị trường: - Thị trường nông sản bị thả nổi và không ổn định nên kém phát triển - Hiện nay nông sản xuất khẩu ở dạng thô chiếm tỉ lệ cao. Do vậy thị trường xuất khẩu của chúng ta tuy nhiều nhưng thiếu các bạn hàng lớn và không vững chắc. Nhiều mặt hàng phải xuất qua trung gian nên bị ép giá, hiệu quả không cao, mất lãi ròng, dẫn đến thu nhập của người sản xuất và xuất khẩu thấp. - Khả năng cạnh tranh của nông sản Việt nam chưa cao do chưa phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của thị trường và chất lượng thường kém hơn các sản phẩm cùng loại của các nước khác. Công tác nghiên cứu thị trường,xúc tiến thương mại, tiếp thị mở rộng thị trường còn nhiều yếu kém ,các doanh nghiệp lại không năng động trong quá trình tiếp xúc với thị trường. * Nhóm nguyên nhân về cơ sở hạ tầng: - Cơ sở hạ tầng ở đây trước hết là giao thông ,vận tải, nghĩa rộng hơn là các hệ thống chợ,trung tâm thương mại, giao dịch, các công trình thuỷ lợi. đây là các yếu tố hết sức quan trọng đối với đời sống và sản xuất, quyết định rất lớn đối với quá trình tiêu thụ nông sản, nhưng vẫn chưa có những chính sách đầu tư thoả đáng, vì vậy còn rất thiếu sự đồng bộ, lạc hậu. - Tuy cơ sở hạ tầng của nông thôn có cải thiện sau hơn 20 năm đổi mới, nhưng thực tế là còn nhiều khu vực còn thiếu các công trình cơ sở hạ tầng cơ bản. Sự thấp kém cơ sở hạ tầng này tập trung chủ yếu ở các xã Trung du, miền núi phía Bắc, khu IV cũ, Duyên hải miền Trung và Tây nguyên. * Nhóm nguyên nhân về hệ thống chính sách: - Hiện nay, có một số chính sách do nhà nước đề ra đã không còn phù hợp với điều kiện kinh tế mới, nhưng vẫn chưa được điều chỉnh, nhất là các chính sách về thị trường,tín dụng, về phát triển khoa học công nghệ,đào tạo nhân lực trong nông nghiệp ,nông thôn ; làm kìm hãm phát triển sản xuất nông nghiệp nói chung, tiêu thụ nông sản nói riêng. - Hệ thống quản lí Nhà nước còn nhiều bất cập, quan tâm nhiều đến chỉ đạo sản xuất , nhưng chưa làm tốt nhiệm vụ gắn sản xuất với thị trường, chưa tìm được những đầu ra ổn định và lâu dài cho tiêu thụ nông sản, chưa làm tốt công tác quản lí chất lượng nông sản hàng hoá,công tác tiếp thị sản phẩm. 3. Một số đề xuất nhằm thúc đẩy, phát triển, tiêu thụ nông sản. 3.1. Những căn cứ đề xuất * Xuất phát từ bối cảnh thị trường trong nước và quốc tế có những biến động to lớn trong những năm qua, ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là trong tiêu thụ nông sản. - Thị trường tiêu thụ trong nước: Nếu trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây, Nhà nước hoàn toàn bao tiêu sản phẩm, các Hợp tác xã sản xuất theo kế hoạch được Nhà nước giao, thì trong thời gian qua, thị trường nông sản có xu hướng gần như bị thả nổi, người nông dân phải tự lo liệu việc tiêu thụ hàng hoá sản xuất ra. Nhà nước đã đặt ra nhiều chính sách để hạn chế sự thả nổi trên, nhưng hầu hết các chính sách đều thiếu những luận chứng khoa học rõ ràng, đầy đủ, dẫn đến các chính sách chỉ có hiệu lực trong nhất thời. Điều này gây bất lợi cho cả người nông dân và cho cả phía Nhà nước, vì người nông dân trực tiếp chịu sự điều tiết tự phát của thị trường, bị thiệt thòi trong quá trình trao đổi, còn những mục tiêu định hướng của Nhà nước cũng không thu được kết quả cao. Đứng trước tình hình đó, muốn nền nông nghiệp tiếp tục phát triển và hoàn thiện, đòi hỏi Nhà nước, các nhà hoạch định chính sách phải có những định hướng chung, và cả những định hướng cụ thể cho nông sản ở từng vùng, dựa trên những phân tích dự báo thị trường cụ thể và khoa học. - Thị trường nông sản xuất khẩu: Cùng với quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, thương mại nông nghiệp Việt Nam cũng như thế giới đang có những sự vận động mới mẻ, đưa tới cho chúng ta cả nhưng cơ hội cũng như thách thức to lớn. Là quốc gia được thiên nhiên ưu đãi cho nhiều điều kiện phát triển một nền sản xuất nông nghiệp đa dạng, từ lương thực, thực phẩm, đến các loại nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, trong những năm vừa qua, ngành xuất khẩu nông sản đã có những bước tiến vượt bậc, trở thành một trong những ngành chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu nhập quốc dân, kim ngạch xuất khẩu tăng khá nhanh. Tuy nhiên, tốc độ tăng của giá trị xuất khẩu hàng nông sản vẫn giảm sút so với mức tăng của giá trị xuất khẩu hàng hoá. Điều này thể hiện những hạn chế trong việc gia tăng giá trị xuất khẩu hàng nông sản chưa tương xứng với tiềm năng sản xuất các sản phẩm nông nghiệp ở nước ta. Điểm tồn tại lớn nhất hiện nay trong xuất khẩu nông sản nước ta là sức cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu. So với các nước khác, nếu xuất khẩu cùng loại mặt hàng thì giá cả của hàng xuất khẩu Việt Nam bao giờ cũng thấp hơn nhiều. Các mặt hàng của Việt Nam thường có chất lượng thấp, mức độ chế biến chưa cao và mang tính đơn điệu. Ngoài nguyên nhân do chúng ta chưa tiếp cận được đến những thị trường cuối cùng, có thể kể đến nguyên nhân là danh mục mặt hàng xuất khẩu của chúng ta quá nhiều nhưng chỉ chú trọng quá mức vào các sản phẩm sẵn có để sản xuất và xuất khẩu các nông sản khác chậm cải tiến giá trị thương mại của các sản phẩm để đưa ra thị trường. Bên cạnh đó là sự khó khăn trong việc tìm kiếm một thị trường tiêu thụ ổn định và lâu dài cho tiêu thụ nông sản . Sau sự sụp đổ của thị trường các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô và các nước Đông Âu từ cuối những năm 1990, đã xuất hiện sự chuyển hướng thị trường xuất khẩu hàng nông sản sang các khu vực thị trường khác, trong đó chủ yếu tập trung vào các nước ASEAN và các nước châu Á khác. Phần lớn các thị trường này là thị trường tái xuất hoặc thị trường không ổn định. Do vậy vấn đề tìm kiếm thị trường xuất khẩu ổn định và thị trường tiêu thụ cuối cùng là vấn đề sống còn đối với phát triển xuất khẩu nông sản ở Việt Nam hiện nay. * Căn cứ vào kết quả nghiên cứu thực trạng tiêu thụ nông sản ở nước ta. Như trên đã nói ,từ khi đổi mới cơ chế quản lí kinh tế, bước vào hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề tiêu thụ nông sản ở nước ta đã có những biến chuyển tích cực, tuy vậy vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thách thức. Xét trên bình diện chung, thị trường nông thôn nước ta được hình thành và phát triển mang tính tự phát, mang sắc thái của nền kinh tế nhỏ, phân tán. Vấn đề nghiên cứu và tìm kiếm thị trường, xác định qui mô, yêu cầu chất lượng tính toán chi phí,giá cả như thế nào là những vấn đề mà người nông dân gặp không ít khó khăn. Thực tế là Nhà nước luôn động viên người nông dân mở rộng sản xuất, nâng cao sản lượng, nhưng không tìm cho họ một đầu ra ổn định, dẫn đến người nông dân luôn là đối tượng chịu nhiều thiệt thòi nhất.Thậm chí có lúc họ phải triệt phá cây đang độ thu hoạch để trồng loại cây khác, loại bỏ giống vật nuôi này để thay bằng giống vật nuôi khác cốt sao để có thể tiêu thụ được sản phẩm. Như vậy đã làm thiệt hại hàng trăm tỉ đồng cho nhà nước và bản thân người nông dân. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhiều nơi đang thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá ,việc hình thành vùng lúa xuất khẩu ở Đồng bằng Sông Cửu Long, Đồng bằng Sông Hồng, các vùng chuyên canh cây công nghiệp, cây ăn quả, mở rộng các làng nghề truyền thống; nhưng vẫn gặp khó khăn trong việc tìm đầu ra.Trên thực tế, việc tìm kiếm thị trường vẫn tuỳ thuộc vào khả năng của nông dân, chưa thực sự được sự đầu tư và hỗ trợ từ phía các cơ quan có chức năng. Khi người nông dân sản xuất ra sản phẩm hàng hoá ,thương nhân cần thì mua, nếu không cần thì bỏ mặc người dân tự xoay xở với hàng hoá của mình, hoặc chèn ép người nông dân phải bán với mức giá rẻ mạt. Không những thế, sản phẩm nông nghiệp là những sản phẩm dễ thối hỏng và khó bảo quản, muốn để được lâu dài và chờ tiêu thụ thì yêu cầu phải có một quá trình chế biến và bảo quản. Tuy nhiên, thực tế ở nước ta là công nghệ chế biến còn quá lạc hậu và thấp kém về qui mô, không có khả năng tiêu thụ được lượng nông sản hàng hoá với số lượng khi được mùa , trúng vụ. Cũng chính vì vậy ,sản phẩm chế biến ra thường có giá cao ,dẫn đến làm giảm khả năng cạnh tranh của nông sản trên thị trường so với các sản phẩm cùng loại của các nước khác. Xuất phát từ những căn cứ trên, chúng ta thấy rằng thị trường tiêu thụ hàng nông sản cũng như thị trường nông nghiệp, nông thôn còn chưa thực sự phát triển . Để có thể thực hiện thành công quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn cần phải sớm tìm ra ngay những hướng đi và giải pháp thích hợp, trước mắt là tìm ra các giải pháp nhằm thúc đẩy , phát triển thị trường tiêu thụ nông sản phẩm. 3.2. Các đề xuất nhằm thúc đẩy, phát triển thị trường tiêu thụ nông, sản phẩm. a. Nâng cao chất lượng nông sản và hoàn thiện quy cách, mẫu mã. Một trong những nguyên nhân có tính bao trùm cản trở khả năng và hiệu quả xuất khẩu nông sản là do chất lượng sản phẩm không cao, không ổn định, không đồng đều, khối lượng phân tán nhỏ bé, mẫu mã không hấp dẫn... Do vậy giải pháp về nâng cao chất lượng sản phẩm là giải pháp cơ bản, có tính chiến lược lâu dài, cần phải thực hiện kịp thời các nội dung sau: * Quy hoạch và đầu tư một cách đồng bộ tạo vùng sản xuất hàng hóa tập trung và vùng nguyên liệu có chất lượng cao phục vụ cho chế biến và xuất khẩu. * Nâng cao đầu tư và áp dụng các tiến bộ khoa học- công nghệ, trước hết là cải tiến công tác giống nhằm tạo các giống có năng suất cao, chất lượng tốt, cải tiến biện pháp canh tác để tăng năng suất và chất lượng sản phẩm, bảo vệ môi trường, sản xuất các sản phẩm sạch. * Đầu tư đổi mới công nghệ chế biến bảo quản, cần xây dựng các chương trình: "hỗ trợ đổi mới công nghệ trong nông nghiệp nói chung, đối với những mặt hàng nông sản xuất khẩu nói riêng". Tập trung chủ yếu vào khâu thu hoạch, bảo quản, chế biến với những công nghệ tiên tiến, hiện đại, đẩy mạnh chế biến và tinh chế nông sản, đa dạng hóa sản phẩm chế biến, đáp ứng yêu cầu và thị hiếu ngày càng đa dạng của thị trường. b. Phát triển công nghệ chế biến, bảo quản nông sản. Trong những năm qua, mặc dù sản xuất nông nghiệp tăng lên, tạo nguồn nguyên liệu dồi dào cho phát triển công nghiệp chế biến, nhưng cũng chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu phát triển của công nghiệp chế biến cả về tiêu chuẩn nguyên liệu lẫn cơ cấu sản phẩm... Hoạt động của ngành công nghiệp chế biến nông sản ở nước ta chưa đáp ứng được đòi hỏi của sự nghiệp phát triển nông nghiệp, nhất là trong giai đoạn đầu của đổi mới kinh tế, bộc lộ rõ nét sự bất cập của công nghiệp chế biến với yêu cầu phát triển của một nền nông nghiệp hàng hóa. Hầu hết thiết bị trong công nghiệp chế biến nông sản ở nước ta đều cũ, hỏng, lạc hậu; danh mục sản phẩm được chế biến quá ít và đơn điệu; tỷ lệ sản lượng nông sản chế biến quá thấp; chất lượng sản phẩm chế biến chưa hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và ngoài nước; tỷ lệ hao hụt nguyên liệu cao... Mặt khác ,trên thị trường nội địa, các doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông sản là hộ tiêu thụ lớn nhất của nông nghiệp. Khả năng mở rộng phạm vi thị trường này phụ thuộc trực tiếp vào quy mô, trình độ và cơ cấu các doanh nghiệp công nghiệp chế biến nông sản. Bởi vậy, để tạo thị trường ngày càng rộng và ổn định cho sản xuất nông nghiệp và tiêu thụ nông sản, cần chú trọng phát triển các doanh nghiệp công nghiệp này cùng với việc tháo gỡ những khó khăn mà chúng đang gặp phải . Từ đó nên tập trung thực hiện các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển công nghệ chế biến ,bảo quản nông sản sau thu hoạch, nâng cao chất lượng nông sản tiêu thụ trong nước và hướng đẩy mạnh xuất khẩu: - Tăng cường năng lực chế biến hàng nông sản thông qua khuyến khích chuyển dịch cơ cấu nông sản sang sản phẩm chế biến sâu, đầu tư đồng bộ và nâng cấp thiết bị các cơ sở chế biến, kêu gọi đầu tư từ nước ngoài hoặc liên doanh hoặc đầu tư tư nhân, cấp tín dụng cho xây dựng các cơ sở chế biến nông sản. - Đối với các vùng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến nông sản, nên khuyến khích các công ty chế biến, thương mại mở rộng các đại lý thu mua dưới các hình thức hợp đồng với nông dân. Tạo mô hình liên kết "thương mại - chế biến - sản xuất nguyên liệu" . - Nhà nước nên hỗ trợ thành lập các doanh nghiệp quốc doanh chuyên nhận bảo quản, thu mua,chế biến nông sản ngay trên địa bàn nông thôn. Các doanh nghiệp này sẽ được tài trợ ban đầu (từ 3 - 5 năm) để có thể hoạt động. Trong thời gian 3 - 5 năm tiếp theo sẽ chuyển dần sang hoạt động theo cơ chế thu bù chi, được miễn một số nghĩa vụ nộp ngân sách cho Nhà nước cho đến khi có lãi. Sau đó trở đi, sẽ được chuyển thành các cơ sở tự hạch toán, hoạt động trên cơ sở có lợi nhuận. c. Tổ chức quy hoạch sản xuất, bố trí sản xuất tập trung, chuyên môn hoá, đa dạng hoá các sản phẩm. - Chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa phù hợp với thế mạnh của từng vùng: Trước hết, Nhà nước, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công nghiệp, Bộ Thương mại, các Bộ và địa phương căn cứ vào dự báo nhu cầu thị trường trong và ngoài nước, thế mạnh của từng vùng và địa phương để tạo môi trường và hành lang pháp lý cho những nơi này phát triển sản xuất hàng hóa một cách ổn định, lâu dài. Từng doanh nghiệp căn cứ vào các vùng sản xuất hàng hóa để tổ chức sản xuất theo lợi thế so sánh cụ thể của cơ sở mình. Đầu tư tập trung vào từng địa phương, từng sản phẩm, trong từng khoảng thời gian cụ thể nhằm đạt được mục tiêu xác định, tránh chung chung, dàn trải phân tán. ÁP dụng phương thức điều hành theo dự án để triển khai các hoạt động nói trên, đó là dự án phát triển thị trường với từng loại sản phẩm cụ thể, gắn chặt và khép kín từ khâu thị trường đến sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm. - Xác định cây trồng, vật nuôi và ngành nghề : Từng hộ nông dân, từng doanh nghiệp khi định hướng vùng sản xuất hàng hoá phải căn cứ vào các mặt sau đây: +Xác định nhu cầu và xu hướng phát triển nhu cầu của thị trường. Người nông dân phải hiểu được tính quy luật phát triển nhu cầu để lựa chọn, bố trí cây trồng, vật nuôi và ngành nghề cho phù hợp. + Điều kiện kinh tế của địa phương, của doanh nghiệp. Cần xem xét, phân tích kỹ các điều kiện đất đai, khí hậu, lao động, tiền vốn, kinh nghiệm, tập quán của địa phương để chọn phương án kinh doanh cho phù hợp. + Tình hình cạnh tranh trên thị trường. Cần xem trên thị trường có nhiều hay ít nguời cùng sản xuất một loại sản phẩm và khả năng chiếm lĩnh thị trường thế nào? Ví dụ: ở địa phương ai trồng mận, trồng táo, trồng nhãn nhưng liệu sản xuất táo, mận, nhãn có bán được không? bán ở đâu? chế biến như thế nào? đối thủ cạnh tranh về sản phẩm đó? Các chính sách của Nhà nước. Người nông dân cần phải nhanh nhậy, nắm bắt các chính sách (như chính sách thuế, đất đai, tài chính, tín dụng...) để chớp thời cơ sản xuất - tiêu thụ. + Tính toán kỹ hiệu quả. Người nông dân cần tính toán, so sánh xem cây, con nào có thu nhập lãi cao hơn tính cho 1 ha, cho 1 đồng vốn bỏ ra hoặc 1 ngày lao động, qua đó chọn hướng kinh doanh có lợi nhất. - Tổ chức sản xuất: - Đẩy mạnh kinh tế hộ. Phải tạo mọi điều kiện để kinh tế hộ phát triển thành kinh tế hàng hóa (thực hiện phân công lại lao động, ai giỏi nghề gì thì làm nghề đó, thực hiện tích tụ ruộng đất) tiến tới các nông trại gia đình sản xuất hàng hóa và liên kết các hộ thành vùng sản xuất hàng hóa mạnh. Ở nông thôn Việt Nam hiện nay do tình trạng đất ít, người đông, thiếu việc làm nên mọi người bám ruộng sản xuất để duy trì đời sống. Tình trạng đó dẫn đến năng suất cây trồng thấp, chất lượng sản phẩm kém, khó nâng cao thu nhập và khó tiêu thụ sản phẩm. Nền sản xuất manh mún, trên đồng ruộng quá nhiều loại cây trồng (mỗi cây một ít), trong vườn sản xuất theo kiểu vườn tạp thì khó tập trung thâm canh, hiệu quả thấp và đặc biệt khó tiêu thụ sản phẩm. Do đó các hộ, các trang trại trên cơ sở tích tụ ruộng đất phải liên kết với nhau thành vùng sản xuất hàng hóa lớn để sản xuất và tiêu thụ có hiệu quả hơn - Tổ chức liên kết, hợp tác trong tiêu thụ. Khi đi vào sản xuất hàng hóa, người nông dân phải đứng trước những khó khăn, thách thức là khi đem ra thị trường bán, có thể lần này bán được giá, nhưng lần khác không bán được phải đem về hoặc bán rẻ. Trong nông nghiệp thường có tình trạng lúc ngày mùa thu hoạch, giá nông sản rất hạ, nhiều khi lỗ vốn. Nhưng nếu nông dân tự tiêu thụ thì nhiều khi giá hạ vẫn phải bán để có vốn quay vòng khác, đặc biệt đối với đại đa số nông dân trung bình và nghèo phải bán để trang trải chi tiêu... Cũng trong tình trạng này, người nông dân phải bán lúa non hoặc chịu đi vay nặng lãi hoặc bị các thành phần kinh tế khác ép giá. Bản thân người nông dân có ít kinh nghiệm, nghệ thuật buôn bán, tìm hiểu thị trường, nên tiêu thụ sản phẩm không hiệu quả. Muốn tiêu thụ có hiệu quả phải mở rộng thị trường, không chỉ tiêu thụ ở địa phương mà phải mở rộng ra cả nước và xuất khẩu hoặc liên kết, liên doanh với nước ngoài. Việc này vượt quá khả năng của từng hộ nông dân. Để giải quyết những khó khăn và thách thức đó, muốn tiêu thụ được hàng hóa nông nghiệp , phải xây dựng quan hệ bạn hàng cùng nhau làm ăn lâu dài, ổn định, cùng phân chia lợi ích. Ngoài việc liên kết sản xuất hàng hoá theo vùng, người nông dân phải liên kết, hợp tác để tăng sức cạnh tranh trong tiêu thụ sản phẩm (tăng sức mạnh về vốn để dự trữ, chế biến, mở rộng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước; phân công, chuyên môn hóa lao động, nâng cao trình độ lành nghề trong buôn bán, giao tiếp , chiếm lĩnh thị trường,...). Các hình thức liên kết, hợp tác thì có thể đa dạng: nhóm, tổ hợp tác, HTX, nông trường, các công ty hoặc các Hiệp hội sản xuất (Hiệp hội nuôi ong, Hiệp hội mía đường,...). Tùy điều kiện cụ thể từng nơi mà nông dân chọn hình thức hợp tác thích hợp: ở miền núi có thể liên kết các tổ, nhóm hợp tác; nhưng khi trình độ sản xuất đã khá lên, nhất là vùng đồng bằng, đô thị thì hình thức hợp tác chủ yếu là hình thức HTX nông nghiệp kiểu mới. Trong tình hình hợp tác mới, từng hộ nông dân vẫn tự chủ hợp tác sản xuất nông nghiệp trên đất đai của mình, nhưng HTX sẽ giúp các hộ những việc không tự làm được hoặc làm kém hiệu quả. Thương mại sẽ là hình thức mềm dẻo để kết dính giữa các khâu từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm cho nông dân. - Đa dạng hoá và nâng cao chất lượng hàng nông sản: Nhu cầu thị trường ngày càng gia tăng về số lượng, chất lượng, cơ cấu và tính kịp thời. Sở dĩ các nông sản phẩm của ta khó cạnh tranh được với các loại sản phẩm cùng loại của nước ngoài là do chất lượng sản phẩm của ta chưa cao, mặc dù giá thành không thua kém. Để nâng cao khả năng cạnh tranh thì phải đầu tư hơn nữa vào việc nâng cao chất lượng cây, con giống, kỹ thuật canh tác, gieo trồng, chăn nuôi. d. Tổ chức hệ thống tiêu thụ, đặc biệt là các chợ, các trung tâm giao dịch, trao đổi hàng hoá. Thực tiễn đã khẳng định, chợ là điểm nút không thể thiếu trong lưu thông hàng hoá, đặc biệt là đối với hàng nông sản,thực phẩm tươi sống. Chợ là nơi phát luồng hàng nông sản- thực phẩm tới các địa điểm tiêu thụ ở các đô thị, khu công nghiệp tập trung, và ngược lại cũng là nơi tập kết, phân phối, kết thúc quá trình lưu thông hàng vật tư nông nghiệp và hàng công nghiệp tiêu dùng.Theo ước tính của các nhà nghiên cứu thị trường, hiện nay hàng hoá lưu thông qua chợ chiếm khoảng 40%, trong đó hàng thực phẩm tươi sống và rau quả tươi chiếm khoảng 90%. Chợ cũng thúc đẩy khu vực kinh tế nông thôn phát triển. Những loại hình chợ chuyên doanh, chợ bán buôn phát luồng đã góp phần quan trọng vào việc định hướng cho sản xuất hàng hoá tập trung, tác động tích cực đến cơ cấu sản xuất trong nông nghiệp ,gắn sản xuất với thị trường. Sự hình thành và phát triển của chợ cũng kéo theo sự phát triển các ngành nghề sản xuất, ngành nghề truyền thống. Đây là tiền đề để từng bước hình thành các trung tâm thương mại lớn trong tương lai ở khu vực nông thôn. Từ đó trong giai đoạn kinh tế mới, ta cần có những định hướng và giải pháp phát triển các chợ, các trung tâm giao dịch như sau: * Cần coi trọng việc xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ lưu thông hàng nông sản ngang bằng với xây dựng công trình cơ sở hạ tầng nông nghiệp. Theo hướng đó, thực hiện phân cấp đầu tư xây dựng chợ giống như đối với các công trình thuỷ lợi và cơ sở hạ tầng khác trên địa bàn nông thôn. - Ở khu vực đô thị: Cần có kế hoạch mở rộng, đầu tư xây dựng một số chợ trung tâm bán buôn, phục vụ tiêu thụ nông sản, rau quả, thuỷ-hải sản, thực phẩm tươi sống, phát luồng cho các thị trường khu vực lân cận. Ngoài ra, căn cứ vào qui mô sản xuất nông sản hàng hoá và sức mua trên địa bàn khu vực, cần phát triển một số chợ chuyên doanh ở những vùng sản xuất tập trung có khả năng chi phối mạng lưới chợ trong khu vực. - Ở khu vực nông thôn: Chợ và thị tứ là hai mô hình tổ chức thị trường chủ yếu. Vì vậy, cần phải xây dựng chợ và phát triển các thị tứ thành các cụm kinh tế- thương mại- dịch vụ. Ở địa bàn thôn, xã,các chợ phải được tổ chức để nông dân trực tiếp bán nông sản và mua vật tư, hàng tiêu dùng trên thị trường, hạn chế sự chèn ép của các tư thương. Thương nghiệp nhà nước hỗ trợ các hợp tác xã thương mại mở các điểm kinh doanh trong phạm vi chợ, tổ chức các điểm nút mua gom nông sản và cung ứng vật tư, hàng tiêu dùng cho nông dân. - Ở khu vực miền núi: Xây dưng hệ thống chợ biên giới nhằm phục vụ tốt nhu cầu sản xuất và đời sống của đồng bào các dân tộc, đồng thời góp phần tích cực vào quá trình hội nhập của nền kinh tế nướ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc26116.doc
Tài liệu liên quan