MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU 4
1. Lý do chọn đề tài 4
2. Mục tiêu nghiên cứu 5
2.1. Mục tiêu tổng quát 5
2.2. Mục tiêu cụ thể 5
3. Phương pháp nghiên cứu 5
3.1. Phương pháp thu thập số liệu 5
3.2. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu 5
4. Phạm vi nghiên cứu 5
CHƯƠNG 1. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CHÈ
CỦA VIỆT NAM 7
1. Thị trường xuất khẩu chè thế giới 7
1.1. Sản lượng 7
1.2. Tiêu thụ 9
1.3. Nhu cầu thị trường trong tương lai 10
2. Giới thiệu tổng quan về ngành chè của Việt Nam 12
2.1. Diện tích và sản lượng 12
2.2. Các loại chè ở Việt Nam 14
3. Thực trạng xuất khẩu chè của Việt Nam trong giai đoạn từ
năm 2006- quý I năm 2009 15
3.1. Kim ngạch xuất khẩu chè Việt Nam 15
3.2. Thị trường xuất khẩu chè Việt Nam 16
3.3. Chủng loại sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam 18
3.4. Chính sách điều hành xuất khẩu của Việt Nam 20
3.5. Chính sách nhập khẩu của các nước nhập khẩu 20
3.6. Đối thủ cạnh tranh 21
Trang
CHƯƠNG 2:GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU CHÈ CỦA VIỆT NAM 23
1. Những khó khăn và thuận lợi của chè Việt Nam 23
2. Giải pháp phát triển ngành chè Việt Nam 24
2.1. Cơ sở đề ra giải pháp 24
2.1.1. Tồn tại của ngành xuất khẩu chè 24
2.1.2. Định hướng của ngành đến 2020 25
2.2. Một số giải pháp 26
PHẦN KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 28
1. Kết luận 28
2. Kiến nghị 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO 30
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6704 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp cho xuất khẩu chè của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất lợi, khiến chất lượng chè giảm đáng kể.
Năm 2008, tổng kim ngạch của 10 nước nhập khẩu chè lớn nhất thế giới đạt 2,18 tỉ đô la Mỹ, chiếm trên 50% tổng kim ngạch nhập khẩu chè toàn thế giới. So với cùng kỳ năm 2007, kim ngạch nhập khẩu chè các nước này tăng trung bình 16,89%. Năm nước có kim ngạch nhập khẩu chè lớn nhất thế giới năm 2008 là Nga (510,6 triệu đô la), Anh (364 triệu đô la), Mỹ (318,5 triệu đô la), Nhật Bản (182,1 triệu đô la) và Đức (181,4 triệu đô la).
Trong khi đó, tổng kim ngạch của 10 nước xuất khẩu chè lớn nhất thế giới đạt gần 3,5 tỉ đô la Mỹ, tăng 18,8% so với cùng kỳ năm 2007.
Biểu đồ 1. 10 nước có kim ngạch nhập khẩu chè lớn nhất thế giới năm 2008
Nhu cầu thị trường trong tương lai:
Mặt dù tình hình kinh tế thế giới hiện nay không mấy khả quan nhưng những đánh giá hiện nay về thị trường chè thế giới năm 2009 tương đối khả quan. Tình trạng khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu đang khiến người tiêu dùng thắt chặt chi tiêu và thay đổi thói quen tiêu dùng. Người tiêu dùng tại những thị trường lớn đặc biệt là châu Âu và Mỹ đã bắt đầu hạn chế mua những loại đồ uống đắt tiền như nước trái cây, nước ngọt, … mà thay vào đó là những đồ uống rẻ tiền hơn như chè. Đây sẽ là cơ hội cho ngành chè thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế hiện nay.
Về thị trường tiêu thụ, theo dự báo của FAO, trong giai đoạn 2009 - 2010, nhập khẩu chè đen thế giới ước tính khoảng 1,15 triệu tấn, mức tăng trung bình khoảng 0,6%/năm. Các nước nhập khẩu chính như Anh, Nga, Pakistan, Mỹ, Nhật Bản... sẽ chiếm khoảng 60% tổng lượng nhập khẩu chè toàn thế giới vào năm 2010. Cụ thể, Pakistan tăng 2,9%/năm, từ 109.400 tấn lên 150.000 tấn; Nhật Bản cũng tăng từ 18.000 lên 22.000 tấn, tăng 1,8%/năm.
Tại thị trường Mỹ, mặc dù kinh tế đang trong thời kỳ suy giảm nhưng nhu cầu tiêu thụ chè không những không giảm mà còn tăng mạnh. Người tiêu dùng Mỹ đã hạn chế mua những đồ uống đắt tiền như cà phê, nước trái cây, nước ngọt...mà thay vào đó là tiêu dùng các sản phẩm rẻ hơn như chè, đặc biệt là những loại chè có chất lượng trung bình.
Tại thị trường châu Âu, các nước Đức, Anh, Nga đều có xu hướng tăng nhu cầu tiêu dùng chè. Ngay từ những tháng đầu năm 2009, tại các thị trường này, người dân đã có xu hướng chuyển từ các đồ uống khác sang tiêu dùng các sản phẩm từ chè như các loại chè truyền thống, chè uống liền, chè chế biến đặc biệt. Như tại Nga, (một trong những nước tiêu thụ chè lớn trên thế giới), với mức tiêu thụ trung bình khoảng hơn 1 ki lô gam chè/người/năm.
Trong giai đoạn 2009-2010, nhập khẩu chè đen của Nga sẽ tăng từ 223.600 tấn lên 315.200 tấn, mức tăng trung bình hàng năm là 3%. Tuy nhiên, mức tiêu thụ chè đen (loại chè chiếm gần 80% mức tiêu thụ hàng năm) sẽ trong xu hướng suy giảm. Tỷ lệ chè xanh, chè hoa quả, chè làm từ các loại cây thảo mộc sẽ có xu hướng gia tăng.Các thị trường khác như Ai Cập, Iran, Iraq nhu cầu tiêu dùng chè cũng tăng.
Như vậy, có thể thấy nhu cầu tiêu dùng chè tại các nước phát triển đang chuyển dần từ các sản phẩm chè thông thường sang các sản phẩm chè uống liền và chè chế biến đặc biệt trong khi tại các nước Tây Á và châu Á vẫn thích dùng các sản phẩm chè truyền thống.
Dựa vào các phân tích trên, Trung tâm Thông tin phát triển nông nghiệp nông thôn (AGROINFO) dự báo giá chè trung bình của thế giới trong năm 2009 sẽ đạt mức 4.008 đô la Mỹ/tấn, tăng gần 1,5% so với năm 2008.
Biểu đồ 2. Dự báo giá chè năm 2009 của thế giới và Việt Nam
Giới thiệu tổng quan về ngành chè của Việt Nam:
Diện tích và sản lượng:
Ở Việt Nam , cây chè đang được coi là cây trồng chủ lực góp phần xoá đói giảm nghèo, thậm chí làm giàu cho người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao. Ngoài ra, cây chè còn giúp phủ xanh đất trống đồi trọc và bảo vệ môi trường. Trong 10 năm gần đây Việt Nam đã trở thành một "thế lực" của ngành chè thế giới: chiếm 4% tổng sản lượng, 6% tổng sản phẩm xuất khẩu và 3,7% về diện tích trồng chè. Trên quy mô toàn quốc, có tới 34 tỉnh, thành phố trực thuộc TW dành diện tích đất canh tác để trồng chè.
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện VN có 6 triệu người sống trong vùng chè, có thu nhập từ trồng, chế biến và kinh doanh chè. Có 34/63 tỉnh, thành phố có diện tích trồng chè, chủ yếu tập trung ở trung du và miền núi với diện tích năm 2008 trên 130.000 ha, với năng suất 6,5 tấn búp tươi/ha, cung cấp nguyên liệu cho khoảng 700 cơ sở sản xuất chè khô.
Hiện cả nước có 262 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này với khoảng 650 nhà máy chế biến chè (công suất từ 2 đến 10 tấn nguyên liệu chè búp tươi/ngày) và hàng ngàn hộ dân lập xưởng để chế biến chè tại gia đình. Đội ngũ làm chè lên tới 3 triệu lao động, chiếm 50% tổng số dân sống trong vùng chè.
Bảng 3. Diện tích và sản lượng chè Việt Nam từ 2005-2008
2005
2006
2007
2008
Chênh lệch tuyệt đối so với năm trước
Chênh lệch tương đối so với năm trước (%)
2006
2007
2008
2006
2007
2008
Diện tích (nghìn ha)
122,5
122,9
125,7
130
0,5
2,8
4,3
100,3
102,3
103,4
Sản lượng búp tươi (nghìn tấn)
570
648,9
704,9
845
78,9
56
140,1
113,8
108,6
119,9
Nguồn: ISO, vietbao.vn
Qua bảng số liệu ta thấy tổng diện tích và sản lượng của Việt Nam không ngừng tăng qua các năm. Về diện tích, năm 2005, toàn quốc có 122,5 nghìn ha chè, nhưng con số này của năm 2008 đã là 130 nghìn ha, tăng 7,5 nghìn ha (6,12%) trong 3 năm. Diện tích trồng chè của cả nước tăng qua các năm từ 2006-2008 lần lược là 0,5 nghìn ha (0,3%), 2,8 nghìn ha (2,3%), 4,3 nghìn ha (3,4%), ta thấy được diện tích không chỉ tăng qua các năm mà còn với tốc độ tăng cao hơn. Diện tích tăng là do xác định được tầm quan trọng của cây chè không chỉ giúp xóa đói giảm nghèo ở vùng miền núi trung du mà còn có thể giải quyến được một lượng lớn về lao động, nên nhà nước đã có sự hổ trợ nông dân trồng chè mở rộng diện tích canh tác. Về sản lượng, năm 2008 đạt 845 nghìn tấn búp tươi, tăng 275 nghìn tấn (48,2%) so với năm 2005. Sản lượng tăng là do diện tích trồng chè các năm qua không ngừng tăng lên, bên cạnh đó có sự áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến vào việc trồng chè nên năng suất cũng được nâng cao. Bên cạnh đó cây chè cũng chịu nhiều sự ảnh hưởng của điều kiện thời tiết làm cho sản lượng không như mong muốn, cụ thể là sản lượng năm 2007 tăng ít hơn so với năm 2006 mặt dù diện tích lại tăng nhiều hơn. Đó là hậu quả của thời tiết, trong năm 2007 thời tiết không thuận lợi, rét đậm rét hại kéo dài ở miền Bắc làm giảm năng suất của cây chè rất nhiều.
Cây chè Việt Nam chủ yếu được trồng ở khu vực trung du miền núi. Khu vực trung du miền núi phía Bắc và Tây Bắc có diện tích trồng chè lớn nhất, chiếm trên 80% diện tích trồng chè của cả nước. Nhưng tỉnh có diện tích và sản lượng chè lớn nhất nước là Lâm Đồng với 26,5 nghìn ha chè và đạt 190 nghìn tấn búp tươi năm 2008.
Bảng 4. Diện tích và sản lượng chè một số tỉnh năm 2008
Tỉnh
Diện tích (ha)
Sản lượng (tấn)
Lâm Đồng
26.500
190.000
Thái Nguyên
16.000
125.000
Hà Giang
15.064
99.000
Phú Thọ
14.906
98.000
Yên Bái
13.000
86.000
Nguồn: tổng hợp từ: www.agroviet.gov.vn, www.phutho.gov.vn, www.dalat.gov.vn, www.vinhphuc.gov.vn
Các loại chè ở Việt Nam:
Nước ta là một quốc gia có truyền thống uống chè lâu đời, Việt Nam sản xuất và tiêu thụ rất nhiều chủng loại chè, từ các loại chè truyền thống cho đến các loại chè được du nhập từ nước ngoài. Các loại chè được uống nhiều trong dân gian Việt Nam như:
Chè tươi: nguyên liệu gồm lá chè non và già, to nhỏ, xanh tươi, không qua chế biến, hái về rửa sạch vò nhầu lá bằng tay rồi cho vào nồi hoặc ấm đun nước loại to cho thêm vài lát gừng tươi đun cho đến sôi, chắt ra bát, chén uống ngay hoặc cho vào ấm tích ủ nóng để uống dần trong ngày, màu nước xanh tươi màu lục diệp.
Chè ô long: có nguồn gốc từ Trung Quốc (Phúc Kiến Quảng Đông) và Đài Loan; còn gọi là thanh trà. Công nghệ: chè nguyên liệu → làm héo và lên men kết hợp→ sao và vò kết hợp sấy khô→ bán thành phẩm. Nước chè màu vàng kim óng ánh, vị đậm mạnh, hương thơm đặc biệt. Các danh trà Ô long như Thiết quan âm, Thuỷ tiên, Đại hồng bào, Kỳ chủng, Sắc chủng,…
Ngoài ra còn có một số loại chè khác như: chè nụ (nụ hoa chè), chè Bạng, chè mạn Hà Giang (chè bánh, chè chi), chè hương,…
Các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của tổng công ty chè Việt Nam:
Chè xanh: Gồm có các loại chè xanh hương tự nhiên và các loại chè ướp hương các loại hoa như Nhài, Sen, ...Các loại chè túi lọc.
Chè Ô long: Với các loại giống chè đặc sản được nhập từ Trung Quốc và Đài loan đã qua khảo nghiệm được trồng đại trà tại Mộc Châu, cao nguyên Lâm Đồng,... cùng với các dây chuyền công nghệ sản xuất chè Ô long, sản phẩm chè Ô long của Tổng công ty chè Việt Nam đã có chất lượng đạt tiêu chuẩn như chè Ô long của Trung Quốc và đài loan với các đặc trưng điển hình của loại chè này.
Chè đen: Với các thiết bị dây truyền hiện đại, Tổng công ty chè Việt Nam đã sản xuất đầy đủ các chủng loại chè này (Orthordox, CTC) đạt chất khá trở lên và đã xuất khẩu sang rất nhiều thị trường trên thế giới.
Thực trạng xuất khẩu chè của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2006- quý I năm 2009:
Kim ngạch xuất khẩu chè Việt Nam:
Xuất khẩu chè của Việt Nam trong những năm qua tăng cả về sản lượng lẫn kim ngạch. Năm 2006 sản lượng xuất khẩu chè là 100 nghìn tấn đạt kim ngạch 103,64 triệu USD. Con số này của năm 2008 là 104 nghìn tấn và 146 triệu USD, tăng 4% về sản lượng và 40,9% về giá trị. Xuất khẩu chè năm 2008 giảm về sản lượng so với năm 2007 cụ thể là giảm còn 104 nghìn tấn so với 113 nghìn tấn của năm 2007, giảm 9 nghìn tấn (khoảng 8%). Nhưng giá trị xuất khẩu của năm 2008 lại tăng so với năm 2007, từ 129 triệu USD lên 146 triệu USD (tăng 17 triệu USD, 13,2%). Cụ thể được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 5. Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu chè Việt Nam từ 2006-2008
2006
2007
2008
Chênh lệch tuyệt đối
Chênh lệch tương đối (%)
2007
2008
2007
2008
Sản lượng (1000 tấn)
100
113
104
13
-9
113
92
Kim ngạch (triệu USD)
103,64
129
146
25,36
17
124,5
113,2
Nguồn: tổng hợp từ www.xttm.agro.gov.vn
Bảng 6. Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu chè Việt Nam quý 1 qua các năm
QI/2006
QI/2007
QI/2008
QI/2009
Sản lượng (1000 tấn)
19,2
21
21,1
22,916
Kim ngạch (triệu USD)
18,69
21
26,57
28,831
Nguồn: tổng hợp từ www.xttm.agro.gov.vn
So sánh trong giai đoạn quý I qua các năm từ 2006 đến 2009, ta thấy sản lượng và kim ngạch xuất khẩu đều tăng. Sản lượng xuất khẩu quý I/2006 là 19,2 nghìn tấn đạt kim ngạch 18,69 triệu USD đến quý I/2009 đạt 22,916 nghìn tấn và 28.831 triệu USD. So với cùng kỳ năm 2008, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu quý I/2009 tăng 8,6% về sản lượng và giá trị.
Thị trường xuất khẩu chè Việt Nam:
Việt Nam đã xuất khẩu chè đến hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, với các thị trường lớn là Pakistan, Đài Loan, Nga, các Tiểu vương quốc Ảrập Thống nhất và Trung Quốc.
Tại châu Á, Việt Nam có 2 khách hàng lớn là Nhật Bản và Đài Loan. Trong đó, Nhật là một thị trường đầy triển vọng với tổng nhu cầu 136.000 tấn/năm và sản xuất trong nước của Nhật chỉ có thể đáp ứng khoảng 90.000 tấn/năm. Mặt hàng chè đen đang đặc biệt được ưa chuộng trên thị trường này. Chè Việt Nam chỉ chiếm khoảng 6,5% tỷ trọng và giá thành chỉ bằng 35% so với giá trung bình từ các nước khác.
Với EU, nhu cầu chè của khối này chủ yếu đều được đáp ứng bằng nhập khẩu với gần 300.000 tấn/năm. Nhưng chè Việt Nam chỉ chiếm khoảng 1-1,5% tổng kim ngạch. Giá chè của Việt Nam tại đây chỉ bằng 40% so với mặt bằng giá từ các nước khác.
Nga là thị trường truyền thống giàu tiềm năng với sức tiêu thụ khoảng 147.000-162.000 tấn/năm mà sản xuất chỉ đáp ứng 1% nhu cầu. Tuy nhiên, giá chè Việt Nam vào Nga cũng mới chỉ bằng 75% so với giá nhập khẩu từ các nước khác. Thêm vào đó, chè Việt Nam phải chịu sự cạnh tranh gay gắt của Ấn Độ, Sri Lanka, Trung Quốc và Indonesia.
Hoa Kỳ, nước tiêu thụ chè lớn thứ 8 thế giới với tổng lượng nhập hàng/năm khoảng 149.000 tấn (chè đen chiếm 84%). Chè Việt Nam xuất khẩu vào đây chiếm khoảng 3% thị trường chè chiết xuất tại Hoa Kỳ, trong đó, chè đen chiếm 80% tổng giá trị xuất khẩu vào thị trường này. Giá chè xuất khẩu của Việt Nam vào Hoa Kỳ thấp hơn nhiều so với giá chè của các nước khác. Giá chè đen nhập khẩu vào Hoa Kỳ của Việt Nam chỉ bằng 56% giá bình quân từ các nước khác.
Bảng 7. Xuất khẩu chè của Việt Nam đến một số thị trường chính trong tháng 7 và 7 tháng đầu năm 2008 so với 2007
Thị trường
T7/08
so T7/07
7T/08
so 7T/07
Lượng (tấn)
Kim ngạch (USD)
Lượng (%)
KN (%)
Lượng (tấn)
Kim ngạch (USD)
Lượng (%)
KN (%)
Đài Loan
2.439
2.886.149
22,2
52,0
10.710
12.683.688
-7,2
23,5
Nga
1.456
1.948.827
65,1
74,9
6.844
8.683.295
13,3
40,7
Arập Thống Nhất
397
737.168
74,9
97,6
2.941
4.357.508
328,1
327,8
Trung Quốc
532
650.012
-69,7
-65,8
3.759
3.853.660
-61,0
-58,1
Arập Xêút
326
771.771
129,6
217,0
1.032
2.224.380
391,4
541,5
Đức
266
413.339
141,8
208,2
1.131
1.910.026
20,3
67,9
ấn độ
507
636.522
2.568,4
1.894,1
1.657
1.681.915
101,8
96,3
Mỹ
458
347.132
445,2
339,2
2.280
1.631.981
3,9
14,2
Indonesia
546
606.137
20,0
89,2
1.697
1.506.133
-60,1
-44,9
Ba Lan
198
270.010
62,3
83,0
1.214
1.468.316
-28,0
-2,8
Philipines
65
207.336
85,7
71,6
456
1.449.294
68,9
78,7
Thổ Nhĩ Kỳ
93
162.036
-67,3
-61,1
626
1.261.513
-27,6
-2,2
Hà Lan
162
233.637
-35,5
-31,5
705
972.252
-24,2
-0,9
Malaixia
174
108.523
-
-
1.485
893.418
-
-
Irắc
-
-
-100,0
-100,0
350
670.095
-77,2
-15,1
Nhật Bản
36
180.755
125,0
556,7
238
636.653
105,2
127,4
Singapore
47
86.140
-39,7
-79,1
338
613.410
-94,2
-92,5
Ucraina
101
108.022
-1,9
2,6
547
603.708
55,4
90,2
Anh
18
40.502
-67,9
-39,4
238
308.209
-68,9
-63,1
Nguồn: Tổng cục hải quan.
Pakistan: Dự báo, đến năm 2010, Pakistan sẽ là nước nhập khẩu chè lớn nhất thế giới. Nước này có nhu cầu thị trường hàng năm khoảng 150.000 tấn. Trong đó, chỉ có 5% chè xanh, còn lại là chè đen. Pakistan cũng là thị trường xuất khẩu chè lớn nhất của Việt Nam năm 2008, đạt 37,8 triệu đô la. Quí 1-2009, Pakistan vẫn là nước có khối lượng và kim ngạch nhập khẩu chè lớn nhất từ Việt Nam, với 6.739 tấn, trị giá 9,337 triệu đô la, chiếm 39% tổng lượng chè xuất khẩu của Việt Nam. Các thị trường nhập khẩu nhiều chè tiếp theo từ Việt Nam là Nga (chiếm 19%), Đài Loan (chiếm 16%). Cụ thể một số thị trường khác thể hiện trong bảng sau.
Bảng 8. Thị trường xuất khẩu chè quý I năm 2009
Mã nước
Khối lượng (tấn)
Giá trị (1000 USD)
Mỹ
840
826
Cộng hòa liên bang Đức
656
817
Balan
299
374
ả Rập Xê út Xyri
66
161
Đài Loan
3.015
3.676
Inđônêxia
637
461
Philippin
33
95
Trung Quốc
875
1.046
Pakixtan
6.739
9.337
Ấn Độ
638
484
Nga
3.866
4.542
Các nước khác
5.252
7.012
Tổng
22.916
28.831
Nguồn: www.agro.gov.vn
Chủng loại sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam:
Chủng loại chè xuất khẩu của Việt Nam rất đa dạng như chè đen, chè xanh, chè nhài, chè hương, chè ô long,…trong đó mặt hàng xuất khẩu chủ lực là chè đen và chè xanh. Trong năm 2008, mặt hàng chè đen được xuất khẩu nhìêu nhất, đạt trị giá 81.864.997 USD, với lượng xuất 61.652 tấn; tiếp đến là chè xanh với trị giá 45.357.250 USD, với lượng xuất 30.877 tấn; chè nhài xuất được 3.833 tấn, với trị giá 4.202.826 USD. Cụ thể một số loại chè xuất khấu thể hiện trong bảng sau.
Bảng 9. Chủng loại chè xuất khẩu chủ yếu tháng 7 và 7 tháng 2008 so với 2007
Chủng loại
Tháng 7/08
so T7/07
7T/08
so 7T/07
Lượng (tấn)
Kim ngạch (USD)
Lượng (%)
KN (%)
Lượng (tấn)
Kim ngạch (USD)
Lượng (%)
KN (%)
Chè đen
3.647
11.029.362
-81,4
73,8
63.358
44.418.331
-31,5
17,1
Chè xanh
2.627
5.388.441
-36,4
-92,3
172.751
94.538.469
216,6
13,9
Chè lên men
106
427.235
54,9
230,8
534
1.762.699
193,8
365,3
Chè nhài
338
421.527
-19,5
-23,3
1.111
1.579.583
-96,2
-22,4
Loại khác
125
343.363
13,1
122,5
537
1.296.713
-60,4
-49,6
Chè ô long
36
156.021
503,7
657,4
323
1.102.660
190,2
200,8
Chè khô
-
-
-100,0
-100,0
67
198.363
-93,4
-81,9
Chè vàng
38
33.072
216,7
132,3
147
175.038
-76,8
-81,6
Nguồn: Tổng cục thống kê
Trong tháng 7/2008, chè đen tiếp tục là chủng loại được xuất khẩu nhiều nhất, đạt 3,6 nghìn tấn với kim ngạch hơn 11 triệu USD, giảm 81,37% về lượng nhưng tăng 73,78% về trị giá so với cùng kỳ năm 2007. Thị trường nhập khẩu chủ yếu loại chè này trong tháng là ảrập Xêút, Đài Loan, Hà Lan, Ai Cập, Anh… Tính chung 7 tháng đầu năm 2008, nước ta đã xuất 63,4 nghìn tấn chè đen, đạt kim ngạch 44,4 triệu USD, mặc dù giảm 31,54% về lượng song lại tăng 17,09% về trị giá so với 7 tháng đầu năm 2007.
Bên cạnh đó, kim ngạch xuất khẩu chè xanh trong tháng 7/08 đạt 2,6 nghìn tấn với kim ngạch 5,4 triệu USD, giảm 36,36% về lượng và 92,26% về trị giá so với cùng kỳ năm 2007. Đơn giá xuất khẩu trung bình loại chè này trong tháng đạt 1.447 USD/tấn. Thị trường nhập khẩu chủ yếu loại chè này trong tháng 7/08 là Pakistan, Đài Loan, Mỹ, Nga, Nhật Bản… Như vậy, chè xanh đã đạt kim ngạch cao nhất trong 7 tháng đầu năm 2008, với 172,8 nghìn tấn, trị giá 94,5 triệu USD, tăng 216,62% về lượng và 13,97% về trị giá so với 7 tháng đầu năm 2007.
Ngoài ra, 7 tháng đầu năm 2008, kim ngạch xuất khẩu các loại chè khác như chè lên men, chè ô long cũng là những loại chè có sự tăng trưởng mạnh, với mức tăng lần lượt là 193,75%; 190,17% về lượng và tăng 365,33%; 200,84% về trị giá so với cùng kỳ năm 2007. Ngược lại, chè nhài, chè khô, chè vàng… lại có kim ngạch giảm rất mạnh, với các mức giảm lần lượt là 96,21%; 93,43%; 76,83%... về lượng và giảm 22,37%; 81,89%; 81,59%... về trị giá so với 7 tháng đầu năm 2007.
Chính sách điều hành xuất khẩu của Việt Nam:
Đối với mặt hàng chè xuất khẩu, Việt Nam đang có chính sách khuyến khích xuất khẩu. Từ năm 2005, Chính phủ ban hành chính sách thưởng cho doanh nghiệp mở rộng thị trường và xuất khẩu chè có giá trị cao; Đồng thời, thông qua chương trình xúc tiến thương mại hỗ trợ doanh nghiệp khảo sát thị trường, tìm kiếm đối tác và xây dựng mạng lưới tiêu thụ chè tại các nước EU. Hiệp hội Chè cũng đề nghị Chính phủ đầu tư kinh phí mở các sàn giao dịch, các trung tâm thương mại chè ở Hà Nội và TP.HCM. Trong đó, gồm có chợ chè và thương mại điện tử về chè, nhằm giúp buôn bán chè một cách thuận lợi hơn. Bên cạnh đó, Hiệp hội và các doanh nghiệp xuất khẩu chè Việt Nam cũng đã tổ chức xúc tiến thương mại tại nhiều quốc gia là thị trường chính như Pakistan, Thổ Nhỉ Kỳ, Nga,…
Chính sách nhập khẩu của các nước nhập khẩu:
Theo quy định mới ban hành của Liên minh châu Âu (EU), tất cả các lô hàng chè nhập vào đây phải đảm bảo dư lượng thuốc trừ sâu không quá 0,01 ppm (ppm: phần triệu) thay vì 0,1 ppm như trước đây. Giới hạn dư lượng ethion mà EU quy định 3 ppm trong năm 2002 và 2 ppm trong năm 2003 thì nay cũng được hạ xuống còn 0,01 ppm như tất cả các loại thuốc trừ sâu khác. Đơn vị xuất khẩu phải gửi mẫu chè cho đối tác nhập khẩu để xét nghiệm, nhằm xác định liệu dư lượng thuốc trừ sâu có nằm trong giới hạn cho phép hay không. Thủ tục này mất thêm nhiều thời gian và cũng khó thực hiện cho từng chuyến hàng bởi rất tốn kém. Đây cũng là khó khăn đối với các nhà xuất khẩu chè trên thế giới nói chung và ngành chè Việt Nam khi thâm nhập thị trường này.
Đối với Nga, chiến lược là nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng thiết yếu của người tiêu dùng trong nước, do Nga chỉ sản xuất đủ đáp ứng 1% nhu cầu và dự trữ quốc gia đề phòng chiến tranh và thiên tai; cung cấp nguyên liệu cho các công ty nội địa chế biến đóng gói chè đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng trong nước. Chính sách nhập khẩu chè là khuyến khích nhập khẩu, không áp dụng biện pháp hạn chế toàn phần và từng phần ,hỗ trơ các nhà máy chế biến đóng gói chè nội địa để khuyến khích nhập chè rời ,hạn chế nhập chè gói; đánh thuế nhập khẩu chè cao buộc người tiêu dùng nga phải trả giá cao cho loại đồ uống thiết yếu.
Đối với Mỹ, chè thuộc trong số nhóm mặt hàng khó nhập khẩu vào nước này và phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ của Cơ quan quản lý an toàn thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA). Theo luật Mỹ, chè không đủ độ tinh khiết, không đạt chất lượng và không phù hợp cho tiêu dùng theo các tiêu chuẩn thống nhất sẽ không được phép nhập khẩu. Người nhập khẩu hoặc nhận hàng có trách nhiệm cung cấp mẫu đại diện cho từng loại chè có ghi trong hóa đơn giao hàng để FDA kiểm tra đối chiếu với mẫu chè chuẩn. Chi phí kiểm tra do người nhập khẩu chịu. Nếu kết quả kiểm tra lại vẫn không đạt so với mẫu chuẩn thì người nhập khẩu phải tái xuất toàn bộ lô hàng trong vòng 6 tháng kể từ ngày có kết quả kiểm tra cuối cùng. Nếu hết 6 tháng hàng chưa được tái xuất thì sẽ bị tiêu hủy. Theo Luật chống khủng bố sinh học mới ban hành, những cơ sở sản xuất, chế biến và đóng gói thực phẩm dành cho người và gia súc, trong đó có chè, nếu muốn xuất khẩu vào Mỹ thì phải đăng ký với cơ quan FDA. Ngoài ra, các cơ sở này phải lưu giữ các chứng từ giao nhận nguyên liệu và sản phẩm để tạo điều kiện cho FDA điều tra trong những trường hợp có nghi ngờ xẩy ra khủng bố sinh học. Nội dung đăng ký gồm: tên, địa chỉ, các loại thực phẩm do cơ sở sản xuất, kinh doanh và nhãn hiệu hàng hóa. Đối với cơ sở nước ngoài có sản phẩm tiêu thụ ở Mỹ nhưng không trực tiếp giao hàng vào Mỹ mà được chế biến tiếp và đóng gói ở nước thứ ba khác trước khi nhập khẩu vào nước này thì không thuộc diện phải đăng ký. Tuy nhiên, nếu hàng chuyển qua nước thứ ba trước khi vào Mỹ nhưng không qua chế biến hay thay đổi nhãn hiệu hàng hóa thì cả chủ cơ sở sản xuất và người giao hàng chuyển tải ở nước thứ ba đều phải đăng ký.
Đối thủ cạnh tranh:
Các nước xuất khẩu chè lớn trên thế giới gồm có: Ấn Độ, Trung Quốc, Sri Lanka, In-đô- nê-xia và Kenya. Tổng sản lượng chè của những nước này chiếm khoảng 75% tổng lượng chè sản xuất trên thế giới. Ở Châu Phi- các nước xuất khẩu chè lớn như Kenya, Malawi, Tanzania, Zim-ba- buê và Nam Phi chiếm 25% sản lượng chè xuất khẩu của thế giới. Trong hai tháng đầu năm 2009, lượng sản xuất chè của các nước này đã giảm mạnh.
Trung quốc, xuất khẩu chè của nước này đã tăng 4,5% trong 4 tháng đầu năm 2009 trong khi tổng xuất khẩu đã giảm hơn 20% so với cùng kỳ năm ngoái. Chè là mặt hàng tiêu dùng hàng ngày và nhu cầu tiêu thụ của Trung Quốc tăng đáng kể bất chấp kinh tế suy giảm. Do dự trữ chè trên thị trường thế giới giảm, xuất khẩu chè của nước này sẽ tăng hơn nữa trong nửa cuối năm nay. Trung Quốc đã xuất khẩu 297.000 tấn chè, trị giá 682 triệu USD trong năm 2008, chiếm 1/5 tổng mậu dịch chè toàn cầu. Trung Quốc đã xuất khẩu vào hơn 120 nước và có 80 triệu dân làm việc trong ngành chè. Mặc dù Trung Quốc là nước xuất khẩu chè lớn thứ 3 thế giới, nước sản xuất chè lớn nhất thế giới, song nước này vẫn vấp phải nhiều thách thức trong việc xây dựng tiêu chuẩn sản xuất, hệ thống kiểm soát chất lượng và phát triển bán chè sang thị trường thế giới.
Kenya là nước xuất khẩu chè đen lớn nhất thế giới, và là nước đứng thứ hai thế giới về tổng khối lượng xuất khẩu chè. Kể từ cuối năm 2007 trở lại đây thì tình hình sản xuất chè xuất khẩu của Kenya không được ổn định, sản lượng bị giảm do ảnh hưởng của thời tiết.
Sri Lanka là nước xuất khẩu chè lớn nhất thế giới. Mặt dù cũng chịu ảnh hưởng bởi thời tiết không thuận lợi và tình hình khủng hoảng kinh tế thế giới khiến sản lượng chè của Sri Lanka nhưng Sri Lanka vẫn là đối thủ đáng gờm nhất trên thị trường chè thế giới. Bất chấp mọi khó khăn, ngành xuất khẩu chè của nước này vẫn đạt được hai kỹ lục trong năm 2008 khi đạt sản lượng và kim ngạch xuất khẩu là 318,5 triệu kg và 1,22 tỷ USD.
Ấn Độ cũng là nước có sản lượng chè xuất khẩu hàng đầu thế giới, chỉ trong 2 tháng đầu năm 2009 nước này đã xuất khẩu 36,8 triệu kg gấp hơn 2,5 lần của Việt Nam (14,209 triệu kg).
CHƯƠNG 2:
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU CHÈ CỦA VIỆT NAM
Những khó khăn và thuận lợi của chè Việt Nam
Qua những phân tích về thị trường chè thế giới và chính sách nhập khẩu của các nước nhập khẩu, đối thủ cạnh tranh cũng như tiềm lực xuất khẩu chè của Việt Nam và chính sách điều hành xuất khẩu của Việt Nam chúng ta có thể nhận thấy được điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và đe dọa cho mặt hàng này:
Về điểm yếu
Thiếu sự lãnh đạo và kết hợp giữa người dân và doanh nghiệp gây ra nhiều khó khăn trong công tác quản lý về chất lượng, số lượng và giá cả. Đây là nguyên nhân làm cho nguồn cung chè luôn bị biến động và chất lượng chè không cao.
Chưa có đầu tư cho thương hiệu chè: hiện nay thị trường xuất khẩu chè của Việt Nam rất lớn nhưng lại không có một thương hiệu lớn nào tương sứng với tiềm lực hiện tại, làm cho giá trị xuất khẩu không cao.
Xuất khẩu chè hiện nay phần lớn ở dạng thô, không qua chế b
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân tích tình hình xuất khẩu chè sang thị trường Nhật Bản.DOC