MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA CÔNG TÁC GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG. 3
I. SỰ CẦN THIẾT VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CÔNG TÁC GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG (GPMB). 3
1.Khái niệm giải phóng mặt bằng và bồi thường giải phóng mặt bằng. 3
2. Sự cần thiết của công tác giải phóng mặt bằng. 6
2.1. Giải phóng mặt bằng là yêu cầu tất yếu của quá trình đổi mới. 6
2.2. Công tác giải phóng mặt bằng góp phần đẩy nhanh công tác thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. 7
II. THẨM QUYỀN CỦA CÁC CƠ QUAN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG CÔNG TÁC GIẢI PHÓNG MẶT BÀN. 9
1. Bản chất của giải phóng mặt bằng. 9
2. Những căn cứ pháp lý cho công tác giải phóng mặt bằng. 10
3. Các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền trong công tác GPMB. 12
3.1. Thẩm quyền thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: 12
3.2. Thẩm quyền thực hiện công tác GPMB. 13
3.3. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại. 13
III. CÁC QUY ĐỊNH ĐỀN BÙ SAU GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG. 14
1. Bồi thường thiệt hại đất. 14
2. Bồi thường thiệt hại tài sản. 15
3. Chính sách hỗ trợ. 15
3.1.Hỗ trợ di chuyển. 15
3.2. Hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất. 15
3.3. Hỗ trợ chuyển đổi nhề nghiệp và tạo việc làm. 16
3.4. Hỗ trợ cho người đang thuê nhà không thuộc sở hữu Nhà nước. 17
3.5. Hỗ trợ khi thu hồi đất công ích của xã, phường, thị trấn. 17
3.6. Hỗ trợ khác. 17
CHƯƠNG II.THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG TẠI CÁC ĐÔ THỊ. 17
I.TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÔNG TÁC GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG TRÊN ĐỊA BÀN CÁC ĐÔ THỊ. 17
1. Những kết quả đạt được trong thời gian qua trong công tác giải phóng mặt bằng tại các đô thị. 17
2. Những tồn tại cần khắc phục. 19
3.Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác giải phóng mặt bằng. 21
II. CÁC YÊU CẦU ĐỐI VỚI CÔNG TÁC GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG. 24
1. Đảm bảo tiến độ nhanh chóng, kịp thời, chính xác. 24
2. Đảm bảo công khai, minh bạch và dân chủ. 24
3. Đảm bảo hài hoà lợi ích các bên có liên quan. 25
CHƯƠNG III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG TRÊN ĐỊA BÀN CÁC ĐÔ THỊ. 27
I.PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHIỆM VỤ CỦA CÔNG TÁC GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG TRONG THỜI GIAN TỚI. 27
1. Phương hướng đổi mới công tác giải phóng mặt bằng. 27
2. Nhiệm vụ công tác giải phóng mặt bằng trong thời gian tới. 28
II. GIẢI PHÁP CHO CÔNG TÁC GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG. 29
1. Công bố, công khai chi tiết các vấn đề liên quan đến dự án (mặt bằng xây dựng, quy hoạch, chính sách đền bù, thẩm quyền của các cơ quan chức năng). 29
2. Chính sách đền bù, hỗ trợ cho người có đất bị thu hồi. 29
3. Đẩy nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tăng cường quản lý nhà nước về đất đai. 30
4. Công tác tuyên truyền giáo dục. 31
5. Nâng cao năng lực quản lý, trình độ chuyên môn, phẩm chất của cán bộ trong công tác GPMB. 32
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ. 34
KẾT LUẬN 36
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: 38
38 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9788 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp đẩy nhanh tiến độ thực hiện công tác giải phóng mặt bằng trên địa bàn các đô thị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m tra việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cả nước (tỉnh và thành phố trực thuộc trung ươngt).
+ UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh tổ chức việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương cấp dưới trực tiếp.
+ UBND xã, phường, thị trấn tổ chức chỉ đạo việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của địa phương; chống lại, ngăn chặn hành vi sử dụng đất trái với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được công bố.
+ Bộ quốc phòng, Bộ công an tổ chức thực hiện việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất vào mục đích quốc phòng - an ninh trình Chính phủ xét duyệt.
3.2. Thẩm quyền thực hiện công tác GPMB.
+ UBND các cấp phối hợp với các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, tổ chức đoàn thể vận động người bị thu hồi đất tự giác thực hiện quyết định thu hồi đất, GPMB. Trường hợp đã thực hiện đúng các quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư, người bị thu hồi đất cố tình không thực hiện quyết định thu hồi đất thì cơ quan quyết định thu hồi đất ra quyết định cưỡng chế và tổ chức thực hịên cưỡng chế theo quy định của pháp luật.
+ Căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương, UBND cấp tỉnh phân cấp hoặc uỷ quyền cho UBND cấp huyện ra quyết định cưỡng chế và thực hiện cưỡng chế.
+ Căn cứ vào tình hình thực tế tại địa phương, UBND cấp tỉnh giao việc thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho:
. Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh.
Các thành viên trực thuộc hội đồng cấp huyện bao gồm: Lãnh đạo UBND cấp huyện làm chủ tịch hội đồng; các thành viên có: đại diện của cơ quan tài chính, chủ đầu tư, đại diện cơ quan tài nguyên & môi trường, đại diện UBND cấp xã có đất bị thu hồi, đại diện của hộ gia đình bị thu hồi đất từ một đến hai người.
Tuỳ tình hình từng địa phương mà hội đồng có thể có thêm các thành viên khác.
. Tổ chức phát triển quỹ đất.
3.3. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại.
+ Người bị thu hồi đất nếu chưa đồng ý về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư thì được khiếu nại theo quy định của pháp luật. Trách nhiệm giải quyết khiếu nại, thời hiệu giải quyết khiếu nại thực hiện theo quy định tại Điều 138 của Luật đất đai năm 2003 và Điều 162, 163, 164 NGhị định số 181/2004/ NĐ- CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi hành Luật đất đai.
+ Trong khi chờ giải quyết khiếu nại, người bị thu hồi đất vẫn phải chấp hành quyết định thu hồi đất, giao đất đúng kế hoạch và thời gian đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định.
Như vậy thẩm quyền thực hiện công tác GPMB có sự tham gia của UBND các cấp (cấp tỉnhc, cấp huyện, cấp xã), các sở, ban, ngành (sởs, ban, ngành cấp tỉnh: Sở tài chính, Sở xây dựng, quy hoạch & kiến trúc, Sở tài nguyên & môi trường), trách nhiệm của các bộ (Bộ tài chínhB, Bộ kế hoạch & đầu tư, Bộ xây dựng, Bộ tài nguyên & môi trường), chủ đầu tư. Ngoài ra còn có đại diện của những hộ bị thu hồi đất. Việc tham gia đầy đủ của các bên trong công tác GPMB đảm bảo cho lợi ích của Nhà nước, chủ đầu tư cũng như lợi ích của người bị thu hồi đất, của cộng đồng và xã hội.
III. CÁC QUY ĐỊNH ĐỀN BÙ SAU GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG.
Nghị định số 197/2004/NĐ- CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 của Chính phủ quy định việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất như sau:
1. Bồi thường thiệt hại đất.
- Người bị thu hồi đất đang sử dụng vào mục đích nào thì được bồi thường bằng việc giao đất mới có cùng mục đích sử dụng, nếu không có đất để bồi thường thì được bồi thường bằng giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm có quyết định thu hồi; trường hợp bồi thường bằng việc giao đất mới hoặc bằng nhà có chênh lệch về giá trị thì phần chênh lệch đó được thực hiện thanh toán bằng tiền.
- Trường hợp người sử dụng đất được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất mà chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính về đất đai đối với Nhà nước thì phải trừ đi khoản tiền phải thực hiện nghĩa vụ tài chính vào số tiền được bồi thường, hỗ trợ để hoàn trả Ngân sách nhà nước.
- Giá đất để tính bồi thường là giá đất theo mục đích sử dụng tại thời điểm có quyết định thu hồi đất do UBND cấp tỉnh công bố theo quy định của Chính phủ; không bồi thường theo giá đất sẽ được chuyển mục đích sử dụng.
2. Bồi thường thiệt hại tài sản.
- Chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất mà bị thiệt hại thì được bồi thường.
- Chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất khi Nhà nước thu hồi đất mà đất đó thuộc đối tượng không được bồi thường thì tuỳ từng trường hợp cụ thể được bồi thường hoặc hỗ trợ tài sản.
- Nhà, công trình khác gắn liền với đất được xây dựng sau khi quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất công bố mà không được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép xây dựng thì không được bồi thường.
- Nhà, công trình khác gắn liền với đất được xây dựng sau ngày 07 tháng 7 năm 2004 mà tại thời điểm xây dựng đã trái với mục đích sử dụng đất đã được xác định trong quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã xét duyệt thì không được bồi thường.
- Hệ thống máy móc, dây chuyền sản xuất có thể tháo dời và di chuyển được thì chỉ được bồi thường các chi phí tháo dỡ, vận chuyển, lắp đặt và thiệt hại khi tháo dỡ, vận chuyển, lắp đặt; mức bồi thường do UBND cấp tỉnh quy định phù hợp với pháp luật hiện hành và thực tế ở địa phương.
3. Chính sách hỗ trợ.
3.1.Hỗ trợ di chuyển.
Hộ gia đình, tổ chức khi Nhà nước thu hồi đất đủ điều kiện được bồi thường thiệt hại thì khi di chuyển chỗ ở, di chuyển cơ sở được hỗ trợ cho chi phí thực tế về di chuyển, tháo dỡ và lắp đặt; mức hỗ trợ cụ thể do UBND cấp tỉnh quy định.
Người bị thu hồi đất ở không còn chỗ ở khác trong thời gian tạo lập chỗ ở mới được bố trí nhà ở tạm hoặc hỗ trợ tiền thuê nhà; mức hỗ trợ cụ thể do UBND cấp tỉnh quy định phù hợp với thực tế tại địa phương.
3.2. Hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất.
Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi trên 30% diện tích đất nông nghiệp được giao, được hỗ trợ ổn định đời sống.
Khi Nhà nước thu hồi đất của tổ chức kinh tế, hộ sản xuất kinh doanh có đăng kí kinh doanh mà bị ngừng sản xuất kinh doanh được hỗ trợ ổn đinh sản xuất.
Mức hỗ trợ cụ thể cho các trường hợp trên do UBND cấp tỉnh quy định cho phù hợp với thực tế ở địa phương.
3.3. Hỗ trợ chuyển đổi nhề nghiệp và tạo việc làm.
Hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp khi Nhà nước thu hồi trên 30% diện tích đất nông nghiệp được giao, được hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cho người trong độ tuổi lao động; mức hỗ trợ và số lao động cụ thể được hỗ trợ do UBND cấp tỉnh quy định cho phù hợp với thực tế ở địa phương.
Việc hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp được thực hiện chủ yếu bằng hình thức cho đi học nghề tại các cơ sở dạy nghề.
3.4. Hỗ trợ cho người đang thuê nhà không thuộc sở hữu Nhà nước.
Khi bị thu hồi nhà sẽ được Nhà nước hỗ trợ di chuyển, ngoài ra có thể hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất cho hộ gia đình, cá nhân.
3.5. Hỗ trợ khi thu hồi đất công ích của xã, phường, thị trấn.
Khi thu hồi đất này sẽ được hỗ trợ, mức hỗ trợ cao nhất có thể bằng mức bồi thường; mức hỗ trợ cụ thể do UBND cấp tỉnh quy định; tiền hỗ trợ được nộp vào Ngân sách nhà nước và được đưa vào dự toán ngân sách hàng năm của xã, phường, thị trấn.
3.6. Hỗ trợ khác.
Căn cứ vào tình hình địa phương, chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định biện pháp hỗ trợ khác để ổn định đời sống và sản xuất cho người bị thu hồi đất.
CHƯƠNG II.THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG TẠI CÁC ĐÔ THỊ.
I.TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÔNG TÁC GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG TRÊN ĐỊA BÀN CÁC ĐÔ THỊ.
1. Những kết quả đạt được trong thời gian qua trong công tác giải phóng mặt bằng tại các đô thị.
Dưới sự chỉ đạo sát sao của Đảng uỷ, HĐND, UBND các cấp, cùng sự phối hợp của các sở, ban, ngành trong thời gian qua phần lớn các dự án có sử dụng đất đã cơ bản hoàn thành xong công tác GPMB và bàn giao mặt bằng cho các chủ dự án tiến hành thi công, xây lắp công ttrình. Nhờ công tác GPMB được đẩy nhanh, cả nước đã hoàn thành xong hàng chục khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu chế xuất. Các tuyến đường giao thông được cải tạo, mở rộng và xây mới phục vụ cho nhu cầu giao thông, thương mại. Tại thành phố Hà Nội đã thực hiện xong dự án xây dựng con đường Láng - Hoà Lạc dẫn đến khu Liên hiệp Thể thao Quốc gia đã được sử dụng trong nhiều năm qua, mới đây đã hoàn thành xong dự án mở rộng nút giao thông đô thị Ngã tư Sở, Ô Chợ Dừa - Kim Liên… Công tác GPMB được thực hiện tốt tạo điều kiện cho nhiều dự án lớn phát triển, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp - dịch vụ - thương mại - nông nghiệp. Xây dựng các khu công nghiệp tập trung, di chuyển các cơ sở sản xuất công nghiệp ô nhiễm ra khỏi nội thành và khu dân cư, giải quyết việc làm cho phần lớn lao động. Cơ cấu đô thị phát triển theo hướng đồng bộ, hiện đại với nhiều nút giao thông quan trọng.
Công tác tuyên truyền phổ biến tới người dân đã được thực hiện tích cực. Một số địa bàn cấp cơ sở đã có sự tham gia tuyên truyền của các tổ chức chính trị, các đoàn thể xã hội như: Mặt trận tổ quốc cấp xã, phường, thị trấn; hội cựu chiến binh, hội phụ nữ xã… đã góp phần không nhỏ trong công tác GPMB. Ghi nhận sự hy sinh, tự giác, tự nguyện, những đóng góp to lớn của người dân, đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác GPMB đặc biệt cán bộ cơ sở.
Các chủ dự án và chính quyền các cấp đã coi trọng công tác công bố công khai chi tiết tới các hộ gia đình trong diện bị thu hồi đất trên các phương tiện thông tin đại chúng ở địa phương.
Chính sách đền bù đã thông thoáng và mềm dẻo hơn, đã có khung giá đền bù cụ thể của Nhà nước và ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết việc bồi thường hợp lý và giá đền bù đối với đất, tài sản trên đất đã sát với giá thị trường hơn nhưnng cần được điều chỉnh một số bất cập. Chủ động quỹ nhà, quỹ đất, bằng nhiều nguồn lực tạo quỹ nhà ở tái định cư qua việc đặt hàng mua nhà của các dự án kinh doanh nhà ở, đầu tư ngân sách vào các dự án xây dựng nhà chung cư cung cấp cho người dân ổn định chỗ ở khi bị thu hồi đất.
Chính quyền các cấp đã chú trọng điều chỉnh, bổ sung các chính sách cho phù hợp với thực tiễn, tạo điều kiện cho các chủ đầu tư tham gia dự án.
Công tác giải quyết các đơn từ khiếu nại tố cáo đã giải quyết một phần nhưng cần nhanh chóng và dứt điểm hơn.
Hàng năm và trước mỗi dự án đều có chương trình huấn luyện, đào tạo, nâng cao kiến thức chuyên môn cho cán bộ trực tiếp tham gia công tác GPMB. Các sai pham của cán bộ được xử lý nghiêm minh trước pháp luật (một số chủ dự án về xây dựng nhà tái định cư không đủ tiêu chuẩn chất lượng đã bị xử lým, cán bộ tham ô, tham nhũng Ngân sách nhà nước trong công tác đền bù GPMB phải đứng trước vành móng ngựa…).
Như vậy mặc dù Đảng và Nhà nước ta phải tập trung cho nhiều công tác khác nhau (chuẩn bị cho hội nghị APECc, cho bước đầu tham gia vào tổ chức thương mại thế giới WTO….) nhưng vẫn đẩy mạnh công tác GPMB và thu được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên công tác GPMB vẫn còn nhiều khó khăn phức tạp, và là nhiệm vụ lâu dài cần có định hướng cụ thể trong những năm tới.
2. Những tồn tại cần khắc phục.
Công tác GPMB trong những năm qua đã đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận nhưng cũng còn gặp nhiều khó khăn và vướng mắc.
Khi thực hiện công tác điều tra kê khai diện tích đất, tài sản trên đất chưa chính xác, việc xác định chủ sở hữu chưa chặt chẽ, một số trường hợp trên địa bàn còn xác định sai chủ sở hữu.
Các văn bản, chính sách khi ban hành chưa chặt chẽ còn nhiều kẽ hở, từ ngữ khó hiểu, khó áp dụng ngay mà còn phải điều chỉnh nhiều. Sự điều chỉnh trong giá đền bù quá lớn hoặc chưa thực sự hợp lý với quy định của pháp luật hoặc không phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương. Chính sách hỗ trợ công trình, vật kến trúc thấp không đáp ứng được giá trị của các hộ trước đó đã bỏ tiền ra xây dựng.
Công tác tuyên truyền chưa đem lại hiệu quả cao. Một số công dân không nhận giấy mời hoặc không tới dự họp, gây khó khăn cho công tác kê khai diện tích đất và tài sản trên đất.
Công tác công khai công bố dự án đầu tư chưa thực hiện tốt, mới thực hiện cho có mà không chú ý tới vai trò của quần chúng nhân dân - những người bị thu hồi đất.
Công tác quản lý đất đai còn lỏng lẻo, chưa xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm trong sử dụng đất, công tác cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở còn chậm trễ.
Chính sách đền bù: mức bồi thường, hình thức bồi thường còn nhiều bất cập.
Một số cán bộ còn cửa quyền trong công tác quản lý đất đai, công tác GPMB, còn xuất hiện các hiện tượng mắc ngoặc, tham ô, tham nhũng…
Tại Thành phố Hà Nội công tác GPMB phục vụ dự án đường Kim Liên - Ô Chợ Dừa đã phải cưỡng chế đợt hai. Đợt hai đã có 12 hộ dân trong 13 hộ đã chấp thuận phương án đền bù và tự nguyện di dời; các hộ chưa chịu nhận tiền bồi thường do thắc mắc về mức hỗ trợ một phần diện tích. Như vậy đơn cử từ công tác GPMB ở nút giao thông Kim Liên - Ô Chợ Dừa đã gặp khá nhiều khăn phải dùng đến biện pháp cưỡng chế. Biện pháp cưỡng chế người dân di dời, tháo dỡ công trình, vật kiến trúc giao lại mặt bằng là điều không thể tránh khỏi.Tuy nhiên trong dự án này đã phải hai lần cưỡng chế các hộ di dời giao lại mặt bằng vẫn còn một hộ chưa chịu chấp hành lại là một điều đáng bàn cần được các cấp, các ngành xem xét lại cách quản lý và thực hiện công tác trong dự án này (Theo báo Tinh tế & đô thị ra ngày 18-9-2006).
Tại thị xã Bạc Liêu còn xôn xao trong dư luận về vấn đề đền bù theo kiểu… “ sống chết mặc bay”. Đó là dự án xây dựng và kinh doanh thuộc khu dân cư phường 2 - thị xã Bạc Liêu với tổng diện tích đất bị thu hồi là 54 ha đất, ảnh hưởng tới 156 hộ dân do công ty Đầu tư kinh doanh 577 thuộc tổng công ty Công trình giao thông 5 - Bộ giao thông vận tải làm chủ đầu tư. Mức bồi thường được thống nhất tuỳ theo loại đất và khung giá khác nhau (Mức bồi thường được thống nhất giữa chủ đầu tư và Chủ tịch UBND thị xãM): đất phi nông nghiệp mức đền bù là 73.000 đồng /m2, đất nông nghiệp: 44.000 đồng /m2, đất ở: 150.000 đồng /m2. Nhưng khi áp dụng người dân chỉ nhận chung một đơn giá: 18.000 đồng /m2 cho tất cả các loại đất, riêng đất nông nghiệp được nhà đầu tư “ hỗ trợ thêm” 3.000 đồng /m2 gọi là “ cho thêm” công khai phá, cải tạo… Riêng đất giải quyết cho vấn đề tái định cư sau quy hoạch được nêu rõ trong phương án bồi thường: với hộ đơn lẻ được đổi một nền nhà theo quy đinh phân lô tại nơi tái định cư. Trường hợp hộ nhiều thế hệ được đổi hai nền nhà theo quy hoạch và có thể được xét theo giá không kinh doanh với hộ nghèo… Nhưng các quy định chính sách đã không được nhà đầu tư thực hiện đúng mà áp dụng bán nền nhà tái định cư (với giá bằng nhauv). Ví dụ: nếu hộ có diện tích trên 1000m2 thì được mua lại nền nhà tái định cư với giá “ ưu đãi” 12 triệu đồng /m2, còn hộ có diện tích dưới 1000m2 thì giá mua sẽ là 13 triệu đồng /m2 kể cả hộ nghèo hay gia đình chính sách. Với giá đắt đỏ thế này khiến cho nhiều hộ rơi vào cảnh mất đất, mất nhà vì phần lớn là hộ nghèo.
Chính quyền thị xã cũng không bảo vệ người dân lại lấy lý do để kịp giao đất cho nhà đầu tư đã “ khuyến khích” các hộ dân nhận tiền bồi thường và sớm ra khỏi vùng quy hoạch. Nhiều tháng nay hàng trăm hộ có đất bị thu hồi đã gửi đơn yêu cầu các cơ quan chức năng tỉnh giải quyết nhưng vẫn chưa được giải quyết… ( Theo tin tức cuối tuần số 44 từ ngày 2/11- 8/11).
Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn do tính chất phức tạp của nó. Có nhiều đơn thư khiếu nại được gửi lên các cấp chính quyền. Cũng theo thời báo tin tức cuối tuần số 43 ra ngày 1-11-2006 đưa tin hộ ông Lê Trung Hoàn trú tại 01/86 Phan Chu Trinh, phường Đông Thọ, thành phố Thanh Hoá có đơn thư khiếu nại chính quyền Thanh Hoá thực hiện cưỡng chế thu hối diện tích đất ở của gia đình ông không tuân thủ theo quy định của pháp luật. Thẩm quyền thu hồi đất của gia đình ông thuộc UBND Thành phố nhưng đến nay không hề nhận được quyết định nào về thu hồi đất. Diện tích đất đó lại không thuộc phạm vi xây dựng quảng trường Lam Sơn. Mục đích thu hồi đất là bán để tạo kinh phí đền bù GPMB dự án xây dựng quảng trưòng Lam Sơn không đúng quy định của Luật đất đai về các trường hợp thu hồi đất. Trong khi gia đình ông đã sinh sống ổn định, có quyền sử dụng hợp pháp nhà, đất mà không bố trí tái định cư.
Như vậy còn rất nhiều tồn tại, khó khăn trong công tác GPMB cần được các cấp chính quyền quan tâm, đặc biệt là công tác đền bù GPMB để giảm sự khiếu nại tố cáo xuất phát từ người bị thu hồi đất.
3.Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác giải phóng mặt bằng.
Công tác GPMB trên nhiều địa bàn còn gặp khó khăn do người bị thu hồi đất chưa chịu di dời và tháo dỡ công trình để giao mặt bằng cho chủ đầu tư hoặc gửi đơn khiếu nại tố cáo tới cơ quan nhà nước cấp có thẩm quyền. Nguyên nhân chủ yếu của những vấn đề trên được xem xét trên nhiều khía cạnh.
Khi thực hiện công tác kê khai phục vụ cho GPMB đã xuất hiện nguồn gốc đất của một số hộ đang sử dụng là không hợp pháp, không rõ nguồn gốc. Qua thời gian sử dụng lâu dài và cơi nới thêm và họ nhầm tưởng mảnh đất đang sử dụng hợp pháp, thực tế họ không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc các giấy tờ chứng minh nguồn gốc hợp pháp do đó khi bị thu hồi đất GPMB mà không được bồi thường thiệt hại về đất thì cho rằng chính quyền đã làm sai. Một số mảnh đất khi bị thu hồi bồi thường xảy ra tranh chấp về ranh giới, diện tích và một số tài sản trên đất giữa các hộ giáp ranh. Một số hộ có diện tích thực tế lớn hơn diện tích trong hồ sơ địa chính nhưng khi bồi thường lại yêu cầu các cấp chính quyền phải bồi thường theo đúng diện tích thực tế; trong quá trình sử dụng các hộ gia đình đã cơi nới thêm nhưng không bị chính quyền cấp xã xử lý triệt để mà chỉ bị xử phạt hành chính. Một số hộ có công trình, vật kiến trúc, nhà ở mua qua nhiều chủ hoặc không trực tiếp sử dụng mà cho thuê lâu dài dẫn đến khi xác định chủ không chính xác. Đây chính là hậu quả của việc quản lý đất đai chưa chặt chẽ trong thời gian trước đây.
Một nguyên nhân khác nữa là do công tác tuyên truyền chưa thực sự có hiệu quả. Có hộ nhất quyết không chịu giao mặt bằng cho chủ dự án là chủ các doanh nghiệp, họ chỉ sẵn sàng trả lại đất khi mảnh đất của họ thu hồi để xây dựng các công trình quốc gia. Một số hộ cho rằng các doanh nghiệp tư nhân phải bồi thường với mức giá cao hơn so với doanh ngiệp nhà nước. Trong khi đó quy định của Nhà nước là 5 thành phần kinh tế đều được hưởng chính sách đầu tư và phát triển như nhau. Dẫn đến tình trạng khiếu kiện kéo dài từ năm này qua năm khác.
Một số dự án lại không được công bố công khai hoặc công bố chưa rộng rãi đến người có đất thuộc diện bị thu hồi GPMB. Một số chủ dự án cho rằng dự án đang thực hiện có quy mô nhỏ nên không cần công bố công khai chi tiết nên khi thực hiện việc thu hồi, giải toả gặp sự phản kháng từ quần chúng nhân dân do chưa công bố, công khai, giải thích rõ ràng về các văn bản, chính sách có liên quan đến GPMB cho từng hộ.
Bất cập trong chính sách đền bù là nguyên nhân chính của việc khiếu nại, chậm trễ trong giao đất trả mặt bằng cho chủ dự án. Các văn bản hướng dẫn còn chưa đầy đủ, đồng bộ gây khó khăn trong việc xác định và phân loại mức bồi thường, giá bồi thường đất có những khu vực còn chưa hợp lý. Giá đất bồi thường được tính theo hạng nhưng có những hạng mức chênh lệch nhau khá lớn sẽ gây thắc mắc cho người dân. Các chính sách hỗ trợ, đền bù trên nhiều địa bàn còn áp dụng máy móc chưa có sự linh hoạt để phù hợp với từng địa phương (cần có sự điều chỉnh lợp lýc). Cần linh hoạt trong áp dụng hình thức đền bù, mức giá đền bù (chính sách về cung cấp nhà tái định cưc, nên đào tạo nghề gì cho phù hợp với những người phải thay đổi nghề nghiệp khi bị thu hồi đất…). Các chủ đầu tư vẫn chưa quan tâm đúng mức đến công tác xây dựng khu tái định cư, tiến độ xây dựng khu tái định cư rất chậm, chất lượng kém làm cho người dân hoang mang chưa chịu nhận tiền bồi thường. Việc bồi thường còn diễn ra chậm khiến người bị thu hồi đất lao đao trong việc ổn định lại cuộc sống sau khi bị thu hồi đất.
Công tác giải quyết đơn từ, khiếu kiện chưa kịp thời và dứt điểm. Một số đơn từ được gửi đến nhưng không được các cấp chính quyền giải quyết hoặc đùn đẩy trách nhiệm cho nhau khi đơn từ khiếu nại, tố cáo đó có liên quan đến một số cán bộ quản lý nhà nước về đất đai. Một số đơn từ trả lời một cách chung chung thiếu thực tế, chưa được trả lời cụ thể rõ ràng.
Một số dự án có sử dụng đất đã thực hiện xong công tác GPMB nhưng lại bị “ treo” gây sự nghi ngờ trong dân chúng, hoặc sau đó chia nhỏ đất để bán lấy tiền sử dụng cho mục đích đền bù và “ bỏ túi riêng” dẫn đến tình trạng thiếu tin tưởng của quần chúng nhân dân vào các cấp chính quyền, dẫn đến khiếu nại, tố cáo là tất yếu. Đạo đức của một số cán bộ trong đội ngũ cán bộ nhà nước ngày càng tha hoá, biến chất trong những năm gần đây đã được điểm mặt, chỉ tên trước công luận và pháp luật khiến cho dân chúng thiếu niềm tin vầo các nhà lãnh đạo, chưa triển khai thực hiện dự án đã bị sự phản đối đa số trong quần chúng nhân dân.
Tất cả những bất cập trên đã tạo ra nhiều kẽ hở trong việc quản lý đất đai và khó khăn trong thực hiện công tác GPMB. Công tác GPMB muốn được đẩy nhanh, đảm bảo kịp tiến độ cần phải giải quyết những khó khăn trên một cách triệt để. Thực hiện công tác GPMB cần sự phối kết hợp giữa Nhà nước, chủ đầu tư và quần chúng nhân dân, đây là yêu cầu bức thiết không chỉ trong công tác này mà cần được phát huy trong nhiều lĩnh vực để đáp ứng cho sự phát triển đất nước.
II. CÁC YÊU CẦU ĐỐI VỚI CÔNG TÁC GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG.
1. Đảm bảo tiến độ nhanh chóng, kịp thời, chính xác.
Đảm bảo tiến độ nhanh chóng, kịp thời, chính xác là một yêu cầu quan trọng và cấp thiết của công tác bồi thường thiệt hại GPMB. Nó ảnh hưởng đến nhiều yếu tố khác nhau về kinh tế, chính trị, văn hoá. Công tác GPMB nếu đảm bảo đúng yêu cầu này sẽ đẩy nhanh tiến độ thi công công trình và đưa công trình vào sử dụng đúng thời gian và kế hoạch đã đề ra. Ngược lại, công tác GPMB lại diễn ra chậm do nhiều nguyên nhân sẽ ảnh hưởng đến tiến độ thi công công trình xây dựng, dự án đầu tư gây thiệt hại cho vốn tư nhân hoặc Ngân sách nhà nước. Công tác GPMB diễn ra nhanh chóng sẽ rút ngắn thời gian thi công. Việc thi công công trình hoàn thành vượt mức về thời gian sẽ mang lại nhiều lợi ích trong thời đại ngày nay. Ngoài ra còn phải đảm bảo yêu cầu chính xác. Người thực hiện công tác GPMB phải đúng thẩm quyền được giao, đúng đối tượng sẽ tránh được tình trạng “ trên bảo dưới không nghe “ và hạn chế được các tệ nạn tham ô, tham nhũng từ một số cán bộ thoái hoá, biến chất nhân cách.
2. Đảm bảo công khai, minh bạch và dân chủ.
Đây là yêu cầu mà các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền phải đảm bảo khi thực hiện công tác GPMB. Công khai, dân chủ chính là công khai, phổ biến cho tất cả các đối tượng bị thu hồi đất, trong diện giải toả mặt bằng rõ các chính sách, mục tiêu, nhiệm vụ của dự án có liên quan. Công khai các văn bản pháp lý, các văn bản về quy mô, cơ cấu dự án, sơ đồ khu giải toả; đặc biệt là chính sách, phương án bồi thường, hỗ trợ cho các hộ gia đình có trong phương án đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt biết, tạo niềm tin trong dân chúng.
Dân chủ trong phương án đền bù là một yêu cầu quan trọng. Đền bù đúng đối tượng, đúng khung giá và đúng hình thức đã được quy định. Không phân biệt giữa người dân thường với những người có “ quan hệ” với các quan chức hay tự ý thêm bớt mức đền bù. Có như vậy mới tạo lòng tin cho người dân, người dân sẽ tự giác trả đất, GPMB và nhận đền bù, tránh được sự tiêu cực ở một số cán bộ - một vấn nạn ở nước ta trong công tác bồi thường thu hồi đất GPMB.
3. Đảm bảo hài hoà lợi ích các bên có liên quan.
Đảm bảo hài hoà lợi ích của các bên có liên quan là đảm bảo lợi ích của 3 đối tượng Nhà nước, chủ đầu tư và người dân bị thu hồi đất. Quy định quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của các bên trong công tác GPMB. Luật đất đai 1998 quy định “ đất đai thuộc sở hữu Nhà nước”, từ quy định này chúng ta có thể thấy được lợi ích nghiêng về phía Nhà nước, lợi ích của Nhà nước đặt lên trên nhất và Nhà nước áp đặt các biện pháp bắt buộc có liên quan đến đất đai đối với người dân sử dụng đất. Tuy nhiên Luật đất đai 1993 và gần đây nhất là Luật đất đai 2003 đã ra đời và sửa đổi từ “ đất đai thuộc sở hữu Nhà nước” thành “ đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý” mới thấy được hết tính đầy đủ của nó. Như vậy lợi ích của Nhà nước sẽ gắn liền với lợi ích của người dân. Nhà nước có quyền áp đặt việc thu hồi đất của người dân sử dụng vào mục đích an ninh quốc phòng, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, phát triển kinh tế nên người sử dụng đất bắt buộc phải tuân thủ. Nhưng khi Nhà nước thu hồi đất, Nhà nước có trách nhiệm bồi thường giá trị quyền sử dụng đất và các tài sản hợp pháp gắn kiền với đất cho người có đất bị thu hồi. Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân; Nhà nước đảm bảo lợi ích của nhân dân chính là đảm bảo lợi ích của mình. Chủ đầu tư khi tham gia dự án cũng có phần lợi ích trong đó, lợi ích của chủ đầu tư cũng được Nhà nước bảo đảm.
Như vậy trong công tác GPMB thì lợi ích giữa Nhà nước, chủ đầu tư và người dân có mối quan hệ chặt
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 111824.doc