A/Lời mở đầu
B/Giải quyết vấn đề
I/Một số vấn đề về cơ sở lý luận
1.Kinh tế đối ngoại và vai trò của nó trong nền kinh tế nước ta
2.Những cơ sở khách quan của việc hình thành và phát triển KTĐN
3.Những hình thức chủ yếu của KTĐN
3.1.Ngoại thương
3.2.Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất
3.3.Hợp tác khoa học kỹ thuật
3.4.Đầu tư quốc tế
4.Tác động của toàn cầu hoá đến kinh tế Việt Nam
4.1.Tác động tích cực
4.2.Tác động tiêu cực
5.Mục tiêu,phương hướng ,nguyên tắc cơ bản nhằm mở rộng và nâng cao
hiệu quả của KTĐN
5.1.Mục tiêu
5.2.Phương hướng
5.3.Nguyên tắc
II/Thực trạng của nền kinh tế đối ngoại nước ta
1.Về ngoại thương với các hoạt động xuất nhập khẩu
2.Về việc thu hút vốn và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả của nước ta
3.Về các hình thức thu hút vốn đầu tư và sử dụng vốn có hiệu quả
III/Những giải pháp để nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại
1.Những giải pháp mang tính lâu dài
2.Những giải pháp cótính trước mắt cần thực hiện ngay
28 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1357 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp để mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại của nước ta trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p các khách sạn hiện co để đảm bảo phục vụ du khách tốt hơn,nhất là trong dịp Seagame 22 lần đầu tiên được tổ chức tại Việt Nam.Chúng ta nên mở thêm các tua du lịch hấp dẫn ,phải có chính sách cho đầu tư cho du lịch mang tính tổng thể ,phải cải cách thủ tục hành chính ,tạo thuận lợi và sự hứng khởi cho du khách quốc tế ,đồng thời phải tích cực quảng bá hình ảnh của Việt Nam trên toàn thế giới để bạn bè thế giới biết đến Việt Nam là một điểm du lịch lý tưởng.
-Vận tải quốc tế:là hình thức vận chuyển hàng hoá và hành khách giữa hai hoặc nhiều nước .Sự ra đời của hình thức này xuất phát từ sự phân công lao động quốc tế và quan hệ kinh tế giữa các nước với nhau.Sự phát triển của vận tải quốc tế có tác dụng thu ngoại tệ thông qua vận tải và tiết kiệm chi ngoại tệ do phải thuê vận chuyển khi nhập khẩu hàng hoá.Vận tải quốc tế sử dụng các phương thức như :đường biển ,đường sắt ,đường bộ ,đường hàng khôngViệt Nam có vị trí địa lý quan trọng ,lại có nhiều hải cảng thuận tiện cho vận tải đường biển nên có thể phát huy thế mạnh của mình thông qua việc đẩy mạnh vận tải quốc tế.
-Xuất khẩu lao động ra nước ngoài và tại chỗ .Hình thức này đang được khuyến khích vi các nước phát triển có tỷ lệ tăng dân số thấp và có xu hướng giảm trong những năm tới ,đặc biệt với các ngành có cơ giới hoá và tự động hóa ,độc hại ,nguy hiểm hoặc cần nhiều lao động không lành nghề như xây dựng ,khai mỏ ,dịch vụ,công nghiệp nhẹ,công nghiệp lắp ráp ô tô ,điện tử đang rất cần lao động.Trong khi đó Việt Nam với dân số gần 80 triệu người ,kinh tế chưa phát triển ,là một nước có số lượng lao động lớn do đó việc xuất khẩu lao động mang lại rất nhiều lợi ích cả trước mắt cũng như lâu dài :thu được lượng ngoại tệ đáng kể cho người trực tiếp lao động và cho ngân sách Nhà nước,người lao động được rèn luyện tay nghề và thói quen hoạt động công nghiệp ở các nước có nền kinh tế phát triển và khi trở vế nước họ sẽ trở thành lực lượng lao động có chất lượng.Xuất khẩu lao động còn giúp chúng ta giải quyết việc làm cho đất nước,giảm tỷ lệ thất nghiệp.Do đó việc xúc tiến xuất khẩu lao động là một nhiệm vụ quan trọng của kinh tế đối ngoại,nhưng chúng ta cũng cần chú ý đến tay nghề của công nhân trước khi đưa đi nước ngoài phải đáp ứng được nhu cầu của nước ngoài về trình độ công nhân .
-Ngoài ra chúng ta còn có những hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ khác như dịch vụ thu bảo hiểm ,thông tin bưu điện ,dịch vụ kiều hối ,dịch vụ ăn uống ,tư vấn,môi giớiNhìn chung các dịch vụ này đang được phát triển mạnh ở nước ta nhưng đang ở giai đoạn bắt đầu phát triển với triển vọng to lớn.Tuy nhiên muốn phát triển chúng thành những ngành kinh tế chủ chốt trong nền kinh tế chúng ta phải có cách nhìn đúng đắn về chúng.
Như vậy tên đây chúng ta đã tìm hiểu về kinh tế đối ngoại và các hình thức của nó,vậy thì toàn cầu hoá -xu hướng tất yếu hiện nay có tác động gì tới kinh tế đối ngoại ở nước ta trên đường hội nhập?
4/Tác động của toàn cầu hoá tới kinh tế đối ngoại của Việt Nam.
4.1/Tác động tích cực:
Toàn cầu hóa giúp chúng ta mở rộng và đa dạng hoá thị trường xuất khẩu.Điều này thể hiện ở chỗ chúng ta ký kết các hợp định song phương ,đa phương ,chúng ta sẽ tiếp cận được với thị trường thế giới .Hiện nay chúng ta đang cố gắng để gia nhập Tổ chức thương mại thế giới WTO lúc đó Việt Nam sẽ mở rộng được thị trường xuất khẩu vì hàng rào thuế quan sẽ giảm đi,đặc biệt chúng ta còn được hưởng nhữnh ưu đãi cho nước đang phát triển.Mặt khác chúng ta còn tận dụng được cơ hội để thương lượng và giải quyết những tranh chấp thương mại ,như vụ tranh chấp thương mại giữa Việt Nam và Canada về giày và đế giày không thấm nước mà chúng ta đã thắng nhằm bảo vệ quyền lợi cho quốc gia trên thị trường quốc tế.Toàn cầu hoá vừa tạo ra sức ép vừa thúc đẩy Nhà nước ta cải thiện thủ tục hành chính đặc biệt là khâu thủ tục xuất nhập khẩu và giảm tiêu cực để thúc đẩy thương mại quốc tế Việt Nam phát triển.Vì khi chúng ta gia nhập AFTA,WTOchúng ta phải tuân thủ luật của các tổ chức này do đó chúng ta phải có những chính sách phù hợp .Điều này thể hiện rất rõ trong những năm gần đây ,Nhà nước ta luôn cải cách thủ tục hành chính theo hướng thông thoáng giúp cho các doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian và chi phí đẻ nâng cao sức cạnh tranh.Bên cạnh đó Đảng và Nhà nước ta luôn tích cực phòng chống tham nhũng,chống quan liêu ,chống phiền nhiễu cho các doanh nghiệp .Trong thực tế hiện nay luôn tồn tại những doanh nghiệp đưa hối lộ cho công chức Nhà nước,điều này gây ảnh hưởng rất tiêu cực đến sức cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp với nhau và với doanh nghiệp nước ngoài.Toàn cầu hoá vừa đặt ra yêu cầu vừa thúc đẩy sự phát triển của các ngành dịch vụ phục vụ xuất khẩu của Việt Nam.Tự do hoá thương mại sẽ buộc chúng ta phải phát triển các dịch vụ hổ trợ cho xuất khẩu.Bằng chứng là ,do sức ép cạnh tranh đã làm phong phú và nâng cao chất lượng các hình thức cung cấp dịch vụ của các ngành như bưu chính viễn thông ,ngân hàng ,giao thông ,vận tảiToàn cầu hoá giúp chúng ta đa dạng hoá và chuyển dịch cơ cấu theo hướng xuất khẩu thô ngày càng giảm và xuất khẩu hàng hoá tinh chế ngày càng tăng.Toàn cầu hoá cho phép chúng ta sử dụng được các nguồn lực từ bên ngoài như:vốn ,lao độngBên cạnh đó toàn cầu hoá còn giúp chúng ta xoá bỏ đi cái tâm lý ỷ lại của thời bao cấp và sự bảo hộ quá cao của Nhà nước để lại.Cụ thể các doanh nghiệp của chung ta đã chủ động hơn trong việc tìm kiếm thị trường ,tăng năng suất ,giảm chi phí để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp trong và ngoài nước.Toàn cầu hoá giúp chúng ta thu hút được vốn đầu tư..Tóm lại toàn cầu hoá với những sức ép của nó đã có những tác động tích cực tới nền kinh tế của nước ta như trên đã trình bày ,tuy vậy nó cũng không tránh khỏi những tác động tiêu cực mà chúng ta phải lưu ý tới.
4.2/Tác động tiêu cực
Chúng ta có thể bị thua thiệt trong thương mại quốc tế với các nước khác đặc biệt là các nước có trình độ phát triển cao ,dễ xảy ra tình trạng “cá lớn nuốt cá bé”.Các nước này thường ép buộc chúng ta đẩy nhanh quá trình tự do hoá thương mại trong khi đó chúng ta chưa làm tốt công tác chuẩn bị khi công cuộc hội nhập quốc tế đòi hỏi phải chuyển qua những bước mới .Các doanh nghiệp của chúng ta còn yếu cả về quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh và năng lực cạnh tranh.Trong khi đó các nước này lại xây dựng các hàng rào bảo hộ ngày càng tinh vi hơn ,bảo hộ cho các ngành như nông sản ,dệt may mà chúng ta có lợi thế xuất khẩu.Mặt khác các doanh nghiệp của chúng ta chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ ,vốn ít ,kinh nghiệm thương trường chưa nhiều ,năng lực cạnh tranh còn yếu(năm 2001 chúng ta xếp hạng 62 trên tổng số 75 nước xếp hạng về năng lực cạnh tranh),như vậy toàn cầu hoá lại đặt nước ta vào cuộc cạnh tranh khốc quyết liệt với các nước có sức cạnh tranh hơn chúng ta rất nhiều.Xuất khẩu của chúng ta còn phụ thuộc vào sự thay đổi giá cả quốc tế. Phần lớn xuất khẩu các mặt hàng nông sản phẩm nhưng giá các sản phẩm này trên thị trường quốc tế lại giảm đáng kể trong thời gian gần đây gây ảnh hưởng tới xuất khẩu .Các tranh chấp thương mại quốc tế đang diễn ra khá phổ biến nhưng chúng ta lại chưa chuẩn bị tốt khả năng cung cấp các thông tin cần thiết cho các cơ quan chức năng nước ngoài trong việc giải quyết các tranh chấp thương mại cũng như việc đề phòng xảy ra các tranh chấp đó.Đó là những ảnh hưởng tiêu cực của toàn cầu hoá tới nền kinh tế nước ta nói chung và kinh tế đối ngoại nói riêng,điều này đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu để từ đó đưa ra được những giải pháp đúng đắn và thích hợp.Muốn vậy điều đầu tiên chúng ta phải quán triệt mục tiêu ,phương hướng,nguyên tắc cơ bản nhằm phát triển kinh tế đối ngoại của nước ta.
5/Mục tiêu,phương hướng ,nguyên tắc cơ bản nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại của nước ta trong quá trình hội nhập với khu vực và thế giới.
Trước hết chúng ta cần khẳng định lại hiệu quả của kinh tế đối ngoại đối với nền kinh tế quốc dân đó là sự đóng góp vào việc giải quyết các mục tiêu kinh tế –xã hội như phát triển sản xuất ,đổi mới cơ cấu kinh tế ,tăng năng suất lao động xã hội ,tích luỹ ngoại tệ ,tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước giải quyết việc làm ,cải thiện đời sống nhân dân
5.1/Về mục tiêu
Đối nước ta việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh ,xã hội công bằng ,dân chủ và văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Trong thời kỳ quá độ này chúng ta mở rộng kinh tế đối ngoại để công nghiệp hoá,hiện đại hóa đất nước.Mục tiêu này phải được quán triệt một cách triệt để ở mọi ngành mọi cấp,cũng như trong các hoạt động của kinh tế đối ngoại.
5.2/Về phương hướng.
Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ :”Việt Nam sẵn sàng là bạn,là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế ,phấn đấu vì hoà bình ,độc lập và phát triển”,do vậy phương hướng cơ bản nhằm phát triển kinh tế đối ngoại là:đa phương hoá ,đa dạng hoá quan hệ kinh tế với mọi quốc gia ,mọi tổ chức kinh tế không phân biệt chế độ chính trị trên nguyên tắc tôn trọng độc lập ,chủ quyền ,bình đẳng cùng có lợi .Củng cố và tăng cường vị trí của Việt Nam ở các thị trường quen thuộc và với bạn hàng truyền thống ;tích cực thâm nhập ,tạo chỗ đứng ở các thị trường mới.Kinh tế đối ngoại là một trong các công cụ kinh tế bảo đảm cho việc thực hiện mục tiêu kinh tế –xã hội đề ra cho từng giai đoạn lịch sử cụ thể và phục vụ đắc lực cho mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.Chúng ta phải chủ động sáng tạo để hội nhập có hiệu quả vào nền kinh tế thế giới và khu vực ;phát huy ý chí tự lực tự cường ,kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài.Đó chính là phương hướng chính để nước ta phát triển kinh tế đối ngoại mà Đảng và Nhà nước ta đã xác định,trên cơ sở lập trường chính trị xã hội chủ nghĩa do Bác Hồ đã vạch ra.
5.3/Về nguên tắc:
Để hội nhập tốt với nền kinh tế thế giới và khu vực chúng ta cần quán triệt những nguyên tắc cơ bản sau:
-Nguyên tắc bình đẳng :đây là nguyên tắc có ý nghĩa rất quan trọng làm nền tảng cho việc thiêt lập và lựa chọn đối tác trong quan hệ giữa các nước.Nguyên tắc này xuất phát từ yêu cầu phải coi mỗi quốc gia trong cộng đồng quốc tế là một quốc gia độc lập có chủ quyền .Nó cũng bắt nguồn từ yêu cầu của sự hình thành và phát triển của thị trường quốc tế mà mỗi quốc gia là thành viên.Với tư cách là thành viên các quốc gia phải được đảm bảo có quyền tự do kinh doanh,
quyền tự chủ như mọi quốc gia khác .
-Nguyên tắc cùng có lợi:nếu nguyên tắc bình đẳng giữ vai trò chung cho việc hình thành và phát triển quan hệ đối ngoại ,thì nguyên tắc này lại giữ vai trò là nền tảng kinh tế để thiết lập và mở rộng quan hệ kinh tế giữa các nước với nhau.Cơ sở khách quan của nguyên tắc này bắt nguồn từ yêu cầu phải thực hiện đúng các quy luật kinh tế của thị trường diễn ra trên phạm vi thế giới mà mỗi quốc gia phải được đảm bảo về lợi ích kinh tế .Trong nền kinh tế thị trường thế giới ,nguyên tắc bình đẳng giữa các quốc gia sẽ là hình thức nếu các quốc gia tham gia không cùng lợi ích kinh tế.Nguyên tắc này còn là động lực kinh tế để thiết lập và duy trì lâu dài mối quan hệ kinh tế giữa các nước với nhau.Cùng lợi ích kinh tế là một trong những nguyên tắc làm cơ sở cho chính sách kinh tế đối ngoại và luật đầu tư nước ngoài,nó được cụ thể hoá thành những điều khoản làm cơ sở để kí kết trong các nghị định giữa các quốc gia với nhau hay với các tổ chức kinh tế thế giới.
-Nguyên tắc thứ ba là tôn trọng độc lập ,chủ quyền ,không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi quốc gia.Trong quan hệ kinh tế ,mỗi quốc gia đều có tư cách như nhau ,đều độc lập với nhau về chính trị ,kinh tế ,xã hội.Nguyên tắc này xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ kinh tế đối ngoại và nó đòi hỏi mỗi quốc gia tham gia phải thực hiện đúng:tôn trọng các điều khoản dã được kí kết giữa chính phủ và các tổ chức kinh tế với nhau;không được đưa ra những điều khoản làm tổn hại đến lợi ích của nhau;không được dùng những thủ đoạn có tính chất can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi nước,nhất là thủ đoạn kinh tế kích động vào đường lối ,thể chế chính trị của các quốc gia đó.
-Một nguyên tắc quan trọng nữa mà chúng ta cần quán triệt trong quá trình hội nhập đó là:giữ vững độc lập ,chủ quyền dân tộc và củng cố cố định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Bác Hồ đã chọn.Đây là nguyên tắc chung cho tất cả các nước khi thiết lập và thực hiện quan hệ đối ngoại ,vừa là nguyên tắc có tính đặc thù đối với các nước xã hội chủ nghĩa,trong đó có nước ta.Trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước với nhau không đơn thuần chỉ là phải xử lý tốt về lợi ích kinh tế mà còn phải xử lý tốt mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị.Chúng ta phải mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại ,phải chủ động đảm bảo sao cho vừa khai thác được nhiều nguồn lực bên ngoài ,vừa phát huy được nguồn lực bên trong,bảo đảm kinh tế phát triển,trả được nợ nhưng không phụ thuộc vào nước ngoài ,cảnh giác với các âm mưu sử dụng kinh tế để thay đổi chế độ nước ta.Đó là một nhiệm vụ vô cùng nặng nề của kinh tế đối ngoại.
Trên đây là bốn nguyên tắc để phát triển kinh tế đối ngoại của nước ta trong thời gian trước mắt cũng như trong lâu dài.Chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau và đều có tác dụng chi phối hoạt động kinh tế đối ngoại giữa các nước trong đó có nước ta,vì vậy không được xem nhẹ nguyên tắc nào khi thiết lập phát triển,mở rộng kinh tế đối ngoại.
Như vậy chúng ta đã tìm hiểu về một số vấn đề lý luận của kinh tế đối ngoại
chúng ta đã hiểu thấu đáo về nó,tiếp theo chúng ta cùng tìm hiểu về thực trạng của kinh tế đối ngoại của nước ta trong khoảng thời gian gần đây.
II/Thực trạng của kinh tế đối ngoại nước ta trong những năm gần đây.
Trong hơn 15 năm đổi mới và phát triển nền kinh tế nước ta nói chung và kinh tế đối ngoại nói riêng đã có những bước phát triển vượt bậc,chúng ta đã phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu,từng bước nâng cao được đời sống cho nhân dân ,song bên cạnh đó chúng ta vần còn những hạn chế rất cần khắc phục cả về trước mắt lẫn lâu dài.Sau đây chúng ta sẽ đi vào từng hình thức của kinh tế đối ngoại.
1/Về ngoại thương với các hoạt động xuất nhập khẩu
1.1/Xuất khẩu:Theo kết quả của Bộ thương mại và Tổng cục hải quan ,kim ngạch xuất khẩu tháng 12/2002 đã đạt mức kỷ lục từ trước tới nay,ước đạt 1539 triệu USD.Nhờ những nỗ lực vượt bậc trong 4 tháng cuối năm kim ngạch xuất khẩu hàng hoá cả năm 2002 ước đạt 16,53 tỷ USD(nếu kể cả xuất khẩu dịch vụ thì đạt trên 19,2 tỷ USD)tăng gần 10%so với năm 2001,hoàn thành kế hoạch đặt ra.Và như vậy từ năm 1991 đến nay kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam luôn tăng.Cho đến năm nay,trong 10 tháng đầu năm kim ngạch xuất khẩu tăng 22,7%,kim ngạch xuất khẩu trong 10 tháng đầu năm nay ước đạt 16,55 tỷ USD như vậy đã vượt mức năm 2002.Khu vực có vốn đầu tư nước ngoàI đạt gần 8,27tỷ USD tăng 32,1%,khu vực kinh tế trong nước cũng ở mức gần 8,3 tỷ USD ,tăng 14,5%.Do liên tục đạt tốc độ tăng trưởng cao trong 10 tháng vừa qua,khu vực có vốn đầu tư đã đóng góp tới 65,5%vào tốc độ tăng trưởng chung của kim ngạch xuất khẩu cả nước cùng thời gian này .Dệt may điện tử –vi tính ,dây điện và một số nông sản như cafe,cao su ,hạt điều vẫn tục là những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng cao .Đáng chú ý là cao su và cafe do giá xuất khẩu đang được cải thiện đáng kể nên mặc dù sản lượng có giảm đi (5-10%)nhưng giá trị vẫn cao,cafe gần 50%,cao su trên 36%.Đặc biệt mặt hàng xuất khẩu truyền thống của chúng ta là gạo liên tục tăng trưởng.Việt Nam đã có thời gian vươn lên đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo(vượt cả Thái Lan).Vào ngày 17/1-/2003,lần đầu tiên Việt Nam thắng thầu tại Nhật Bản.Công ty lương thực Nhật Bản đã mua 10.000 tấn gạo của chúng ta.Chỉ tiêu của Việt Nam là xuất khẩu vào thị trường thế giới khoảng 4 triệu tấn ,tính từ đầu năm đến nay các doanh nghiệp đã thực hiện được 75% kế hoạch,đây là một bức tranh sáng sủa của xuất khẩu Việt Nam.Song chúng ta không khỏi băn khoăn lo lắng trước một số biểu hiện tiêu cực của một số ngành xuất khẩu.
Theo kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế thì hàng hoá VN có khả năng cạnh tranh ở 3 nhóm:nhóm có khả năng cạnh tranh ;nhóm có khả năng cạnh tranh có điều kiện và nhóm có khả năng cạnh tranh thấp.Nhóm có khả năng cạnh tranh gồm 21 sản phẩm như :thuỷ sản,gạo,cafe,trái cây,hàng may mặc,da giày ,khoáng sảnNhóm này gồm các sản phẩm nông nghiệp có lợi thế nhờ điều kiện tự nhiên ,tỷ lệ giá trị gia tăng thấp và các mặt hàng công nghiệp thì chủ yếu có tỷ lệ sử dụng lao động cao dựa vào lợi thế của nguồn nhân lực.Nhóm hàng được coi là có khả năng cạnh tranh trong quá trình hội nhập vẫn phải đương đầu với những thử thách gay gắt do đa số chưa có thương hiệu ,kiểu dáng riêng,độc đáo ,nguồn nguyên liệu chưâ vững chắc,công nghệ chưa hiện đạidẫn đến giá thành còn cao.Nhóm có khả năng cạnh tranh có điều kiện gồm các mặt hàng:chè ,cao su,rau,hoa tươi,thực phẩm chế biến,xi mănglà những mặt hàng có thể trở thành có khả năng cạnh tranh nếu biết khai thác ,tận dụng được những tiềm năng có sẵn để giảm giá thành và nâng chất lượng sản phẩm .Nhóm hàng có sức cạnh tranh thấp là mía đường ,bông,thép,phôi thép ..do sức cạnh tranh quá yếu ,nếu không còn được bảo hộ thì có thể bị đe doạ trên sân nhà.Ngay cả nhóm hàng có khả năng cạnh tranh trong thời gian tới vẫn còn phải vượt qua rất nhiều thử thách.Sau đây là một số mặt hàng như vậy:
-Thuỷ hải sản ,năm 2002 tuy gặp nhiều sóng gió (điển hình là vụ kiện phá giá cá tra,cá basa ở Mỹ và vụ EU áp dụng chế độ kiểm tra 100% lô hàng tôm nhập khẩu từ Việt Nam)ngành thuỷ sản nước ta vẫn lập nên thành tích cao –kim ngạch xuất khẩu đạt 2,03 tỷ USD,tăng 13% so với năm trước .Nhưng sắp tới chúng ta tiếp tục phải vượt qua nhiều thử thách to lớn vì vụ kiện ở Mỹ vẫn đang tiếp diễn ,EU cảnh báo sẽ tiếp tục áp dụng chế độ dư lượng kháng sinh đối với 100% lô hàng thuỷ sản nhập khẩu từ Việt Nam.
-Hàng dệt may của chúng ta đạt kim ngạch xuất khẩunăm 2002 ước đạt 2,7 tỷ USD tăng 36% so với 2001 ,đây là mức tăng trưởng cao nhất trong 5 năm gần đây ,sở dĩ như vậy là do chúng ta xuất khẩu sang Mỹ tăng mạnh.Ước tính kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ đạt 900 tỷ USD chiếm gần 30% kim ngạch của toàn ngành.Nhưng xuất khẩu sang Nhật lại giảm đi 20% do hàng Việt Nam không cạnh tranh được với hàng Trung Quốc.Xuất khẩu sang EU chỉ đạt 550 tỷ USD giảm 10% so với năm 2001 .Nguyên nhân chính là năm 2002 thực hiện giai đoạn 3 của quá trình bãI bỏ thuế cho các thành viên của WTO ,nên Trung Quốc đã tăng cường xuất khẩu vào thị trường này .
-Các mặt hàng khác :năm 2002 tuy khối lượng xuất khẩu giảm gần 15% (đạt khoảng 2,34 tỷ USD)nhưng nhờ giá trên thị trường thế giới tăng lên nên kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng 16% so với năm 2001 (ước đạt 726 triệu USD).Cao su,hạt đIều nhân ,lạc nhân,hàng thủ công mỹ nghệđều có mức tăng kim ngạch từ 35-58%.
Tình hình trên cho thấy tổng kim ngạch xuất khẩu và kim ngạch xuất khẩu của một số mặt hàng chủ lực tăng,nhưng xuất khẩu Việt Nam chưa tạo đựơc chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới bởi sức cạnh tranh còn thấp.Hơn nữa trong thực tế hiện nay trên thị trường còn tồn tại không ít những doanh nghiệp vẫn ỉ lại vào sự bảo hộ của Nhà nước mà không tích cực ,chủ động tìm kiếm đối tác để mở rộng thị trường ,điều này sẽ không còn khi chúng ta hội nhập hoàn toàn vào AFTA,WTO,hàng hoá của chúng ta sẽ bị canh tranh quyết liệt nếu không chủ động sáng tạo chúng ta sẽ “thua trên sân nhà”.
1.2/Về nhập khẩu:
Cũng theo Tổng cục thống kê ,kim ngạch nhập khẩu năm 2002 ước đạt 19,3 tỷUSD ,tăng 19,4% so với năm 2001 và vượt chỉ tiêu kế hoạch khoảng 10,3%.Trong đó khu vực có vốn đầu ttư nước ngoài chiếm 5,6 tỷ USD ,tăng 32% và vượt kế hoạch 29%.Bốn mặt hàng nhập khẩu so với năm trước là ô tô nguyên chiếc(-3,8%),linh kiện xe máy CKD,IKD(-50,1%),bông(-1,7%),linh kiện điện tử(-14,2%).Những mặt hàng khác đều tăng khá cao ,điển hình là linh kiện ô tô CKD,IKD(+36,6%),máy móc thiết bị phụ tùng (+35%),sợi(+26,2%),phân bón (+14,4%)Như vậy so với kim ngạch nhập khẩu 16,53tỷ USD thì tổng nhập siêu năm 2002 và khoảng 2,77 tỷ USD.Còn trong 10 tháng đầu năm 2003 cả nước đã nhập khẩu lượng hàng hoá trị giá trên 20,3 tỷ USD tăng 29,5% so với cùng kì năm ngoái.Khu vực kinh tế trong nước chiếm đa số trong kim ngạch nhập khẩu cả nước với gồm 13,3 tỷ USD,nhập khẩu chủ yếu vẫn là máy móc ,thiết bị và nguyên phụ liệu sản xuất.Từ những số liệu trên ta có thể thấy bức tranh về nhập khẩu của nước ta không có gì thay đổi to lớn so với những năm gần đây,chúng ta đã cố gắng để “người Việt Nam dùng hàng Việt Nam”và đã thu được một số kết quả nhất định chẳng hạn chúng ta đã có thể lắp ráp được ô tô buýt(Transico 1-5),từ đó chúng ta không phải nhập ô tô nguyên chiếc từ Hàn Quốc và có thể tăng lượng xe buýt trong thành phố.Nhưng lại xuất hiên ngay tiêu cực về lô xe buýt kém chất lượng của công ty này.Hay chúng ta còn phải nhập phân bón từ Trung Quốc,thứ hàng hoá mà chúng ta sản xuất được trong nước nhưng do giá thành cao nên không được nông dân chấp nhậnvà như vậy vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề trong xuất nhập khẩu của nước ta,song điều quan trọng là chúng ta cùng tìm cách khắc phục những tiêu cực đó để mở rộng kinh tế đối ngoại.
2/Về việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài
Để phát triển kinh tế trước hết chúng ta phải dựa vào nguồn lực trong nước là chính song không thể phủ nhận vai trò rất quan trọng của vốn đầu tư nước ngoài ,đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập hiện nay.Từ năm 1987 khi lần đầu tiên chúng ta ban hành Luật đầu tư nước ngoài ,đến nay đã có hơn 40 quốc gia và lãnh thổ đầu tư vào nước ta.Tính đến hết tháng 12/2001 có 3346 dự án được giấy phép đầu tư với tổng số vốn đăng kí là 41,8 tỷ USD ,trong đó vốn thực hiện chiếm khoảng 38%.Cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp ngày càng phù hợp với yêu cầu chuển dịch cơ cấu kinh tế .Vốn FDI thu hút vào việc sản xuất vật chất ,kết cấu hạ tầng kinh tế đều tăng ,năm 2001 đạt 85% tổng số vốn đầu tư .Đầu tư của nước ngoài từ các quốc gia phát triển (EU,Bắc Mỹ,Nhật )đều tăng và chiếm khoảng 44%tổng số vốn đăng ký tại Việt Nam.Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo ra 34% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp ,khoảng 23% kim ngạch xuất khẩu (chưa kể dầu khí )và đóng góp trên 12% GDP của cả nước ,thu hút hơn 30 vạn lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp .Vốn hỗ trợ phát triển (ODA) cho Việt Nam tiếp tục tăng ,góp đặc biệt trong lĩnh vực phát triển kết cấu hạ tầng ,xoá đói giảm nghèo ,y tế ,giáo dục đô thị
Đến tháng 12/2001 vốn ODA được các nhà tài trợ cam kết cho Việt Nam vay là 15,04 tỷ USD (bình quân hàng năm là 1,5 tỷ USD).Văn kiện ĐH Đảng IX đã đánh giá:” cơ cấu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng phù hợp với yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta .Vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) tiếp tục tăng góp phần quan trọng phát triển kết cấu hạ tầng”.Có thể nói nước ta đã trở thành nơi đầu tư lý tưởng cho các nhà đầu tư,chúng ta đã cố gắng làm cho môi trường đầu tư thật lành mạnh để thu hút các nhà đầu tư,với môi trường chính trị ổn định với lực lượng lao động dồi dào ,giá rẻđiều đó làm chung ta đã trở thành bạn làm ăn của rất nhiều doanh nghiệp trên thế giới và con số này chắc chắn sẽ tăng lên khi chúng ta hội nhập kinh tế quốc tế.Tuy nhiên không phải không có những hạn chế trong việc thu hút vốn đâu tư của nước ta,làm cho chúng ta mất đi tính cạnh tranh đối với các nước trong khu vực.Xin đơn cử ra một ví dụ đó là thủ tục hành chính của chúng ta vẫn còn quá rườm rà,mất rất nhiều thời gian ,qua nhiều cấp ,bậc và dễ gây tiêu cực .Chẳng hạn ở Hà Nội để được cấp giấy phép đầu tư theo quy định của UBND thành phố,nhà đầu tư nước ngoài phải gửi tất cả là 11 loại giấy tờ hợp lệ đến Sở kế hoạch và đầu tư hoặc Ban quản lý các khu công nghiệp .Sau khi các cơ quan này lấy ý kiến của các bộ ngành có liên quan bằng văn bản ,rồi được sự chấp thuận của Hội đồng tư vấn thành phố và được UBND thành phố cấp giấy phép đầu tư(tất cả trong thời gian 30 ngày )Còn đối với dự án không thuộc thẩm quyền của UBND thành phố thì phải thêm khâu UBND gửi lên cấp trên (Bộ kế hoạch và Đầu tư ,Văn phòng chính phủ )để cấp giấy phép đầu tư ,thời gian từ khi gửi hồ sơ đầy đủ và hợp lệ đến khi được cấp giấy phép đầu tư trước đây là 60 ngày nay giảm xuống 45 ngày.Với thời gian này vừa làm cho doanh nghiệp đầu tư tốn rất nhiều thời gian kinh phí để lo giấy tờ nhiều khi còn có hiện tượng tiêu cực trong các cơ quan có thẩm quyền về vấn đề này.Thêm vào đó hệ thống luật pháp ,chính sách đang trong quá trình hoàn thiện nên thiếu tính đồng bộ và ổn định ,chưa đảm bảo tính rõ ràng và dự đoán được.Các doanh nghiệp Việt Nam có chi phí kinh doanh cao và khả năng sinh lời thấp thêm vào đó các khoản chi phí ngoài luật lại tăng (chi phí tư vấn ,chạy thủ tục)điều này làm giảm lòng tin của các nhà đầu tư vào nước ta.Chúng ta chưa có nhiều hình thức thu hút vốn FDI phong phú .Và một điều khá nghiêm trọng hiện nay trong sử dụng vốn đầu tư đó là hiện tượng bớt xén vốn làm của riêng ,nó làm cho công trình kém chất lượng lại gây ra sự mất lòng tin của các nhà đầu tư vào nước taĐó là thực trạng thu hút và sử dụng vốn đầu tư từ nước ngoài của nước
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0166.doc