ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
B. NỘI DUNG:
1. Quan điểm lịch sử cụ thể với việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
1.1 Tác động của các điều kiện khách quan đối với quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1.1.1 Tác động của hoàn cảnh quốc tế
1.1.2 Tác đông của thực trạng kinh tế - xã hội Việt Nan tới quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1.2 Việc phát huy vai trò của nhân tố chủ quan trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1.2.1 Nhân tố chủ quan thúc đẩy sự hình thành các điều kiện, tiền đề của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1.2.2 Nhân tố chủ quan la lựa chọn, khai thác, kết hợp các điều kiện khách quan, các khả năng phù hợp để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1.2.3 Vai trò nhân tố chủ quan trong việc thiết lập và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta
1.3 Đặc trưng, bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
1.3.1 Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
1.3.2 TRong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu
1.3.3 Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa
1.3.4 Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là nền kinh tế mở, hội nhập
2. Thực trạng và giải pháp để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
2.1 Sự cần thiết phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
2.1.1 Khái niệm kinh tế thị trường và kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
2.1.2 Sự cần thiết khách quan phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
2.2 Thực trạng nền kinh tế thị trường Việt Nam
2.2.1 Thành tựu
2.2.2 Hạn chế
2.3 Các giải pháp cơ bản
2.3.1 Khai thác các nguồn lực và tạo động lực để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
2.3.2 Nâng cao vai trò lãnh đạo của đảng đồi với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
2.3.3 Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần và phát triển các thành phần kinh tế
C. KẾT LUẬN
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
24 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1750 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp để phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ững mặt tiêu cực. Tuy nhiên nhìn tổng quát có thể nói toàn cầu hoá đem lại nhiều tác động tích cực. Toàn cầu hoá thúc đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất nhờ không ngừng điều chỉnh cơ cấu sản xuất, áp dụng công nghệ tiên tiến. Nó làm tăng thêm khả năng phát triển "rút ngắn" và mang lai những nguồn lực rất quan trọng cho các nước đang phát triển.
Mặt khác, toàn cầu hoá cũng gây ra không ít các tác động tiêu cực như: nền kinh tế toàn cầu hoá là một nền kinh tế nhạy cảm, sự trục trặc ở một khâu có thể lan nhanh ra toàn cầu; làm trầm trọng thêm sự bất công xã hội; tấn công vào chủ quyền quốc gia, làm xói mòn bản sắc văn hoá dân tộc...
Một số tác động toàn cầu hoá đối với quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam:
Thứ nhất: thế giới là một thị trường thống nhất. Quá trình lực lượng sản xuất phát triển ngày càng cao, thúc đẩy mạnh mẽ việc quốc tế hoá đời sống kinh tế. Các mối quan hệ kinh tế quốc tế cành phát triển càng đưa dến sự hình thành thị trường thế giới thống nhất và nền kinh tế mang tính toàn cầu. Thị trường thế giới thống nhất có nghĩa là "đầu vào" cho việc sản xuất có thể huy động khắp thế giới, "đầu ra" của sản xuất cũng có thể tiêu thụ trên toàn thế giới.
Thứ hai: sự phân công và hợp tác quốc tế. Việc tham gia vào phân công lao động và hợp tác quốc tế là một tất yếu khách quan, là yêu cầu cấp bách với sự hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, nhất là trong điều kiện nước ta còn là một nước nghèo và kém phát triển, nền kinh tế mang nặng tính chất tự cấp, tự túc. Việc nước ta tham gia sâu rộng vào quá trình phân công và hợp tác quốc tế sẽ góp phần gắn thị trường trong nước và thị trường quốc tế.
Thứ ba: sự phân công và hợp tác lao động theo khu vực. Xu hướng chung của các nước trên thế giới là hình thành những khu vực kinh tế nhằm bảo vệ quyền lợi kinh tế của các thành viên trong khu vực.
Thứ tư: quan hệ kinh tế quốc tế phát triển theo xu hướng quan hệ đa phương. Sự tác động qua lại giữa các nền kinh tế thị trường theo xu hướng đa phương cho phép chúng ta học tập và ứng dụng những thành công trong việc thực hiện nền kinh tế thị trường của các nước, phát triển những lợi thế riêng của mình, đồng thời xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Tác động của thực trạng kinh tế xã hội Việt Nam tới quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
a. Nền sản xuất nhỏ tự cung, tự cấp, khép kín do lịch sử đế lại:
Việt Nam vốn là nước nông nghiệp, chưa trải qua giai đoạn phát triển kinh tế hàng hoá. Nền sản xuất truyền thống của người Việt Nam là sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp, chủ yếu là sản xuất nông nghiệp lúa nước. Với đặc điểm như vậy, khi bước vào xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta thiếu hẳn cái "cốt vật chất" của nền kinh tế phát triển, đó là tình trạng sản xuất phân tán nhỏ lẻ, trình độ cơ sở vật chất lạc hậu. Ta đã từ một xuất phát điểm về kinh tế vô cùng thấp, ảnh hưởng đến vốn, kỹ thuật, công nghệ. Bên cạnh mặt kỹ thuật, xét về mặt xã hội, nền sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp đã để lại cho chúng ta nguồn nhân lực chua tương ứng với yêu cầu của nền kinh tế thị trường.
b. Hậu quả của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp:
Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung là mô hình kinh tế được quản lý bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, với chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết từ trên giao xuống. Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung là vai trò tuyệt đối của Nhà nước.
Trong nền kinh tế thị trường, tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao, tự bù đắp, tự chịu trách nhiệm, tự do liên kết, kinh doanh theo luật định. Do vậy, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã không kích thích được chủ thể kinh tế, làm nền kinh tế trở nên xơ cứng, ít sáng tạo, không tự phát triển được.
Theo mô hình kế hoạch hoá tập trung, nền kinh tế được phát triển theo hướng thuần nhất quốc doanh và tập thể còn các bộ phận khác của nền kinh tế coi như đối tượng bị xoá bỏ hoặc hạn chế phát triển. Điều đó làm cho nhiều năng lực sản xuất bị cấm đoán, không được huy động vào sản xuất. Nó kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, do đó không huy động được các tiềm năng, nguồn lực các khu vực và thành phần kinh tế khác phục vụ cho nhu cầu phát triển ngày càng đa dạng của nền kinh tế quốc dân. Nó làm thị trường đơn điệu, không mở rộng được, trình độ thị trường thấp, hàng hoá khan hiếm.
Nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấplà một nền kinh tế khép kín, các mối quan hệ kinh tế chủ yếu diễn ra trong các nước có mô hình kinh tế giống nhau. Điều này trái với đặc trưng của kinh tế thị trường là nền kinh tế mở, mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh được triển khai có mối liên hệ qua lại trên quy mô cả nước, khu vực và thế giới.
c. Tác động thuận và nghịch của các giá trị truyền thống đến quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Truyền thống là sức mạnh của tập quán xã hội được lưu truyền trong xã hội từ đời này qua đời khác và được thể hiện trong chừng mực của hành vi, các giá trị, tư tưởng, đạo đức, phong tục tập quán... Hiện naycó rất nhiều giá trị truyền thống đang thúc đẩy quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Như:
Thứ nhất: truyền thống yêu nước và tinh thần cộng đồng cao. Người Việt Nam đã biết đoàn kết hợp sức, giúp đỡ nhau đem lại sự giàu có của bản thân và xã hội.
Thứ hai: truyền thống cần cù, chịu khó trong lao động sản xuất, lối sống giản dị, tiết kiệm. Đây là truyền thống quý báu và là nhân tố đáng quý cho công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thứ ba: truyền thống hiếu học, thông minh, sáng tạo trong sản xuất và trong cuộc sống, biết thich nghi để tồn tại và phát triển.
Thứ tư: truyền thống coi trọng sự trung thực, nhân nghĩa, thương người.
1.2. Việc phát huy của vai trò nhân tố chủ quan trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1.2.1. Nhân tố chủ quan thúc đẩy sự hình thành của các điều kiện, tiền đề của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Thực tiễn những năm chuyển sang kinh tế thị trường cho phép chúng ta rút ra nhưng điều kiện, tiền đề hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là:
Có sự ổn định về chính trị
Có sự đa dạng hoá về hình thức sở hữu
Có sự quản lý của nhà nước pháp quyền, có hệ thống pháp luật cho thị trường hoạt động
Có kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của kinh tế thị trường
Có hệ thống các loại thị trường hoạt động đồng bộ
Có chính sách kinh tế đối ngoại đúng đắn
Tập hợp những điều kiện này cho ta thấy không thể xây dựng ngay nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh được. Vai trò quan trọng của nhân tố chủ quan là phải chủ động chuẩn bị, chủ động thúc đẩy, tạo điều kiện cho những tiền đề nhanh chóng được hình thành. Vai trò của Đảng thể hiện rõ nét về ổn định chính trị. Đại hội lần thứ VIII (6/1996) tổng kết thực hiện nghị quyết đại hội VIII và tổng kết 10 năm đổi mới đã rút ra sáu bài học chủ yếu trong đó có bài học "xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Mục đích của Đảng ta và Nhà nước là sử dụng mặt tích cực của các thành phần kinh tế, các phương pháp quản lý kinh tế thị trường để phục vụ cho mục đích xây dựng xã hội chủ nghĩa chú không phải đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. (4-57)
1.2.2. Nhân tố chủ quan lựa chọn, khai thác, kết hợp các điều kiện khách quan, các khả năng phù hợp để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
Trong mỗi điều kiện khách quan có những mặt thuận và không thuận. Nhận thức được điều này sẽ giúp ta tránh được tình trạng rơi vào ảo tưởng, chủ quan, duy ý chí, chỉ biết sử dụng các biện pháp hô hào, kêu gọi, áp đặt. Một số tác động thuận chiều như: xu hướng toàn cầu hoá kinh tế, cách mạng khoa học và công nghệ phát triển cao; những nhân tố tích cực trong văn hoá truyền thống; những lợi thế so sánh của đất nước về tài nguyên, vị trí địa lý... Tuy nhiên cũng có những mặt nghịch chiều như: mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung; sức ỳ, sức cản của nền sản xuất nhỏ; tập tục cũ, lạc hậu... Do vậy phát huy nhân tố chủ quan là phải tỉnh táo, kiên quyết hạn chế, đẩy lùi, khắc phục những tác động ngược chiều của chúng.
Trong tổng lộ trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay phải vừa tính đến đặc thù của đất nước, phải vừa gắn mô hình tăng trưởng kinh tế với mô hình phát triển xã hội toàn diện nhưng vẫn không bỏ qua những quá trình mang tính quy luật của nền kinh tế thị trường.
1.2.3. Vai trò nhân tố chủ quan trong việc thiết lập và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường nước ta:
Lịch sử phát triển của nền kinh tế thị trường đã thể hiện tính quy luật: một mặt kinh tế thị trường tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh" là sự định hướng xã hội chủ nghĩa cho kinh tế thị trường, là sự khác biệt rõ nét nhất giữa kinh tế thị trường nước ta và kinh tế thị trường các nước khác. Sự khác biệt này được Đảng ta chỉ rõ trong đại hội IX: "Mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã hội chủ nghĩa, nâng cao đời sống nhân dân". (8-67)
Những biểu hiện của tính định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường nước ta như: các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của nền kinh tế thị trường được sử dụng như một công cụ để đạt tới nền kinh tế tăng trưởng cao; thực hiện nhiều hình thức phân phối theo thu nhập; lấy việc giải phóng sức sản xuất làm căn cứ chủ yếu để hoạch định cơ cấu thành phần kinh tế, hình thức sở hữu....
Với những đặc trưng trên đã đặt ra những vấn đề hết sức cụ thể cho việc giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế và các mặt của đời sống xã hội.
1.3. Đặc trưng, bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam:
1.3.1. Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo:
Nền kinh tế nước ta bao gồm ba loại hình sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Ba loại hình sở hữu đó hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều tổ chức sản xuất, kinh doanh. Các thành phần kinh tế đó là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Kinh tế nhà nước biểu hiện ở phạm vi rộng lớn, bao gồm tài nguyên thiên nhiên, nền tài chính, tài sản công, trong đó có doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước đã có những bước tiến mới, phát triển và ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kếm, có mặt khá nghiêm trọng như: quy mô nhỏ, cơ cấu còn nhiều bất hợp lý, chưa tập trung vào những ngành, lĩnh vực then chốt....
Vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước được biểu hiện cụ thể:
- Kinh tế nhà nước là lực lượng mở đường, hỗ trợ, định hướng cho các thành phần kinh tế khác phát triển theo mục tiêu kinh tế, xã hội của đất nước.
- Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng, chủ yếu nhất để nhà nước điều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế.
- Kinh tế nhà nước là đòn bẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội của đất nước.
Như vậy, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là vai trò trung tâm, quyết định xu hướng vận động, phát triển đối với toàn bộ nền kinh tế trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. (5-382)
1.3.2. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu
Nền kinh tế thị trường ở nước ta tồn tại các hình thức phân phối theo thu nhập sau: phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế; phân phối theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
Sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là ở chỗ xác lập chế độ công hữu và phân phối theo lao động. Phân phối theo lao động là đặc trưng bản chất của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nó là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu. Nước ta xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chứ không phải là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Phát triển kinh tế thị trường là mục tiêu cơ bản xây dựng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.
1.3.3. Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa:
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng vận động theo yêu cầu của những quy luật vốn có của kinh tế thị trường, như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, cạnh tranh...; giá cả do thị trường quyết định; thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Cơ chế vận hành của nền kinh tế của tất cả các nước đều là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nhưng điều khác biệt trong cơ chế vận hành nền kinh tế của nước ta là ở chỗ Nhà nước quản lý nền kinh tế không phải là nhà nước tư sản, mà là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân và vì dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường. Thị trường là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế, nó tồn tại khách quan, tự vận động theo những quy luật vốn có của nó. Còn kế hoạch hoá là hình thức thực hiện của tính kế hoạch, nó là sản phẩm chủ quan của chủ thể quản lý. Kế hoạch và cơ chế thị trường là hai phương tiện khác nhau để phát triển và điều tiết nền kinh tế. Thị trường là căn cứ để xây dựng và kiểm tra các kế hoạch phát triển kinh tế. Sự kết hợp kế hoạch và thị trường được thực hiện ở cả tầm vi mô và vĩ mô.
1.3.4. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng là nền kinh tế mở, hội nhập:
Việc mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy mới thu hút vốn, kỹ thuật, công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực hiện phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường hiện đại theo kiểu rút ngắn.
Thực hiện mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá và đa dạng hoá các hình thức đối ngoại, gắn thị trường trong nước với thị trường khu vực và thế giới, thực hiện những thông lệ trong quan hệ kinh tế quốc tế, nhưng vẫn giữ độc lập chủ quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại. (6-399)
2. THựC TRạNG Và GIảI PHáP Để PHáT TRIểN KINH Tế THị TRƯờNG ĐịNH HƯớNG Xã HộI CHủ NGHĩA ở VIệT NAM HIệN NAY
2.1. Sự cần thiết phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
2.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
a. Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá, trong đó toàn bộ các yếu tố "đầu vào" và "đầu ra" của sản xuất đều thông qua thị trường. Đây là một kiểu tổ chức kinh tế phản ánh trình độ phát triển nhất định của văn minh nhân loại. Nó vừa là vấn đề của lực lượng sản xuất, vừa là vấn đề của quan hệ sản xuất.
b. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đây thực chất là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.1.2. Sự cần thiết khách quan phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam:
Cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam:
Phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất hàng hoá chẳng những không mất đi, mà trái lại còn được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương cũng ngày càng phát triển.
Trong nền kinh tế nước ta, tồn tại nhiều hình thức sở hữu, đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ, sở hữu tư bản tư nhân), sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hang hoá - tiền tệ.
Thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất và kinh doanh, có lợi ích riêng.
Quan hệ hàng hoá - tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc.
Phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế đối với nước ta, là nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển từ nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập có sự phân công lao động quốc tế.
2.2. Thực trạng nền kinh tế thị trường Việt Nam:
2.2.1. Thành tựu
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một trong những chủ trương lớn, rất quan trọng của Đảng ta trong cong cuộc đổi mới toàn diện của đất nước. Trong những năm vừa qua, nhờ các thành phần kinh tế phát triển, đất nước đã huy động nguồn lực trong nước và ngoài nước, tạo ra dộng lực phát triển kinh tế mạnh mẽ. Nhưng hiện nay, trước những yêu cầu mới phải đẩy nhanh nhịp độ phát triển đất nước, bảo đảm sự phát triển nhanh nền kinh tế - xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh, chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, việc phát triển kinh tế nhiều thành phần đang đặt ra nhiều vấn đề mới cả về lý luận và thực tiễn. (3-9)
2.2.2. Hạn chế
Thực trạng nền kinh tế thị trường ở Việt Nam đang gặp một số khó khăn:
Thứ nhất: Trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai. đó là do các nguyên nhân:
Cơ sở vật chất - kỹ thật còn ở trình độ thấp,trong nhiều ngành kinh tế máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu. Lao động thủ công vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội.
Kết cấu hạ tầng như hệ thống đường giao thông, bến cảng, hệ thống thông tin liên lạc.... còn lạc hậu, kém phát triển, làm cho các địa phương, các vùng bị chia cắt, tách biệt nhau, nhiều tiềm năng của các địa phương không thể khai thác được
Phân công lao động kém phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm
Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước, cũng như thị trường nước ngoài còn rất yếu
Thứ hai: thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa đồng bộ
Do giao thông vận tải kém phát triển nên chưa lôi cuốn được tất cả các vùng trong nước vào một mạng lưới lưu thông hàng hoá tốt nhất; thị trường hàng hoá - dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn nhiều hiện tượng tiêu cực; thị trường hàng hoá sức lao động manh nha, sức cung về lao động lành nghề nhỏ hơn cầu rất nhiều, trong khi đó cung về sức lao động giản đơn lại vượt quá xa cầu, nhiều người có sức lao động không tìm được việc làm; thị trường tiền tệ, thị trường ổn đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều trắc trở.
Thứ ba: nhiều thành phần kinh tế tham gia thị trường
Do vậy nền kinh tế ở nước ta có nhiều loại hình sản xuất hàng hoá cùng tồn tại, đan xen nhau, trong đó sản xuất hàng hoá nhỏ phân tán còn phổ biến.
Thứ tư: sự hình thành thị trường trong nước gắn với mở rộng kinh tế đối ngoại, hội nhập vào thị trường khu vực và thế giới, trong hoàn cảnh trình độ phát triển kinh tế - kỹ thuật của nước ta thấp xa so với hầu hết các nước khác.
Thứ năm: quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội còn yếu. Một số cơ chế, chính sách còn thiếu, chưa nhất quán, chưa sát với cuộc sống, thiếu tính khả thi.
2.3.Các giải pháp nhằm phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay:
2.3.1. Khai thác các nguồn lực và tạo động lực để phát triển kinh tế thị trường:
a. Phát huy nguồn lực con người:
Thực tế đã cho thấy những quốc gia phát triển nhanh nhất trong các thập kỷ gần đâylại không phải là những quốc gia có ưu thế về những yếu tố tài nguyên, địa lý....Những nghiên cứu mới nhất đã đi đến kết luận rằng, con người là nguồn lực lớn nhất, lâu bền nhất, là quá trình quyết định nhất cho mọi quá trình kinh tế - xã hội của mọi quốc gia.
Đất nước ta đang chuyển từ một xã hội nông nghiệp truyền thống sang xã hội công nghiệp hiện đại, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy nguồn lực phát triển được coi trọng, đặc biệt là nguồn lực con người. Đại hội Đảng VI đánh dấu một sự chuyến hướng mạnh mẽ trong nhận thức về nguồn lực con người. Đại hội nhấn mạnh: " Phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động " (7-86)
Vậy để phát huy nguồn lực con người, những năm tới, chiến lược con người của Đảng cần hướng vào:
Thứ nhất: coi trọng công tác giáo dục và đào tạo, khẩn trương đổi mới giáo dục và đào tạo.
Giáo dục - đào tạo phải được coi là cái gốc của sự phát triển. Giáo dục - đào tạo phải là một bộ phận của kế hoạch kinh tế - xã hội, gắn liền với sự phát triển kinh tế - xã hội. Chất lượng một quốc gia sẽ được đánh giá theo tiêu chí: dân cư được giáo dục tốt. nguồn nhân lực dựa vào trí tuệ, sự dồi dào của quỹ tri thức, sự linh hoạt, hiệu quả của cơ cấu tài chính.... mà giáo dục - đào tạo lại có ảnh hưởng then chốt đến các vấn đề trên, tức là có vai trò làm đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế.
Quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự thách thức của khoa học - công nghệ, của toàn cầu hoá đặt ra những yêu cầu đối với đổi mới, phát triển giáo dục là:
Đầu tư thích đáng cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo
Gắn chất lượng đào tạo với yêu cầu thực tế
Thay thế quan niệm "đào tạo theo nhu cầu của người học" bằng "đào tạo theo nhu cầu xã hội"
Thứ hai: thực hiện tốt chính sách xã hội
Một chính sách xã hội đúng đắn phải đảm bảo sự công bằng xã hội đem lại điều kiện và khả năng phát triển cho mọi thành viên trong xã hội. Nó cũng là một biện pháp để khắc phục những hạn chế, khiếm khuyết của kinh tế thị trường. Qúa trình xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những thành tựu to lớn, cũng đã nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Những năm tiếp theo, chúng ta không đợi cho kinh tế phát triển rồi mới thực hiện các vấn đề xã hội mà chính sách xã hội phải giải quyết một số vấn đề xã hội sau:
Giải quyết việc làm cho người lao động
Điều hoà hợp lý mức tăng dân số với tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh công tác kế hoạch hoá gia đình
Có chính sách và biện pháp hữu hiệu chăm lo sức khoẻ mọi người
Thực hiện xoá đói giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, bảo hiểm xã hội và các hoạt động nhân đạo từ thiện
Thứ ba: tạo điều kiện, môi trường cho sự công hiến và hưởng thụ của con người
Một môi trường thuận lợi, trong đó mọi người đều được tự do sáng tạo sẽ tạo khả năng to lớn và phong phú để cá nhân cống hiến và hưởng thụ thành quả lao động của mình. Ngược lai, moi người chỉ chờ đợi, hưởng thụ, không cống hiến hoặc không có môi trường để cống hiến ở mức độ cao thì không những sự phát triển tự do của cá nhân bị cản trở mà nó còn kìm hãm và hạn chế sự phát triển của xã hội.
b. Quan tâm và kết hợp các lợi ích kinh tế:
Động lực chính để phát triển kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay có thể khẳng định là lợi ích kinh tế. Đảng và Nhà nước khẳng định vai trò của mình trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa qua việc quan tâm và kết hợp được các lợi ích kinh tế. V.I.LÊNIN đã từng viết: "Gốc rễ sâu xa nhất của chính sách đối nội và đối ngoại của chúng ta là do những lợi ích kinh tế quy định".
ở nước ta hiện nay, các lợi ích kinh tế hết sức đa dạng và phong phú. Biểu hiện ở chỗ có nhiều chủ thể kinh tế, nằm trong nhiều mối quan hệ chồng chéo, một chủ thể kinh tế có thể tham gia vào nhiều mối quan hệ lợi ích kinh tế trong xã hội, do đó nó tạo ra rất nhiều lợi ích kinh tế khác nhau: lợi ích kinh tế cá nhân, lợi ích kinh tế tập thể, lợi ích kinh tế xã hội, lợi ích kinh tế nhóm, địa phương.
Lợi ích kinh tế gắn chặt với quan hệ sở hữu. Mỗi một quan hệ sở hữu quy định một quan hệ lợi ích kinh tế xác định. Quan hệ sở hữu là nguồn gốc, là cơ sở để hình thành lợi ích kinh tế, lợi ích kinh tế là biểu hiện cô đọng của quan hệ sở hữu. ở nước ta hiện nay, chế độ sở hữu tư liệu sản xuất bao gồm ba loại hình cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. ứng với ba loại hình cơ bản của sở hữu đó là ba hình thức lợi ích: xã hội, tập thể và cá nhân.
Nhà nước cần đổi mới chính sách lao động và thu nhập sao cho đảm bảo các lợi ích kinh tế hợp lý của các chủ thể kinh tế, nhằm phát huy tính chủ động sáng tạo. Song cần chú ý là lợi ích kinh tế là sự thể hiện của nhu cầu kinh tế, là cái đáp ứng lại nhu cầu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35861.doc