Mục lục:
Lời mở đầu
Nội dung
I.Cơ sở lý luận:
1.Công nghệ và đổi mới công nghệ:
1.1.Công nghệ.
1.2.Đổi mới công nghệ:
1.2.1.Thực chất của đổi mới công nghệ.
1.2.2.Vai trò của đổi mới công nghệ.
1.2.3.Các giai đoạn đổi mới công nghệ.
1.2.4.Thời điểm đổi mới công nghệ.
2.Nội dung chủ yếu của đổi mới công nghệ:
2.1.Lựa chọn công nghệ thích hợp:
2.1.1.Tính tất yếu khách quan của lựa chọn công nghệ thích hợp.
2.1.2.Những căn cứ lựa chọn công nghệ thích hợp.
2.1.3.Nội dung của lựa chọn công nghệ thích hợp.
2.2.Đánh giá công nghệ:
2.2.1.Quan niệm về đánh giá công nghệ.
2.2.2.Vai trò của đánh giá công nghệ.
2.2.3.Các bước tiến hành đánh giá công nghệ.
2.3.Phân tích năng lực công nghệ:
2.3.1.Năng lực công nghệ và vai trò của việc phân tích năng lực công nghệ.
2.3.2.Phương pháp phân tích năng lực công nghệ.
2.4.Đổi mới công nghệ:
2.4.1. Đánh giá trình độ công nghệ hiện tại.
2.4.2.Các hình thức đổi mới công nghệ.
2.4.3.Yêu cầu của đổi mới công nghệ.
II.Thực trạng đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp ở Việt nam:
1.Tình hình công nghệ trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp ở Việt nam:
1.1.Tình hình công nghệ chung của nền kinh tế quốc dân.
1.2.Tình hình công nghệ trong ngành sản xuất công nghiệp ở nước ta.
2.Thực trạng công nghệ và đổi mới công nghệ ở một số ngành:
2.1.Ngành cơ khí:
2.1.1.Thực trạng công nghệ của ngành cơ khí.
2.1.2.Thực trạng đổi mới công nghệ ngành cơ khí.
2.2.Ngành dệt may:
2.2.1.Thực trạng công nghệ ngành dệt may.
2.2.2.Thực trạng đổi mới công nghệ ngành dệt may.
2.3.Ngành chế biến mía đường:
2.3.1.Thực trạng công nghệ ngành mía đường.
2.3.2.Thực trạng đổi mới công nghệ ngành mía đường.
3.Những kết quả đạt được trong hoạt động đổi mới công nghệ ở nước ta trong những năm qua:
4.Những tồn tại và nguyên nhân trong hoạt động đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp công nghiệp Việt nam:
III.Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp ở Việt nam:
1.Các giải pháp vĩ mô:
2.Các giải pháp vi mô:
Kết luận
54 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4077 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à quá trình Marketing, tức là tìm cách để truyền bá công nghệ.
Sức ép nhu cầu
Tác động của KH & CN
Nảy sinh ý đồ
Nâng cao kiến thức
Nảy sinh ý đồ
Ghi nhận nhu cầu
Marketing
Kỹ nghệ hoá
Nghiên cứu Triển khai
Hình thức này có nhiều ưu điểm như tận dụng và khai thác tốt nguồn lực có sẵn (nhân lực, vật lực, tài lực); tạo ra được công nghệ phù hợp và thích nghi với điều kiện sẵn có; dễ quản lý, không phụ thuộc vào nước ngoài, tiết kiệm ngoại tệ dùng để nhập khẩu công nghệ; tạo điều kiện nâng cao năng lực công nghệ trong nước.
Bên cạnh đó nó còn có những hạn chế như mất thời gian cho nghiên cứu và triển khai, dễ mất cơ hội chiếm lĩnh thị trường (vì không có ngay công nghệ đang cần); hạn chế về năng lực, nguồn lực do đó không tạo ra được công nghệ có chất lượng, có khi chi phí còn đắt hơn là nhập từ nước ngoài.
Những hạn chế này là những vấn đề lớn đối với các nước đang phát triển do đó hình thức đổi mới công nghệ này chỉ được thực hiện với một tỷ lệ nhỏ so với toàn bộ hoạt động đổi mới công nghệ, các nước này chủ yếu thực hiện đổi mới công nghệ thông qua hình thức chuyển giao công nghệ.
b. Chuyển giao công nghệ:
Chuyển giao công nghệ là quá trình chuyển và nhận công nghệ qua biên giới một quốc gia.
Đây là hình thức chủ yếu để thực hiện đổi mới công nghệ ở các nước đang phát triển. ở các nước này, do trình độ nghiên cứu và triển khai công nghệ trong nước còn yếu do đó chủ yếu thực hiện chuyển giao công nghệ để nâng cao trình độ công nghệ trong nước.
Như đã thống nhất về mặt định nghĩa, công nghệ gồm có 2 phần: phần cứng và phần mềm. Trong chuyển giao công nghệ, phần mềm của công nghệ là rất trừu tượng, vấn đề là bên nhận công nghệ phải nắm vững được phần mềm của công nghệ. Qua thực tế chuyển giao công nghệ người ta đưa ra một số thể loại được coi như là phạm trù của công nghệ như sau:
+ Nghiên cứu khả thi và khảo sát thị trường trước khi đầu tư.
+ Thu thập thông tin về một số công nghệ đã có.
+ Thiết kế kỹ thuật - công nghệ
+Xây dựng nhà máy và lắp đặt thiết bị.
+ Phát triển công nghệ.
Ngày nay chuyển giao công nghệ được thực hiện một các rộng rãi trong điều kiện hợp tác hoá và phân công lao động ngày càng sâu sắc. Các nước thực hiện chuyển giao công nghệ vì một số lý do sau:
Thứ nhất: Các nước phát triển không đồng đều và yêu cầu công nghệ rất đa dạng. Một nước dù là nước phát triển hay đang phát triển thì với nguồn lực có hạn, họ không thể tạo ra được tất cả các công nghệ mà họ cần mà họ chỉ có thể phát triển một số công nghệ nào đó để có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh so với các nước khác.Vì thế họ cần phải giao lưu công nghệ với các nước khác để khai thác các nguồn lực trong nước và tận dụng các nguồn vốn từ bên ngoài để tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước.
Thứ hai: một công nghệ hay hay một sản phẩm của công nghệ đó bao giờ cũng có một chu kỳ sống nhất định, vì thế các nhà sản xuất ra công nghệ hay sản phẩm đó mong muốn kéo dài chu kỳ sống đó. Có thể công nghệ đó hay sản phẩm không phù hợp với thị trường này nhưng vẫn đang là mới với một số thị trường khác. Do đó các các nước tiến hành chuyển giao công nghệ để vừa tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước vừa tận dụng được các công nghệ ở cuối chu kỳ sống của nó.
Thứ ba: nhu cầu của thị trường biến đổi ngày càng đa dạng vì vậy các nhà doanh nghiệp cần phải định hướng cho các sản phẩm mới và các sản phẩm thay thế. Muốn vậy không có con đường nào khác là phải luôn đổi mới công nghệ. Đổi mới từng phần, từng công đoạn, hay đổi mới toàn bộ tuỳ thuộc theo chiến lược sản phẩm và năng lực công nghệ. Nhưng đổi mới công nghệ không thể không chú ý tới chuyển giao công nghệ. Nói cách khác đổi mới công nghệ là nhu cầu của chuyển giao công nghệ.
Thứ tư: tranh thủ vốn đầu tư của nước ngoài. Tận dụng chuyển giao công nghệ để đầu tư chất xám từ nước ngoài, tận dụng liên doanh, liên kết …
Hiện nay có hai hình thức chuyển giao công nghệ đó là chuyển giao dọc và chuyển giao ngang.
+ Chuyển giao dọc là sự nhận và chuyển công nghệ đang trong giai đoạn quản lý của nghiên cứu có nghĩa là công nghệ chưa đưa vào sản xuất đại trà.
+ Chuyển giao ngang là sự chuyển và nhận công nghệ đã sản xuất đại trà.
Mỗi hình thức chuyển giao đều có ưu nhược điểm riêng trong một số trường hợp thì áp dụng hình thức chuyển giao dọc là có lợi nhưng trong trường hợp khác thì chuyển giao ngang là có lợi, vì thế khi thức hiện chuyển giao người ta xét xem nên thực hiện chuyển giao theo hình thức nào là đạt hiệu quả cao nhất.
Các bước để tổ chức thực hiện chuyển giao công nghệ:
+ Chuẩn bị: trong bước này đòi hỏi nắm vững những yêu cầu của chuyển giao công nghệ, nghĩa là sau khi thực hiện các công việc của hoạt động công nghệ như lựa chọn công nghệ thích hợp, đánh giá công nghệ, phân tích năng lực công nghệ để thực hiện đổi mới công nghệ các nước, các doanh nghiệp phải nắm vững được các điều kiện này để tiến hành chuyển giao công nghệ đạt hiệu quả cao. Bên cạnh đó các nước (các doanh nghiệp) còn phải nắm vững các hợp đồng chuyển giao công nghệ như hợp đồng lixăng, hợp đồng chuyển giao công nghệ kèm theo cung cấp máy móc thiết bị, xây dựng công trình công nghiệp có hoặc không kèm lixăng, hợp đồng dịch vụ, hỗ trợ và tư vấn kỹ thuật, hợp đồng đại lý, hợp đồng tổng hợp.
Hợp đồng lixăng là giấy phép mà người chủ sở hữu công nghiệp cấp cho người mua được quyền sở hữu công nghiệp đó của mình. Một hợp đồng lixăng chỉ chuyển một quyền sở hữu công nghiệp.
Hợp đồng chuyển giao công nghệ kèm theo cung cấp máy móc thiết bị, xây dựng công trình công nghiệp có hoặc không có lixăng: hợp đồng này bao gồm những nội dung về chuyển giao quyền sở hữu hay sử dụng sáng chế, giải pháp hữu ích, hoặc các đối tượng sở hữu công nghệ khác; thông tin về công nghệ. Trong hợp đồng này nhất thiết phải có các thông tin về đặc điểm kỹ thuật của máy móc và thiết bị, các mô tả chi tiết, rõ ràng về công nghệ mà bên nhận muốn nhận được, cũng như cách thức để nhận được công nghệ.
Hợp đồng cung cấp dịch vụ hỗ trợ và tư vấn kỹ thuật: hợp đồng này chủ yếu nhằm thoả thuận về việc cung cấp các dịch vụhỗ trợ và tư vấn công nghệ kể cả đào tạo và thông tin.
Hợp đồng đại lý: bên nhận làm đại lý cần phải có kiến thức cần thiết về sử dụng, bảo dưỡng, sữa chữa sản phẩm, cũng như các dịch vụ có liên quan. Vì thế hợp đồng này phải ghi rõ những nội dung đào tạo cụ thể sẽ tiến hành cho bên đại lý; các tài liệu liên quan (mô tả sản phẩm, cẩm nang vận hành và bảo dưỡng, cẩm nang sữa chữa…). Các nội dung trong hợp đồng này phải được thực hiện trong khi bên đại lý bán máy móc thiết bị.
Hợp đồng tổng hợp: nó là tập hợp một hoặc toàn nội dung nói trên.
+ Hợp đồng chuyển giao công nghệ.
+ Chuẩn y hợp đồng.
2.4.3. Yêu cầu của đổi mới công nghệ:
Từ việc đánh giá công nghệ ta có thể nhận thấy yêu cầu tổng quát của đổi mới công nghệ là lợi ích mà công nghệ đem lại phải lớn hơn là chi phí bỏ ra cho công nghệ đó: Bi=>Ci. Cụ thể là:
+ Nâng cao trình độ công nghệ, hiệu quả sản xuất, chất lượng sản phẩm…
+ Không làm phương hại đến an toàn sản xuất, bảo đảm an toàn lao động, điều kiện và môi trường công nghệ cho người lao động.
+ Sử dụng hợp lý năng lượng, các nguồn tài nguyên và nguồn nhân lực.
+ Không gây tác hại đối với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội chung.
II. Thực trạng đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp công nghiệp ở Việt nam:
1. Tình hình công nghệ trong các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp ở Việt nam:
1.1. Tình hình công nghệ chung của nền kinh tế quốc dân:
Công nghiệp là ngành đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế nước ta, nó đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao trong khoảng thời gian 10 năm qua, với tỷ lệ tăng bình quân (từ 1991- 2000) là 14% năm. Tuy nhiên tăng trưởng công nghiệp là quá trình không đều, trải qua những khúc quanh hoặc gắn liền với sự thay đổi chính sách trong nước hoặc do ảnh hưởng bởi tình hình ngoài nước. Mặc dù ngành công nghiệp đạt tốc độ tăng trương cao như vậy nhưng so với tốc độ phát triển của thế giới thì công nghiệp Việt nam còn phát triển ở trình độ thấp. Đặc biệt so sánh về mặt công nghệ thì Việt nam còn phát triển ở trình độ thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Sau đây là số liệu so sánh trình độ công nghệ Việt nam và các nước trong khu vực (%):
Nhóm ngành công nghệ thấp (a)
Nhóm ngành công nghệ trung bình (b)
Nhóm ngành công nghệ cao (c)
ThaiLan
Singapore
Malaysia
Indonesia
Philipine
Vietnam
42,7
10,5
24,3
47,7
45,2
58,7
26,5
16,5
24,8
22,6
25,7
20,7
30,8
73
51,1
29,7
29,1
20,6
Từ bảng số liệu ta thấy công nghệ của Việt nam chủ yếu tập trung trong các nhóm ngành có trình độ thấp, còn tỷ lệ các ngành có trình độ công nghệ trung bình và ngành công nghệ cao đều thấp hơn so với các nước trong khu vực.
1.2. Tình hình công nghệ trong ngành sản xuất công nghiệp ở nước ta:
Theo báo cáo của Bộ kế hoạch và đầu tư (4-1997) thì cuối năm 1989 cả nước có 12.297 doanh nghiệp Nhà nước với số vốn khoảng 34.216 tỷ VNĐ. Qua sắp xếp đăng ký theo nghị định 388-HĐBT ngày 1/4/94 còn 6.264 doanh nghiệp với tổng số vốn 52.150 tỷ VNĐ. Như vậy đã giảm đi 6.033 doanh nghiệp Nhà nước, trong đó 2.040 doanh nghiệp đã giải thể hoặc chuyển đổi hình thức sở hữu (Theo nghị định 103/CP- giao khoán, bán, cho thuê và cổ phần hoá DNNN). Quy mô tính đến 1996, bình quân một DNNN có 11,9 tỷ đồng vốn, chỉ có một doanh nghiệp đạt 33,66 tỷ đồng do trung ương quản lý, khoảng 8% DNNN có mức vốn 10 tỷ đồng và 45% có mức vốn dưới 10 tỷ đồng (theo số liệu tổng cục thống kê năm 1993-1994). Đặc biệt theo cuộc điều tra toàn diện nhất về tình trạng kỹ thuật công nghệ năm 1990 cho thấy có 78% TSCĐ trong các doanh nghiệp quốc doanh (bộ phận được trang bị tốt của nền kinh tế quốc dân) có thời gian sử dụng từ 5 năm trở lên. So với nguyên giá, giá trị còn lại của TSCĐ là máy móc thiết bị chỉ còn 54,4%, trong khi đó của nhà cửa, kiến trúc chiếm 63,4%. Điều đó có nghĩa là trong điều kiện thời gian này việc đầu tư chủ yếu tập trung vào xây dựng cơ bản, phần đầu tư cho đổi mới thiết bị và công nghệ chiếm tỷ lệ thấp.
Thực tế, lượng thiết bị "dư thừa" trong công nghiệp so với nhu cầu sử dụng của sản xuất kinh doanh là rất lớn, giá trị gần 886 tỷ VNĐ chiếm khoảng 15% giá trị máy móc thiết bị của công nghiệp (bằng 45,3% tổng số TSCĐ cần sử lý trong cả nước và bằng 6,5% tổng số TSCĐ trong công nghiệp - tức là khoảng 15% giá trị máy móc thiết bị của công nghiệp).
Tình trạng này phần nào phản ánh được sự cũ kĩ, lạc hậu và sự chắp vá, đồng thời phản ánh được sự quản lý yếu kém trong việc sử dụng máy móc thiết bị để sản xuất. Sự lạc hậu đó còn thể hiện qua các mặt sau đây:
+Tỷ lệ các công nghệ và thiết bị hiện đại, tiên tiến chỉ đạt 16%, các công nghệ và thiết bị này tập trung chủ yếu vào một số ngành công nghiệp như: dệt (33%), may (46%), khai thác than (37%). Điều đáng chú ý là ngay trong công nghiệp nhẹ, nhiều ngành còn ở dưới mức bình quân của toàn bộ nền kinh tế.
+ Trình độ cơ khí hoá còn thấp.Tại thời điểm điều tra 1/1/1990, toàn nền kinh tế chỉ có 43% lao động trong khu vực kinh tế trung ương, 23% lao động trong khu vực kinh tế địa phương được cơ khí hoá, tự động hoá. Trong công nghiệp tỷ lệ này còn cao hơn (63% với công nghiệp trung ương, 47% công nghiệp địa phương). Trình độ này còn ở mức thấp so với thế giới.
+ Mức tiêu hao năng lượng, nhiên liệu và lãng phí nguyên liệu do nguyên nhân công nghệ ở ta còn khá cao. Chỉ so sánh riêng mức tiêu hao năng lượng để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm còn cao hơn nhiều mức bình quân của các nước đang phát triển ở nhóm: hoá chất bằng 138%, sơn bằng 195%, săm lốp cao su 204%, giấy 127%, than 175%, quạt điện 246%, luyện kim đen 250%, luyện kim màu 148%.
+ Chất lượng sản phẩm thấp, khó có thể cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại của nước ngoài. Sản phẩm Việt nam thua kém ở nhiều thông số kinh tế -kỹ thuật quan trọng (thể hiện ở sự tinh xảo, tính chính xác, độ bền tính gọn nhẹ, khả năng thao tác dễ dàng, thuận tiện trong quá trình sử dụng). Các tiêu chuẩn của Việt nam phổ biến là thấp hơn của thế giới nhưng có khoảng 10% doanh nghiệp không đáp ứng được yêu cầu này. Một số doanh nghiệp có thể đạt được tiêu chuẩn tương đương với hàng hoá của nước ngoài nhưng lại đòi hỏi chi phí sản xuất cao do đó giá cả lại cao hơn. Như vậy xét tương quan giữa giá cả- chất lượng thì sản phẩm Việt nam vẫn còn thua kém so với sản phẩm hàng hoá nước ngoài.
+ Hầu hết các công nghệ được trang bị và sử dụng trong thời gian dài và có nguồn gốc khác nhau. Tuy nước ta có quan hệ nhiều năm với các nước XHCN trước đây nhưng lượng thiết và công nghệ được nhập từ các nước này chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ (khoảng 8% lượng thiết bị được sử dụng trong những năm 1986- 1990). Trong khi đó số lượng thiết bị máy móc được nhập từ các nước tư bản lại lớn hơn rất nhiều, tỷ trọng chiếm 37,3% tổng số thiết bị được sử dụng trong thời kỳ 1986- 1990. Nhưng xét về cơ bản công nghệ được chuyển vào nước ta chủ yếu từ các nước Châu âu, Đông và Nam á bao gồm cả những công nghệ tiến đến các công nghệ trung bình. Một số công nghệ có nguồn gốc từ Mỹ và Canada, nhưng tỷ lệ này là thấp và được trang bị tập trung chủ yếu ở khu vực phía Nam.
Ngoài ra công nghệ còn được hình thành từ nguồn trong nước, nhưng tỷ lệ lượng công nghệ này là thấp trong tổng khối lượng máy móc thiết bị và công nghệ do năng lực công nghệ Việt nam còn thấp. Năm 1975- 1985 tỷ lệ này là 14,3%, năm 1995 là 25,7%, năm 1993 là 20% và tỷ trọng này ngày càng giảm do sự chuyển giao công nghệ từ nước ngoài ngày càng tăng.
+ Hiệu quả sử dụng thiết bị và công nghệ nhìn chung rất thấp. Đứng về mặt thời gian khoảng 80% tổng số thiết bị chỉ được sử dụng 1ca/ngày. Số thiết bị có hệ số sử dụng thời gian (tính bằng thời gian làm việc thực tế so với thời gian làm việc theo chế độ) từ 0,2 trở lên chiếm 79%, cá biệt có ngành chỉ đạt 45%. Như vậy hệ số sử dụng công suất máy móc thiết bị chỉ đạt khoảng 25-30%. Để thấy rõ hơn thực trạng này chúng ta nghiên cứu một vài ngành.
2. Thực trạng công nghệ và đổi mới công nghệ một số ngành:
Từ cơ chế bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường, để đứng vững được các doanh nghiệp không còn con đường nào khác là mở rộng mặt hàng, nâng cao chất lượng hàng hoá, hạ giá thành sản phẩm để mở rộng thị trường cho hàng hoá của mình. Muốn vậy nhất thiết phải đổi mới công nghệ. Mặt khác, trong điều kiện kinh tế thị trường và mở cửa, các doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận thị trường công nghệ quốc tế, từ đó khai thác các nguồn vốn, các hình thức liên doanh, liên kết… để mua công nghệ mới cho sản xuất.
Chúng ta xem xét tình hình đổi mới công nghệ ở một số ngành cụ thể, tiêu biểu cho các ngành công nghiệp như ngành cơ khí, ngành dệt may, ngành chế biến mía đường (đại diện cho ngành công nghiệp chế biến nông, lâm):
2.1. Ngành cơ khí:
2.1.1. Thực trạng công nghệ của ngành cơ khí:
Là một trong những ngành giữ vị trí thên chốt của công nghiệp hoá, song lại tỏ ra yếu kém và lạc hậu. Cụ thể công nghệ đã lạc hậu từ 50-100 năm so với các nước phát triển và 30-50 năm so với các nước trung bình. Trước năm 1986, cả nước có 610 doanh nghiệp cơ khí quốc doanh. Sau khi sắp xếp lại theo nghị định 388-HĐBT thì chỉ còn 463 doanh nghiệp. Toàn ngành có khoảng 200.000 lao động, bình quân tài sản cố định của một doanh nghiệp khoảng 0,61 triệu USD là quá bé, lại lạc hậu, thiếu chuyên môn hoá, hợp tác hoá.
Có thể khái quát hiện trạng của công nghệ cơ bản như sau: công nghệ đúc rất lạc hậu, phổ biến đúc bằng khuôn cát, mẫu gỗ trên nền cát cố định. Các công nghệ đúc khuôn kim loại, đúc khuôn thao vỏ mỏng, đúc mẫu chảy, đúc áp lực tuy có được sử dụng nhưng quy mô nhỏ không đáng kể. Công nghệ rèn chủ yếu là rèn tự do trên máy búa, công nghệ rèn khuôn hở có được áp dụng nhưng với quy mô nhỏ. Công nghệ hàn đang được sử dụng trong ngành chế tạo máy là hàn hồ quang thủ công với các máy hàn cũ, lạc hậu. Công nghệ cắt gọt thì phần lớn là máy móc công cụ vạn năng thông dụng có độ chính xác gia công thấp. Công nghệ chế tạo khuôn cối, dụng cụ cắt gọt đòi hỏi các vật liệu đặc biệt có cơ lí tính cao, chịu mài mòn, chịu nhiệt chịu axít, nhưng công nghệ này nước ta mới chỉ bắt đầu nghiên cứu. Công nghệ xử lý nhựa dựa trên những kinh nghiệm thô sơ.
Điển hình là ngành sản xuất xe đạp. Thiết bị sản xuất xe đạp nhập từ nhiều nguồn khác nhau: Liên Xô, các nước Đông Âu, Trung Quốc, Nhật Bản… Ngoài một số dây chuyền phụ tùng của Pháp, Nhật Bản mới trang bị còn hầu hết còn lại đều là dây chuyền từ những năm 50-60. Phần lớn các thiết bị này đều lạc hậu nhiều so với mức trung bình của thế giới. Đã thế trên các thiết bị lạc hậu này, tiến hành các công nghệ chắp vá nên sản phẩm làm ra không đạt tiêu chuẩn. So với Đông Âu, chí phí nguyên vật liệu sẩn xuất tại Vỉệt Nam cao hơn 1,7 lần; chí phí năng lượng cao hơn 3,6 lần, thời gian gia công cơ khí gấp 10 lần.
2.1.2. Thực trạng đổi mới công nghệ ngành cơ khí:
Chuyển sang nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp cơ khí đều nhận thức được là muốn tồn tại và phát triển thì phải đổi mới công nghệ, thiết bị để tạo ra những sản phẩm có chất lượng, đáp ứng được nhu cầu của thị trường trong nước và xuất khẩu. Vì thế trong mấy năm vừa qua các doanh nghiệp không ngừng đầu tư đổi mới, nâng cấp máy móc thiết bị cho phù hợp với yêu cầu của sản xuất.
Tuy nhiên mức đầu tư đổi mới còn quá ít, chưa tương xứng với vai trò của ngành cơ khí. Đến nay tài sản của ngành cơ khí chỉ có 300 triệu USD (bằng 40% vốn của 14 công ty liên doanh ôtô), bình quân tài sản của một xí nghiệp cơ khí không quá 1 triệu USD. Đầu tư trong mấy năm gần đây là không đáng kể, đầu tư trong 5 năm 1990-1995 là 180 tỷ VNĐ, trong khi đó đầu tư cho ngành cho ngành da giầy là trên 2.000 tỷ VNĐ. Đầu tư ít nhưng lại rất phân tán. Trong số 463 doanh nghiệp cơ khí chỉ có 40 doanh nghiệp có tài sản trên 4 triệu USD. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào ngành cơ khí cũng rất khó khăn: tính đến cuối năm 1996 có đến 127 dự án với tổng vốn đầu tư là 1.885 triệu USD, nhưng hơn 50% là thuộc ngành lắp ráp ôtô, xe máy và các hàng tiêu dùng khác, số còn lại đầu tư cho sản xuất tư liệu sản xuất khác, công nghệ hiện đại còn rất ít.
Cơ cấu đầu tư trong tổng đầu tư công nghiệp của một số ngành cơ khí chế tạo (1996-1998) như sau: sản xuất máy móc thiết bị là 1,2%, ngành sản xuất kim loại là 1,8%, sản xuất tivi, thiết bị điện, điện tử, pin, acquy là 0,7%…ta thấy rằng tỷ lệ vốn đầu tư cho các ngành cơ khí chế tạo là rất thấp đầu tư tập trung chủ yếu vào các ngành công nghiệp như ngành công nghiệp chế biến (chiếm 42%), công nghiệp điện, ga, nước (chiếm 53,3%).
Hầu hết các công nghệ chính đưa vào Việt nam đều đã qua sử dụng và thuộc thế hệ lạc hậu, không đồng bộ (95% là thiết bị lẻ) và không có chuyển giao công nghệ. Hệ số đổi mới thiết bị chỉ đạt 6-7%, bằng mức tối thiểu của các nước khác. Hầu hết các công nghệ chế tạo cơ khí cơ bản: Công nghệ chế tạo trục chính, vitme đai ốc, bánh răng hộp số, nhiệt luyện… gần như là nguyên trạng từ những năm 70.
Thực tiễn đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp công nghiệp cho thấy ngành cơ khí còn tỏ ra khá lúng túng do còn một số vấn đề chưa thông suốt.
Trong những năm 60 chúng ta coi cơ khí là then chốt trong sự nghiệp công nghiệp hoá- quan điểm này đúng về nguyên tắc và lâu dài. Nhưng trong lúc nền kinh tế chưa phát triển, nguồn vốn có hạn, thì chưa thể phát triển ngành cơ khí đúng với vai trò của nó. Hơn nữa trong điều kiện ít vốn chúng ta lại phát triển ngành cơ khí theo chiều rộng, phân tán và còn mang tính hình thức. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường đáng lẽ phải có chủ trương, chính sách phát triển phù hợp thì chúng ta lại thả nổi ngành cơ khí, để các doanh nghiệp tự bươn chải trong cơ chế thị trường. Kết quả là đã qua nhiều năm xây dựng nhưng ngành cơ khí Việt nam vẫn quá nhỏ bé, không thể đáp ứng đủ nhu cầu trong nước và khả năng cạnh tranh với hàng cơ khí nước ngoài là rất thấp. Hiện nay ngành cơ khí mới có khả năng đáp ứng nhu cầu trong nước được 9%, và năm 1995 phải nhập khẩu 3 tỷUSD sản phẩm cơ khí.
2.2. Ngành dệt may:
2.2.1. Thực trạng công nghệ của ngành dệt may:
-Về thực trạng thiết bị và công nghệ kéo sợi: Đến năm 1996, cả nước có 800.124 cọc sợi, 3.520 roto tại 13 công ty nhà nước, công suất toàn bộ là: 62.447 tấn trong đó thiết bị cũ chiếm tỷ trọng lớn. Trình độ tự động thấp, sản phẩm có trình độ thấp hơn so với trình độ thế giới. Công nghệ kéo sợi thô chiếm phần lớn, sẩn xuất các loại chỉ số thấp. Công nghệ kéo sợi pha PE không vượt quá 10% sản lượng. Tuy nay được cải thiện song tỷ lệ này không cao, chất lượng còn thấp.
-Về thực trạng công nghệ may: Trước năm 90, thiết bị may được nhập từ nhiều nguồn, ban đầu là các máy đạp chân, rồi máy may Liên Xô. Sau năm 90, ngành may đã đầu tư thông qua việc tiếp nhận thiết bị và công nghệ mới tiên tiến, trở thành ngành xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, năng lực sản xuất đã đạt gần 300 triệu tấn/năm, số máy may công nghệ gần 70.000 chiếc. Có thể nói ở các công đoạn chuẩn bị sản xuất, thiết kế, cắt, may, đóng gói công nghệ khá phát triển.
-Về thực trạng công nghệ dệt kim: ngành này tuy còn khá mới mẻ nhưng là ngành đầy triển vọng trong tương lai. Hiện nay các xí nghiệp quốc doanh đã chuyển hết cho ngành công nghiệp ngoài quốc doanh hay bị thanh lý. Số thiết bị mới hiện đại được nhập từ Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quôc (157 máy dệt kim tròn, 167 máy dệt cổ áo, 67 máy dệt bít tất) có năng suất và chất lượng sản phẩm cao.
2.2.2. Thực trạng đổi mới công nghệ ngành dệt may:
Theo số liệu thống kê trong 5 năm (1991-1996) Tổng công ty Dệt-May đã đầu tư 1.485 tỷ VNĐ trong đó đầu tư cho dệt là 1.218 tỷ VNĐ và đầu tư cho may là 267 tỷ VNĐ, bao gồm vốn vay nước ngoài là 419,318 tỷ VNĐ (chiếm 28%), vốn vay trong nước là 691,363 tỷ VNĐ (chiếm 47%), các nguồn vốn tự huy động khác là 340,555 tỷ VNĐ (chiếm 22%), vốn ngân sách cấp là 33,365 tỷ VNĐ (chiếm 3%).
Mức độ đầu tư và hiệu quả đạt được ở các doanh nghiệp dệt là khác nhau, có thể phân thành 3 mức độ:
Loại thứ nhất: Các doanh nghiệp tích cực đầu tư và đầu tư có hiệu quả tốt như công ty Dệt Hà Nội, công ty Dệt Nha Trang, nhà máy Dệt Thành Công… Các công ty này đã chọn hướng đầu tư đúng, tìm được hình thức hướng đi thích hợp vừa đầu tư chiều sâu, nâng cao chất lượng sản phẩm, vừa đầu tư mở rộng, đầu tư mới, từng bước hiện đại hoá.
Loại thứ hai: Các công ty, nhà máy tích cực đầu tư mới, mở rộng sản xuất, đầu tư chiều sâu nhưng đầu tư không có hiệu quả, mất khả năng trả nợ, đứng trước nguy cơ phá sản như công ty dệt Nam Định, công ty Len Biên Hoà…
Loại thứ ba: Các công ty, nhà máy suốt những năm vừa qua còn đang lúng túng chưa tìm được hướng đi lâu dài nên hầu như không có đầu tư, tình trạng rất khó khăn, phải thu hẹp sản xuất như công ty đay Trà Lý, Công ty dệt vải công nghiệp len Hải Phòng…
Trong ngành may, tất cả các doanh nghiệp và tổng công ty đều đổi mới 100% thiết bị, đồng thời đầu tư mở rộng sản xuất, hình thành nên nhiều cơ sở sản xuất dưới hình thức các xí nghiệp thành viên, xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp vệ tinh. Các công ty điển hình như là: Công ty may Việt Tiến, Công ty may10, Công ty may Đức Giang, Công ty may Hải Phòng…Ngành dệt may đã đầu tư thêm 121.222 cọc sợi, năng lực dệt được đầu tư thêm 1.087 máy, năng lực may được bổ sung 29.527 máy trong đó có nhiều máy móc thiết bị hiện đại của các nước Châu Âu, Nhật Bản có năng suất.
Việc đổi mới thiết bị trong ngành may có nhiều thuận lợi hơn trong ngành dệt. Trước hết vốn đầu tư cho thiết bị may là không lớn, khoảng 1 triệu USD là có thể trang bị đủ một dây chuyền may xuất khẩu. hơn nữa thị trường hàng may đang được mở rộng.
Đầu tư phát triển ngành may trở thành một ngành xuất khẩu quan trọng là một bước đi hợp lý và là một hướng mở rộng cho ngành dệt phát triển.
Tình hình đổi mới công nghệ của ngành dệt may có thể đánh giá khái quát như sau:
+ Về thiết bị: Nhìn chung các công ty dệt-may đã có những bước chuyển mình về đổi mới công nghệ và thiết bị sản xuất. Thiết bị, máy móc của các doanh nghiệp đã được đổi mới và hiện đại hoá một bước đáng kể. Tỷ lệ thiết bị trung bình đạt 43,5%. Các doanh nghiệp có tỷ lệ thiết bị cao như Công ty Dệt len Vĩnh Thịnh ( Tp Hồ Chí Minh): 80%; Công ty Dệt Thành Công (Tp Hồ Chí Minh): 59%; Công ty May10 (Hà Nội): 63%.
Tuy nhiên do hạn chế về tài chính nên phần lớn máy móc thiết bị nhập mới chỉ là những máy thông dụng nhất, rất ít máy chuyên dụng. Máy móc và cung dệt may phần lớn chỉ tương đương thế hệ những năm 70-80 của thế giới. Máy và công nghệ hiện đại điều khiển theo chương trình tự động còn ít. Một mặt do trình độ chế tác của các thiết bị còn chênh lệch giữa các doanh nghiệp trong ngành, giữa các doanh nghiệp quốc doanh trung ương và địa phương nên khả năng liên kết, hợp tác sản xuất kém, chất lượng sản phẩm khó đạt mức ổn định. Thiết bị đổi mới không đồng bộ, nhất là các thiết bị phù trợ (60-70% là thiết bị cũ, nhiều chủng loại).
+ Về con người: Cán bộ, công nhân viên của các doanh nghiệp có khả năng vận hành, tiếp thu mới công nghệ nhanh, khoảng 50% doanh nghiệp có thể làm chủ các dự án đổi mới công nghệ, số còn lại không có cơ sở tự đào tạo (mà phải dựa vào bên ngoài). Hầu hết các doanh nghiệp đều thiếu cán bộ chuyên môn sâu và những cán bộ có năng lực quản lý.
+ Về thông tin: Các doanh nghiệp thiếu thông tin về
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 64007.doc