Đề tài Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của các công ty chứng khoán ở Việt Nam

Mục lục

I- Những vấn đề cơ bản CTCK tại Việt Nam .1

1. Văn bản pháp luật điều tiết hoạt động CTCK .1

2. Cơ quan quản lý trực tiếp 1

3. Tổng quan về CTCK tại Việt Nam

4. Một số nguyên tắc chung về tổ chức và hoạt động của CTCK tại VN 5

II-Thực trạng .5

1.Giai đoạn 2000 – 2005 .5

1.1.Số lượng và quy mô hoạt động của công ty chứng khoán.5

1.2.Chất lượng hoạt động.7

2.Giai đoạn 2006 – 2007 .8

2.1.Số lượng và quy mô hoạt động của công ty chứng khoán.8

2.2.Về hoạt động của các công ty chứng khoán.9

a.Về hoạt động môi giới .10

b.Về hoạt động tự doanh .11

c.Hoạt động bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành .12

d.Hoạt động tư vấn .12

3. Giai đoạn nửa cuối 2007 đến 9 tháng đầu năm 2009 .15

3.1. Về số lượng và quy mô giao dịch.15

3.2.Kết quả của hoạt động kinh doanh.16

3.3.Hạn chế về hoạt động của các công ty chứng khoán.18

4. Giai đoạn 3 tháng cuối năm 2009 cho đến nay .19

4.1. Tình hình hoạt động tổng quan.19

4.2 Bất cập .26

1. Thao túng giá .

2.Bán khống cổ phiếu .

3.Tính minh bạch .

III-Giải pháp cho các công ty chứng khoán.28

 

doc31 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1669 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của các công ty chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công ty này lên đến 1.786 tỉ đồng, trong khi đầu tư tài chính dài hạn chỉ có 147,8 tỉ đồng. Tổng giá trị chứng khoán tự doanh tính tại thời điểm ngày 30/6/2007 đạt 9.667 tỷ đồng (tăng 4.671 tỷ đồng, tương đương 48,31% so với thời điểm 01/01/2007). Đối với 14 CtyCK đã hoạt động lâu năm, giá trị chứng khoán tự doanh (2 công ty là SCBS và BSC không báo cáo số liệu này) tính tại thời điểm ngày 30/6/2007 đạt 5.997 tỷ đồng (tăng 1.000 tỷ đồng, tương đương 16,69% so với giá trị ngày 01/1/2007). Một số công ty có giá trị tự doanh cuối kỳ tăng khá nhanh và đạt giá trị cao. Đối với khối CtyCK được cấp phép vào cuối năm 2006, tại thời điểm đầu kỳ, giá trị tự doanh không đáng kể vì công ty chưa triển khai hoạt động thì đến thời điểm 30/6/2007, giá trị chứng khoán tự doanh của khối công ty này đạt 3.345 tỷ đồng (chiếm 35,63% giá trị tự doanh của 59 CtyCK). Một số công ty đã đẩy nhanh nghiệp vụ tự doanh mặc dù hoạt động chưa lâu như: CtyCK Ngân hàng Sacombank (giá trị chứng khoán tự doanh đạt 571 tỷ đồng), CtyCK Vndirect (giá trị chứng khoán tự doanh đạt 587 tỷ đồng), CtyCK Ngân hàng Đông Nam Á (giá trị chứng khoán tự doanh đạt 458 tỷ đồng).   c.Hoạt động bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành Hoạt động bảo lãnh phát hành của các CtyCK 6 tháng đầu năm 2007 vẫn tập trung chủ yếu là bảo lãnh phát hành các loại trái phiếu như trái phiếu chính phủ cho Kho bạc Nhà nước, trái phiếu ngân hành, trái phiếu đô thị (xem bảng dưới đây). Công ty Khối lượng bảo lãnh Giá bảo lãnh (đồng) Vốn chủ sở hữu của CtyCK (tỷ đồng) Hình thức bảo lãnh Số hợp đồng bảo lãnh Giá trị bảo lãnh (triệu đồng) BVSC 5.314 33.500 150 Chắc chắn 1 178 ACBS 880.000 67.000 250 Chắc chắn 1 58.960 Cty CK Thăng Long 108.758 451.000 120 Chắc chắn 2 49.050 Như vậy, các CtyCK đã thực hiện 4 hợp đồng bảo lãnh phát hành với hình thức bảo lãnh cam kết chắc chắn. Các hợp đồng bảo lãnh nói trên đã thực hiện theo đúng quy định hiện hành do giá trị chứng khoán đã được bảo lãnh không vượt quá 50% vốn điều lệ của CtyCK. Tuy nhiên, số liệu trên cũng cho thấy, trong thời gian gần đây, có rất ít CtyCK thực hiện việc bảo lãnh phát hành và các công ty chưa chú trọng đầu tư tìm kiếm khách hàng, đào tạo nhân sự, xây dựng quy trình chuẩn để triển khai nghiệp vụ này. d.Hoạt động tư vấn - Tư vấn đầu tư chứng khoán Mảng hoạt động này nhìn chung đã bắt đầu tiến triển với số hợp đồng tư vấn đầu tư chứng khoán của các công ty đạt 55 hợp đồng (tại thời điểm 1/1/2007 chỉ có 6 hợp đồng tư vấn đầu tư). Điều này cho thấy trong sự phát triển, các CtyCK đang dần chuyển sang hướng quan tâm, chú trọng hơn đến hoạt động chăm sóc khách hàng. Tuy nhiên, so với khoảng 255.000 tài khoản giao dịch chứng khoán tại các CtyCK hiện nay, số hợp đồng trên là không đáng kể và tiềm năng để các CtyCK phát triển mảng hoạt động này là không nhỏ. Tuy là CtyCK được cấp phép cuối năm 2006 và triển khai hoạt động chưa lâu, CtyCK An Bình hiện đang có số hợp đồng tư vấn đầu tư chứng khoán lớn nhất (50 hợp đồng). - Tư vấn niêm yết Tổng số hợp đồng tư vấn niêm yết tại thời điểm hiện nay của các CtyCK là 100 hợp đồng, trong đó có 9 hợp đồng được ký trong tháng 6/2007 (so với 67 hợp đồng tại thời điểm 1/1/2007). Như vậy, hoạt động tư vấn niêm yết có những dấu hiệu khả quan hơn so với thời điểm đầu năm. Những CtyCK đang thực hiện nhiều hợp đồng tư vấn niêm yết là CtyCK Sài Gòn (30 hợp đồng), CtyCK Ngân hàng ACB (14 hợp đồng), CtyCK Ngân hàng Đông Nam Á. - Tư vấn khác Tổng số hợp đồng tư vấn khác tại ngày 30/6/2007 là 305 hợp đồng, trong đó có 77 hợp đồng được ký, 42 hợp đồng được thanh lý trong tháng 6/2007. Các hợp đồng  này chủ yếu là hợp đồng tư vấn cổ phần hóa và bán đấu giá cổ phần. Các công ty có nhiều hợp đồng tại thời điểm này là SSI (42 hợp đồng), ACBS (35 hợp đồng), IBS (32 hợp đồng). Nhìn chung, hoạt động tư vấn đã có những phát triển đáng kể so với thời gian đầu năm, các CtyCK đã chú trọng hơn đến nghiệp vụ tư vấn. Không chỉ những công ty đã hoạt động lâu năm mà những công ty được cấp phép trong năm 2006 cũng đã triển khai hoạt động này khá tốt. Hạn chế và nguyên nhân: 1.Tại thời điểm hiện nay, cơ sở hạ tầng của TTCK nói chung và các CTCK nói riêng còn khá lạc hậu, thiếu đồng bộ và có thể nói là chưa an toàn. Với bất kỳ sự thay đổi nhỏ nào về giải pháp kỹ thuật hay phương thức trong giao dịch đều sẽ có những ảnh hưởng đến việc quản lý giao dịch tại các CTCK. Nếu đầu tư công nghệ không được xây dựng một cách đồng bộ thì khả năng tích hợp giữa các CTCK với Trung tâm giao dịch chứng khoán sẽ nảy sinh nhiều vấn đề. 2. Nhân sự đang là bài toán khó đối với các CTCK. Cả nước hiện chỉ có khoảng 300 nhà môi giới trong các CTCK nhưng phải phụ trách một số lượng vốn rất lớn. Bình quân mỗi nhà môi giới phụ trách đến 500 tỉ đồng và số lượng vốn đang không ngừng tăng lên nên họ làm không xuể. Không chỉ thiếu về số lượng, nghiệp vụ tư vấn còn rất hạn chế khiến cho hoạt động này hiện nay là không đáng kể. Một chuyên gia trong ngành cho biết một số CTCK liên tục bị mất người do các nhân viên có tay nghề bỏ đi đầu quân nơi khác có thu nhập cao hơn. Nếu trước đây các CTCK khi tuyển chuyên viên phân tích tài chính luôn đòi hỏi ứng viên phải có khả năng phân tích tài chính doanh nghiệp tốt và có kinh nghiệm tối thiểu một năm, thì nay những yêu cầu không còn khắc nghiệt như trước, thậm chí phải chấp nhận tuyển người vừa học vừa làm. Kiểm tra của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước gần đây cho thấy tại CTCK Ngân hàng Ngoại thương có 13 trong tổng số 22 nhân viên kinh doanh chứng khoán chưa được cấp chứng chỉ hành nghề. Tình hình cũng tương tự tại CTCK Sài Gòn. 3. Hoạt động sôi nổi của TTCK khoảng một năm trở lại đây cho thấy các CTCK trong vai trò trung gian đang chứng tỏ đây là những cỗ máy kiếm tiền hiệu quả nhất trong ngành tài chính mới nổi tại Việt Nam. Bảng công bố nhanh kết quả hoạt động kinh doanh của các CTCK như SSI, ACBS, BSC, VCBS, BVSC... luôn làm giới tài chính giật mình. Cụ thể như qua tổng kết năm 2006, SSI dẫn đầu với doanh thu 378 tỉ đồng (trong đó lợi nhuận sau thuế lên đến 242 tỉ đồng), kế đến là VCBS có doanh thu 234 tỉ đồng (lợi nhuận 108,8 tỉ đồng), BSC với doanh thu 200 tỉ đồng (lợi nhuận trước thuế 65 tỉ đồng) hay ACBS đạt doanh thu 113 tỉ đồng (lợi nhuận trước thuế 84 tỉ đồng)... Một trong những nguồn thu lớn nhất của các CTCK đến từ phí dịch vụ môi giới, hiện đang được tính ở mức 0,2-0,3% tổng giá trị giao dịch của các nhà đầu tư (cá biệt có công ty thu đến 0,5% một lượt giao dịch). Nếu tính trung bình thị trường TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội đạt tổng giá trị giao dịch hơn 1.000 tỉ đồng/phiên thì cứ mỗi phiên số tiền ấy phải lên đến khoảng từ hai đến ba tỉ đồng. Điều này giải thích tại sao số hồ sơ CTCK xin cấp phép ngày càng nhiều tại Ủy ban Chứng khoán Nhà Nước Một số CTCK cũng đang giàu lên chủ yếu qua mảng tự doanh nhờ lợi thế thường xuyên được tiếp cận với các thông tin “nhạy cảm” từ các quỹ đầu tư nước ngoài cũng như các công ty niêm yết và chuẩn bị niêm yết. Đặc biệt, khi các đơn vị này đặt lệnh mua bán thì chính các CTCK được biết đầu tiên và một số công ty cũng đặt lệnh theo cho mình. Hành vi này được xem là bất hợp pháp nhưng hiện vẫn chưa được kiểm soát trên TTCK Việt Nam. 4. Nhiều công ty chứng khoán liên tục vi phạm các quy định về giao dịch. Cụ thể là cách đây chưa lâu Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh đã cảnh báo các CTCK Tràng An, Habubank, SBS, ACBS, BVSC và Đệ Nhất vì đại diện giao dịch của các công ty này thực hiện hủy lệnh giao dịch trong cùng đợt khớp lệnh. Do đây là một lỗi khá nghiêm trọng nên Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh đã khẳng định trong trường hợp tái phạm sẽ đình chỉ tư cách đại diện giao dịch của các nhân viên vi phạm này. 5. Hệ thống công nghệ thông tin của các CTCK đang là một trở ngại lớn đối với sự phát triển của chính họ. Theo tính toán của một chuyên gia trong ngành, để có hệ thống giao dịch đạt chuẩn, một CTCK có quy mô 100 nhân viên phải đầu tư khoảng hai triệu USD vào phần mềm, cộng với một triệu USD cho các khoản đầu tư đồng bộ khác và chừng 500.000 USD cho vốn lưu động. Điều này có nghĩa một CTCK phải có ít nhất trong tay hơn ba triệu USD mới có thể tính đến chuyện làm ăn lớn. Vậy mà hầu hết các CTCK hiện nay chỉ đầu tư chừng vài chục ngàn USD vào hệ thống công nghệ thông tin. Sự bất cập này bộc lộ qua việc Trung tâm Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh đã buộc phải tạm hoãn việc giao dịch khớp lệnh liên tục chỉ vì một số công ty thành viên không đáp ứng được yêu cầu. Rõ ràng, những hạn chế trên đây nếu không được sớm khắc phục thì các CTCK của chúng ta vẫn chỉ là người trung gian kiếm lợi, chưa phát huy vai trò tác nhân giúp TTCK phát triển lành mạnh. 3. Giai đoạn nửa cuối 2007 đến 9 tháng đầu năm 2009 Đây là giai đoạn thị trường chứng khoán có nhiều sự thay đổi. Các công ty chứng khoán cũng chịu ảnh hưởng lớn do sự biến động của thị trường. 3.1. Về số lượng và quy mô giao dịch Tính đến hết 12-2008, số lượng CTCK là 102 công ty, trong đó có 24 công ty được cấp phép trong năm 2008. Theo số liệu gần đây nhất, tính đến tháng 8/2009 số lượng CTCK là 104. Quy mô giao dịch trên thị trường không ổn định. Từ những tháng cuối năm 2008, khối lượng và giá trị giao dịch giảm dần, đặc biệt giảm mạnh vào đầu năm 2009. Từ tháng 02/2009 khối lượng và giá trị giao dịch đã có dấu hiệu đi lên và dần vào ổn định. Tháng Khớp lệnh Thỏa thuận Khối lượng Giá trị Khối lượng Giá trị 9 - 2009 651,765,000 23,795,944,290,000 9,209,915 397,819,880,000 8 - 2009 556,223,600 18,618,609,780,000 8,053,561 305,723,249,900 7 - 2009 369,676,900 11,985,734,540,000 10,175,286 359,035,850,000 6 - 2009 646,825,200 22,671,729,230,000 16,121,778 656,320,553,900 5 - 2009 575,340,200 15,923,114,180,000 7,242,672 219,431,489,900 4 - 2009 379,131,900 9,157,202,910,000 7,822,209 179,945,312,300 3 - 2009 217,688,200 4,110,436,010,000 3,060,497 51,699,166,700 2 - 2009 79,521,800 1,527,630,610,000 2,405,475 54,420,785,000 1 - 2009 54,301,100 1,122,368,900,000 5,270,313 249,524,547,600 12 - 2008 136,874,500 3,067,684,670,000 9,443,200 456,395,499,600 11 - 2008 167,032,300 4,512,373,810,000 6,123,639 208,762,282,700 10 - 2008 189,692,400 5,458,884,590,000 7,075,524 311,184,108,600 Sự bất ổn này là do tác động của nhiều yếu tố. Về việc sụt giảm giá trị giao dịch, trước hết là do ảnh hưởng của các chính sách kinh tế vĩ mô như thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt quá mạnh, các biện pháp về tài khoá chống lạm phát làm quy mô giao dịch giảm từ những tháng đầu năm 2008. Thứ hai là do tâm lý của nhà đầu tư. Đối với các doanh nghiệp cổ phần hóa hoặc niêm yết trên sàn, họ đều đưa ra những mức giá quá cao. Còn ở phía nhà đầu tư, người ta cũng kỳ vọng quá cao. Hai yếu tố này gặp nhau và đẩy thị trường lên khá cao. Và cuối năm 2007, thị trường đã nhận ra điều đó và có phản ứng. Ở phía nhà đầu tư rõ ràng là có phản ứng, người ta không chịu mua cao nữa, trong khi cái quán tính hay sự chuẩn bị của rất nhiều công ty để phát hành tăng vốn hay cổ phần hóa thì vẫn tiếp tục triển khai, phát hành hoặc niêm yết giá cao. Khi mà thị trường không chấp nhận nữa mà giá vẫn tiếp tục được đẩy ra cao như thế thì thị trường buộc phải kéo xuống. Chính lý do đó đã làm cho quy mô giao dịch giảm mạnh. Bên cạnh đó, đầu năm 2009 cũng trùng với giai đoạn Tết Âm lịch. Theo tâm lý nhà đầu tư Việt Nam ”không muốn mất tiền vào ngày mùng 1”, thêm vào đó là việc rút bớt vốn để thanh toán các khoản nợ đã làm giá trị giao dịch giảm đáng kể. Thứ ba, do thị trường chứng khoán thế giới bắt đầu suy giảm mạnh thì Việt Nam không tránh khỏi sự ảnh hưởng, cho tới giờ phút này. Sự gia tăng trở lại của khối lượng giao dịch từ 2/2009 là do ảnh hưỏng lớn từ các chính sách kích cầu của chính phủ và sự phục hồi dần của nền kinh tế. Tổng kết lại: Năm 2007, tăng trưởng giá trị giao dịch cao hơn tăng trưởng số lượng công ty chứng khoán, bởivậy giá trị giao dịch / 1 công ty chứng khoán tăng cao hơn, giúp các công ty chứng khoán có lãi hơn trong môi giới giao dịch. Năm 2008, tăng trưởng giá trị giao dịch không theo kịp với tăng trưởng số lượng các công ty chứng khoán, bởi vậy giá trị giao dịch trung bình / 1 công ty chứng khoán đang có xu thế giảm. 3.2.Kết quả của hoạt động kinh doanh: Những khoản lỗ khổng lồ Bất ngờ nhất có lẽ là khoản lỗ lên tới 554 tỷ đồng của CTCK Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BSC). Với khoản lỗ này, BSC chỉ còn vỏn vẹn 274 tỷ đồng vốn chủ sở hữu, trong khi vốn điều lệ của công ty này là 700 tỷ đồng (vào thời điểm cuối năm 2008, tổng các khoản trích lập dự phòng giảm giá của BSC là gần 633,5 tỷ đồng). Tuy nhiên, tỷ lệ lỗ/vốn điều lệ của BSC chỉ là 79,16%, không phải là mức thua lỗ lớn nhất. Xét theo tiêu chí này, kỷ lục tạm thời thuộc về CTCK Bảo Việt (BVSC). Với khoản lỗ 452 tỷ đồng trên vốn điều lệ 451 tỷ đồng, tương đương 100,2% vốn điều lệ, BVSC đã khiến khá nhiều NĐT bất ngờ. Dù vậy, do vốn chủ sở hữu lớn có được từ thặng dư phát hành và tích lũy các năm trước, BVSC vẫn duy trì mức vốn chủ sở hữu lớn, lên tới 1.067,57 tỷ đồng. Một số CTCK khác cũng có tỷ lệ lỗ/vốn điều lệ lớn như: Kim Long, Âu Việt, Hải Phòng…Phân tích sơ bộ BCTC năm 2008 tóm tắt cho thấy, các CTCK thua lỗ chủ yếu do hoạt động tự doanh. BVSC phải trích lập các khoản đầu tư lên tới hơn 445 tỷ đồng, VNDirect trích 105,8 tỷ đồng, CTCK Hải Phòng trích 87,7 tỷ đồng… Sự thua lỗ của CTCK là hình ảnh chung, phù hợp với diễn biến TTCK suy giảm và kém thanh khoản trong năm 2008. Những CTCK có nghiệp vụ chính là môi giới và tư vấn cũng thua lỗ. Trường hợp CTCK Tầm Nhìn, vốn điều lệ là 25 tỷ đồng, đủ cho nghiệp vụ môi giới, nhưng sau 2 năm hoạt động, doanh thu (năm 2007 và 2008) chỉ đạt hơn 3 tỷ đồng, khoản lỗ tổng cộng lên đến hơn 13 tỷ đồng, dẫn đến vốn chủ sở hữu của công ty này chỉ còn non nửa (11,2 tỷ đồng). Một số CTCK dù đã đi vào hoạt động từ trước năm 2007, nhưng doanh thu vẫn rất khiêm tốn, thể hiện hoạt động môi giới chưa hiệu quả, như trường hợp của CTCK Nam Việt, doanh thu các năm 2007 và 2008 chỉ đạt lần lượt 30 triệu đồng và 277 triệu đồng! 9 tháng đầu năm 2009: Vượt cả dự tính! Bắt sóng phục hồi của thị trường, lợi nhuận của các công ty nhanh chóng trở lại. Đến thời điểm này nhiều công ty chứng khoán đã công bố kết quả kinh doanh 6 tháng đầu năm 2009. Trong đó, có những con số vượt cả dự tính, nhưng không gây ngạc nhiên, khi đặt trong những chuyển biến tích cực trên của thị trường. Mặt khác, sau khi trải qua năm 2008 đầy khó khăn, cũng như trong quý 1/2009, hầu hết các thành viên đều rất thận trọng khi dự tính các mục tiêu trong năm này. Công ty Cổ phần Chứng khoán Tp.HCM (HSC) là một trong số ít thành viên có lãi năm 2008 (23,5 tỷ đồng). Năm 2009, HSC đặt mục tiêu thu lợi nhuận trước thuế khoảng 123 tỷ đồng; sau 6 tháng đầu năm, kết quả đã vượt mục tiêu với hơn 144,5 tỷ đồng. Tương tự, ngày 3/8, Công ty Cổ phần Chứng khoán Thiên Việt (TVS) thông báo đã đạt tới 150% kế hoạch lợi nhuận cả năm chỉ sau 6 tháng đầu năm. Báo cáo cho thấy lũy kế 6 tháng đầu năm của công ty này đạt hơn 29,5 tỷ đồng lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh chứng khoán; trong khi mục tiêu đưa ra đầu năm cho cả năm là 20 tỷ đồng, tăng 20% so với năm 2008. Nhưng không phải tất cả các công ty chứng khoán đều có được những kết quả khả quan như trên. Đa số các thành viên hiện chưa công bố các dữ liệu cụ thể, nhưng một số trường hợp cho thấy vẫn còn nhiều khó khăn hoặc chưa tìm lại được khả năng sinh lãi. Ngày 31/7, Công ty Cổ phần Chứng khoán Hải Phòng (HASECO) công bố kết quả kinh doanh với mức lỗ 15,79 tỷ đồng trong quý 2/2009 và 6 tháng đầu năm lỗ 31,41 tỷ đồng. Nguyên nhân lỗ được giải thích là do công ty trích lập dự phòng giảm giá chứng khoán. Tại Công ty Chứng khoán VPBank, hiện chưa có tổng kết 6 tháng, nhưng trong 5 tháng đầu năm, tổng thu nhập thuần là 16,6 tỷ đồng trong khi tổng chi phí hoạt động là 18,4 tỷ đồng… Đạt được thành quả này là do nhiều yếu tố: Trước hết, nguồn tiền bùng nổ với mức độ chưa từng có trong lịch sử, diễn ra trong tháng 5 và nửa đầu tháng 6 đã thúc đẩy doanh thu từ phí môi giới của các công ty chứng khoán tăng đột biến. Tại KLS, nếu trong quý 1 doanh thu hoạt động môi giới chứng khoán chỉ khoảng 1,8 tỷ đồng, thì kết thúc quý 2 đã vọt lên hơn 9,8 tỷ đồng. Tại HSC, những con số tương ứng là từ khoảng 4,7 tỷ đồng lên hơn 30,2 tỷ đồng. Hay ở BVSC, nguồn thu từ phí giao dịch lên tới 24 tỷ đồng, tăng tới 300% so với quý 1/2009… Đó là những thuận lợi từ sự sôi động của thị trường, phân bổ cho các thành viên theo thị phần môi giới. Nhưng đó chỉ là phần nhỏ trong cơ cấu lợi nhuận. Phần lớn hơn có từ hoạt động tự doanh cùng với những khoản hoàn nhập dự phòng giảm giá chứng khoán trước đó. Có thể thấy tại những công ty lớn, khoản hoàn nhập dự phòng nói trên trong 6 tháng đầu năm tương đối lớn, như SSI là gần 151 tỷ đồng, KLS gần 44 tỷ đồng, BVSC hơn 200 tỷ đồng… Tuy nhiên, không hẳn tất cả các công ty chứng khoán đều có chiến lược đầu tư quyết đoán để “bắt sóng” phục hồi trong thời điểm trên. Điều này đồng nghĩa với việc bỏ qua cơ hội để có thể cải thiện tình thế vẫn lỗ trong bối cảnh hồi phục chung. Từ đây, nhiều nhà đầu tư hoài nghi có tình huống một số công ty chứng khoán lỡ đợt sóng quý 2 cùng đưa ra những nhận định bi quan để “đánh xuống” thời gian gần đây. 3.3.Hạn chế về hoạt động của các công ty chứng khoán: 1. Quy đinh về vốn Theo nghị định số 14/2007/NĐ-CP ngày 19/01/2007 quy định, công ty chứng khoán đã được cấp giấy phép hoạt động kinh doanh nhưng không đáp ứng đủ điều kiện về vốn sẽ phải làm thủ tục tăng vốn trong thời hạn hai năm kể từ ngày Nghị định có hiệu lực. Điều này dẫn đến một tình trạng : các CTCK nếu muốn đáp ứng đủ các điều kiện về vốn theo quy định mà không gây ảnh hưởng đến thị trường thì thường cắt giảm 2 nghiệp vụ: bảo lãnh phát hành, tự doanh. Trong khi đó tự doanh chính là nghiệp vụ đem lại nhiều lợi nhuận cho công ty trong thời kì trước đó. Tuy nhiên một số công ty vẫn muốn hoạt động trên cả 4 nghiệp vụ thì phải tăng vốn. Theo thống kê của Ủy ban chứng khoán Nhà nước, khoảng 35 công ty chứng khoán thuộc diện phải tăng vốn hoặc cắt bớt nghiệp vụ đã thực hiện gần như đầy đủ. Một số công ty đang trong quá trình hoàn tất thủ tục để trình lên SSC. Vậy các công ty chứng khoán sẽ tăng vốn bằng cách nào? Huy động thêm vốn không phải là một giải pháp được lựa chọn bởi việc thực hiện cực khó, lối ra được nhiều công ty chứng khoán nghĩ đến là xin giảm bớt nghiệp vụ để phù hợp với vốn điều lệ hiện tại. Phát hành thêm cổ phiếu lúc này không có người mua trong khi cổ đông sáng lập cũng không dám bỏ thêm vào. Thêm vào đó nếu tăng vốn, công ty cũng không biết sử dụng vào mục đích gì, nếu lại đi đầu tư sẽ lỗ thêm. Việc rút bớt nghiệp vụ không ảnh hưởng gì đến thị trường bởi nhu cầu hiện tại không có. Khi thị trường khởi sắc, công ty sẽ xin tăng vốn, bổ sung nghiệp vụ cũng không Bảo lãnh phát hành chứng khoán ngốn nhiều vốn nhất (165 tỷ đồng) được nhiều công ty chứng khoán chọn cắt giảm, như các công ty Tràng An, Quốc Tế, Hà Nội, Thủ Đô, SME, Quốc Gia, Việt Tín. Thị trường hiện tập trung vào hai nghiệp vụ chính: môi giới và tư vấn đầu tư, vốn cần thiết cho hai mảng này cũng chỉ có 35 tỷ đồng muộn. Chứng khoán năm qua sụt hơn 60% giá trị, hoạt động tự doanh nhiều công ty chứng khoán thua lỗ. Do vậy, đây cũng là nghiệp vụ được các công ty chứng khoán chọn cắt giảm. Tuy nhiên, với khoản tự doanh còn tồn đọng, nếu buộc phải thanh lý ngay khi Ủy ban chứng khoán Nhà nước chấp thuận cho cắt giảm liệu sẽ tạo làn sóng bán tháo vẫn là nỗi lo của nhiều người. 2. Sự xuất hiện của sàn vàng Một sự kiện nổi lên trong hoạt động của các công ty chứng khoán những tháng đầu tiên năm 2009 là liên kết với các sàn vàng mở đại lý nhận lệnh. Tận dụng nhân lực, cơ sở vật chất, khách hàng hiện có để được thêm khoản phí môi giới hàng tháng, đây chính là lý do khiến các sàn vàng mọc lên nhanh chóng. Tuy nhiên, đến cuối tháng 3/2009 Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã có văn bản yêu cầu các công ty chứng khoán phải tạm ngừng mở sàn vàng đề chờ văn bản hướng dẫn cụ thể. Theo đó, đối với các công ty chưa mở sàn giao dịch vàng, Ủy ban Chứng khoán yêu cầu không được mở sàn giao dịch vàng cho đến khi có văn bản hướng dẫn. Đối với những sàn đã mở, Ủy ban Chứng khoán yêu cầu các công ty chứng khoán phải báo cáo thời gian mở sàn giao dịch vàng; hình thức pháp lý; đối tác hợp tác mở sàn; doanh số giao dịch bình quân tháng,…Trên thực tế, hơn 2 tháng kể từ ngày UBCKNN yêu cầu các công ty chứng khoán tạm ngưng mở sàn vàng, các sàn vàng không những hao hụt đi mà còn tiếp tục mọc lên mạnh mẽ. Câu hỏi đặt ra là có nên hay không trong việc cho phép mở các sàn vàng? Có rất nhiều ý kiến trái chiều nhau về vấn đề này. Nhưng theo ý kiến khách quan Trong một thời gian dài VN-Index rớt từ hơn 1.000 xuông hơn 200 điểm. Nhà đầu tư chịu thiệt hại rất lớn. Tiền mất dần trong chứng khoán buộc nhà đầu tư phải tìm cơ hội đầu tư khác để giữ lại giá trị trong điều kiện kinh tế suy giảm. Việc công ty chứng khoán mở sàn vàng cũng là mở đường thoát cho nhà đầu tư. Vậy giải pháp đưa ra là nên đưa ra để nâng cao tính kiểm soát chứ không phải cấm đoán vì các công ty chứng khoán có trăm nghìn cách để lách quy định. UBND TP.HCM đã thống nhất sẽ kiến nghị Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính giao Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM quản lý sàn vàng tập trung tại TP.HCM, nhằm đảm bảo hoạt động an toàn và hạn chế rủi ro cho người kinh doanh. Hiện cả nước có hơn 20 sàn vàng. Người kinh doanh tại sàn có những quan ngại khác nhau khi chọn sàn vàng để kinh doanh. Rủi ro về công nghệ, tính pháp lý và tính minh bạch là vấn đề người kinh doanh quan tâm khi chọn sàn, bên cạnh tính thanh khoản cao và dịch vụ rẻ. Yêu cầu cấp thiết đặt ra là phải xây dựng một khung pháp lý hoàn chỉnh để sàn vàng hoạt động một cách hiệu quả nhất. 4. Giai đoạn 3 tháng cuối năm 2009 cho đến nay 4.1. Tình hình hoạt động tổng quan Năm 2009 Thứ nhất, mạng lưới, quy mô hoạt động của CTCK được mở rộng, với 80 chi nhánh, 42 phòng giao dịch đang hoạt động tập trung ở nhiều tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, T.p Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ, Hải Phòng. Cùng với sự phát triển mạng lưới hoạt động, số lượng tài khoản giao dịch tại các CTCK cũng tăng mạnh với tổng số tài khoản trên 800.000 tài khoản, tăng 1,5 lần so với năm 2008. Thứ hai, Cùng với sự gia tăng khối lượng giao dịch, các CTCK đã thực hiện trên 5.000 hợp đồng tư vấn và bảo lãnh phát hành. Tính đến cuối năm 2009 đã có gần 80 CTCK hoạt động có lãi trong năm 2009. Quy mô vốn hoạt động của các CTCK ngày càng được nâng cao. Tính đến cuối năm 2009, tổng số vốn điều lệ của các CTCK là 24.855 tỷ đồng, tăng 9,4% so với năm 2008. Thứ ba, Số lượng người hành nghề kinh doanh chứng khoán ngày càng tăng. Tính đến nay, UBCKNN đã cấp chứng chỉ người hành nghề chứng khoán cho 2.744 nhân viên. Năm 2010 1. Kết quả kinh doanh Quý 2-2010, nhiều doanh nghiệp thô lỗ buộc phải tạm ngừng giao dịch vì theo quy định doanh nghiệp lỗ 2 năm liên tiếp sẽ bị tạm ngừng giao dịch. Trên HOSE, đã có những công ty như Bông Bạch Tuyết (BBT), Full Power (FPC), Tribeco (TRI) và gần đây có Interfood (IFS) . Trong số 9 công ty chứng khoán công bố báo cáo tài chính quí 3 thì đã có 6 công ty công bố lỗ, các công ty còn lại lợi nhuận cũng giảm mạnh. VnEconomy cập nhật kết quả kinh doanh quý 3 và lũy kế 9 tháng năm 2010 của các công ty chứng khoán niêm yết trên HOSE và HNX. * Công ty Cổ phần Chứng khoán Sài Gòn (mã SSI-HOSE) công bố doanh thu trong quý 3/2010 của công ty đạt 349,953 tỷ đồng, trong đó doanh thu hoạt động môi giới chứng khoán đạt 35,85 tỷ đồng, doanh thu hoạt động đầu tư chứng khoán, góp vốn đạt 103,281 tỷ đồng, doanh thu khác đạt 116,042 tỷ đồng. Lũy kế doanh thu 9 tháng năm 2010 đạt 1.181,32 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế trong quý 3/2010 đạt 146,164 tỷ đồng, lũy kế 9 tháng năm 2010 đạt 568,456 tỷ đồng. Năm 2010, SSI thông qua kế hoạch kinh doanh với doanh thu đạt 1.254 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế đạt 1.200 tỷ đồng, cổ tức tối đa 20%/mệnh giá bằng tiền hoặc cổ phiếu. * Công ty Cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt Nam (mã CTS-HNX) công bố doanh thu trong quý 3/2010 của công ty đạt 32,488 tỷ đồng, trong đó doanh thu hoạt động môi giới chứng khoán đạt 11,295 tỷ đồng, doanh thu hoạt động đầu tư chứng khoán, góp vốn đạt 8,636 tỷ đồng, doanh thu khác đạt 9,4 tỷ đồng. Lũy kế doanh thu 9 tháng năm 2010 đạt 126,056 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế trong quý 3/2010 lỗ 26,96 tỷ đồng, lũy kế 9 tháng năm 2010 lỗ 15,22 tỷ đồng. Năm 2010, CTS đặt mục tiêu với doanh thu đạt 360 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế đạt 140 tỷ đồng, cổ tức dự kiến 12%/vốn điều lệ. * Công ty Cổ phần Chứng khoán Hải Phòng (mã HPC-HNX) công bố doanh thu trong quý 3/2010 của công ty đạt 8,43 tỷ đồng, trong đó doanh thu hoạt động môi giới chứng khoán đạt 5,88 tỷ đồng, doanh thu hoạt động đầu tư chứng khoán, góp vốn đạt 1,896 tỷ đồng, doanh thu khác đạt 592,062 tỷ đồng. Lũy kế doanh thu 9 tháng năm 2010 đạt 42,906 tỷ đồng. Lợi nhuận sau thuế trong quý 3/2010 lỗ 42,954 tỷ đồng, lũy kế 9 tháng năm 2010 lỗ 42,572 tỷ đồng. Năm 2010, HPC đặt mục tiêu với

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của các Công ty Chứng khoán ở Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan