A. MỞ ĐẦU 1
Chương I: những vấn đề chung về xuất khẩu thuỷ sản Việt nam 4
I.KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA NGÀNH THUỶ SẢN VIỆT NAM 4
1.Khái niệm về ngành thuỷ sản trong nền kinh tế quốc dân 4
2. Đặc điểm của ngành sản xuất - kinh doanh thuỷ sản 6
3. Vai trò của ngành xuất khẩu thuỷ sản đối với sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam 8
3.1. Đối với phát triển kinh tế ngành 8
3.2. Đối với phát triển nền kinh tế quốc dân. 9
II. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam 12
1. Các nhân tố từ phía trong nước 12
1.1. Khả năng cung cấp nguyên liệu Thuỷ sản 12
1.2. Môi trường kinh tế và khoa học công nghệ. 16
1.3.Môi trường chính trị và luật pháp 17
1.4. Môi trường địa lý và sơ sở hậu cần nghề cá 18
2. Các nhân tố từ phía môi trường quốc tế 19
2.1. Nhu cầu tiêu thụ thuỷ sản của thị trường thế giới 19
2.2.Môi trường văn hoá xã hội của các nước nhập khẩu thuỷ sản. 21
112 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1221 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản lượng) so với năm 2001.
Năm 2003, xuất khẩu thuỷ sản gặp rất nhiều khó khăn do cơ cấu thị trường biến động, xuất khẩu vào Mỹ, Nhật, EU tăng đáng kể nhưng thị trường Trung Quốc, Hồng Kông và Đài Loan lại giảm mạnh. Đến hết tháng 12/2003, ngành thuỷ sản đã không đạt được chỉ tiêu 2,3 tỷ USD, kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt được 2,24 tỷ USD. Trong đó có nhiều nguyên nhân mà nguyên nhân chủ yếu là:
ảnh hưởng của dịch SARS làm cho việc xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Trung Quốc và Hồng Kông giảm bằng 1/2 so với năm 2002.
Trong và sau vụ kiện cá tra, cá basa, tuy các doanh nghiệp đã tăng cường công tác tiếp thị những thị trường khác nhưng chưa đủ mạnh.
Do lượng cung cấp tôm trên thế giới tăng quá lớn nên giá tôm giảm liên tục trong cả năm.
Do việc khai thác mực trong năm không có hiệu quả nên xuất khẩu mặt hàng này không đáng kể.
Quan hệ liên hoàn trong các lĩnh vực từ sản xuất nguyên liệu chưa thành một thể vững chắc cả về số lượng, chất lượng và vệ sinh.
Sau hai năm liên tiếp 2003 và 2004 không hoàn thành được kế hoạch đề ra, sang năm 2005 xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam đã hoàn thành vượt mức. Năm 2005, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 2738,72 triệu USD, tăng 14,08% so với năm 2004 (về giá trị) và 19,7 % (về sản lượng). Đó là do các nguyên nhân:
Sự tăng đột biến của nhóm các mặt hàng xuất khẩu sang các thị trường mới.
Công tác xúc tiến thương mại được nâng lên rõ rệt. Các doanh nghiệp đã nỗ lực và chủ động nâng cao hoạt động phát triển thị trường, với trình độ và năng lực dần đi theo hướng chuyên môn hoá. Bộ Thuỷ sản đã cùng VASEP đã phối hợp với các Sứ quán, Thương vụ Việt Nam ở nước ngoài tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại quảng bá sản phẩm thuỷ sản Việt Nam.
Thuỷ sản Việt Nam đã vượt qua rào cản thuế quan và phi thuế quan trên 2 thị trường lớn là Mỹ và EU.
Bộ đã phối hợp với các bộ, ngành và các địa phương hướng dẫn các doanh nghiệp tìm phương thức bán hàng phù hợp trước quy định bắt buộc ký quỹ liên tục của hải quan Mỹ.
Công tác vệ sinh an toan thực phẩm đã được chú trọng hơn nên đã nâng cao khả năng đáp ứng đòi hỏi của thị trường thế giới.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, chỉ trong 6 tháng đầu năm 2006, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đã đạt 1,409 tỷ USD, băngf 50,32% kế hoạch năm, tăng 29,03% so với cùng kỳ năm trước. Giá trị kim ngạch xuất khẩu của 6 tháng này đã xấp xỉ bằng tổng giá trị thực hiện của cả năm 2000, năm đánh dấu bước tăng trưởng đột biến về xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Thậm chí những dự báo lạc quan cho rằng xuất khẩu toàn ngành sẽ vượt qua ngưỡng 3 tỷ USD chứ không phải chỉ 2,8 tỷ USD như kế hoạch của năm.
Mạng lưới xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
Các công ty xuất khẩu thuỷ sản lớn của Việt Nam là Tổng công ty thuỷ sản Việt Nam, Công ty xuất nhập khẩu Thuỷ sản Minh Hải, Công ty thuỷ sản xuất nhập khẩu tổng hợp Sóc Trăng, Công ty chế biến thuỷ sản xuất khẩu Nha trang, Công ty xuất nhập khẩu tổng hợp Cà Mau.... Dù còn nhiều vấn đề phải giải quyết, nhưng các công ty đã cố gắng để thích ứng dần với môi trường kinh doanh quốc tế và đạt được vị trí nhất định trên thị trường thuỷ sản quốc tế thông qua việc cung cấp dạng sản phẩm xuất khẩu phong phú ( hầu như mọi dạng sản phẩm thuỷ sản) tới hầu như khắp thị trường thuỷ sản lớn của thế giới như Nhật Bản, Hoa Kỳ và liên minh châu Âu (dù rằng xuất khẩu sang Nhật Bản vẫn là lớn nhất).
* Cơ cấu thị trường xuất khẩu của Tổng công ty Thuỷ sản Việt Nam- (SEAPRODEX): thị trường trọng điểm của công ty là Nhật Bản chiếm 30% tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty sau đó là các nước ASEAN( 10%) và EU( 10%). Xuất khẩu sang Mỹ chỉ chiếm 20% trị giá xuất khẩu ra các nước khác. Cơ cấu xuất khẩu của SEAPRODEX có thể đại diện cho cơ cấu xuất khẩu thuỷ sản chung của cả nước như đã phân tích ở phần trên.
Bên cạnh đó, một số công ty xuất nhập thuỷ sản khác của Việt Nam, thì thị trường truyền thống xuất khẩu của họ cũng là Nhật Bản, các nước ASEAN và các nước khác trong khu vực , trong đó Singapo, Đài Loan hoặc Hồng Kông là bạn hàng lớn thứ hai sau Nhật Bản. Chẳng hạn công ty chế biến thuỷ sản đông lạnh Nha Trang xuất khẩu hàng năm 20 triệu USD hàng thuỷ sản, thì xuất khẩu sang thị trường Nhật là 13 trỉệu USD, xuất khẩu sang Đài Loan là 5 triệu USD, Công ty xuất khẩu tổng hợp Cà Mau xuất khẩu hàng năm 36 triệu USD hàng thuỷ sản thì riêng xuất sang thị trường Nhật đã là gần 30 triệu USD, các nước ASEAN 1,1 triệu USD, hay Công ty xuất khẩu Minh Hải xuất khẩu trên 14 triệu USD thuỷ sản thì có tới 13 triệu USD là xuất sang thị trường Nhật, công ty cổ phần ngoại thương và phát triển đầu tư thành phố Hồ Chí Minh-FIDECO xuất khẩu 10,9 triệu USD hàng thuỷ sản năm 2000 thì riêng xuất sang thị trường Nhật đã là 9,4 triệu USD còn lại là xuất khẩu sang Singapo 0,67 triệu USD và Hồng Kông 0,53 triệu USD.
Công ty cá hộp Hạ Long, xuất khẩu 4,8 triệu đôla cá đông lạnh và cá hộp xuất khẩu chủ yếu đi CHLB Đức và LiBi (những thị trường không truyền thống của Việt Nam) khoảng 3,8 triệu USD, còn lại 1 triệu USD là xuất khẩu sang Trung Quốc.
Xuất khẩu chủ yếu sang Nhật Bản và các nước ASEAN, ngoài những thuận lợi trên, các công ty xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam cũng phải đương đầu với những khó khăn lớn.
+Thứ nhất, đó là việc cảm thấy có thị trường tiêu thụ dễ tính hơn sẽ làm giảm tính năng động và những nỗ lực của các công ty trong việc thực hiện đa dạng hoá thị trường xuất khẩu.
+Thứ hai, xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam tuy chủ yếu là sang các thị trường nêu trên nhưng các nước khác trong vùng cũng xuất khẩu lớn vào thị trường lớn vào thị trường này và họ thường là những nhà xuất khẩu hàng đầu sang các thị trường đó chẳng hạn như Inđônêxia, Thái Lan, ấn độ, Trung quốc là những nhà xuất khẩu tôm lớn nhất không những sang Nhật Bản mà còn sang mọi thị trường khác của thế giới. Việt Nam hiện nay đang là lực lượng thách thức, tuy các đối thủ phải đè chừng nhưng những nước trên vẫn giữ vai trò quyết định trên thị trường, và nếu họ gặp khó khăn ở trên thị trường khác thì họ cũng dễ dàng hơn nhiều trong việc củng cố thị phần ở thị trường do họ đứng đầu và như vậy Việt Nam sẽ rất khó khăn trong việc tăng thị phần hay thực hiện một ý đồ thương mại nào đó( vấn đề giá cả, tìm bạn hàng mới hay đưa sản phẩm mới vào thâm nhập thị trường...)
Xét về cơ cấu dạng sản phẩm xuất khẩu, hàng thuỷ sản đông lạnh chiếm gần 70% tổng giá trị hàng thuỷ sản xuất khẩu của tổng công ty ( Tôm đông là 39%, Mực đông là 17%, Cá đông là 10%, Cua đông gần 1%, Nhuyễn thể đông là 1%, thuỷ sản khô chiếm 5% còn lại là các loại sản phẩm khác. Cơ cấu này mang tính điển hình của xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam và có thể đại diện cho cơ cấu xuất khẩu của các doanh nghiệp thương mại về hàng thuỷ sản ở Việt Nam như Công ty xuất nhập tổng hợp Cà Mau, Công ty FIDECO, Công ty thuỷ sản xuất nhập khẩu tổng hợp Sóc Trăng- STAPIMEX...
Thị trường xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam.
Theo thống kê của FAO, năm 2002, với 2,03 tỷ USD xuất khẩu thuỷ sản, Việt Nam đứng thứ 7 thế giới. Đến năm 2005, xuất khẩu thuỷ sản đạt 2738,72 triệu USD, Việt Nam được xếp trong danh sách 10 nước xuất khẩu thuỷ sản nhiều nhất thế giới. Thị trường xuất khẩu không ngừng đước mở rộng, hiện nay hàng thuỷ sản Việt Nam đã có mặt ở trên 105 nước và vùng lãnh thổ, trong đó có các thị trường lớn và khó tính như EU và Mỹ. Tuy nhiên, xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vẫn tập trung vào một số thị trường chính như Mỹ, Nhật, EU, Trung Quốc. Hiện các doanh nghiệp đang có xu hướng mở thêm các thị trường mới để tránh tình trạng bị lệ thuộc vào một số thị trường, giảm bớt khó khăn khi có những biến động tại các thị trường này.
Bảng 11: Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản vào các thị trường trên thế giới giai đoạn 1997-2005. Đơn vị tính: triệu USD.
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
KNXKTS
761,45
817,99
938,87
1478,61
1777,48
2022,82
2199,57
2400,78
2738,72
Nhật Bản
382,77
357,53
383,07
469,47
465,90
537,46
582,84
772,20
785,87
Mỹ
39,24
80,15
130,03
301,30
489,03
654,98
777,65
602,97
617,17
EU
75,17
93,39
89,98
71,78
90,74
73,72
116,74
231,53
380,90
Châu á (trừ Nhật Bản)
236,50
234,82
272,99
412,40
475,50
497,80
290,93
413,86
378,04
Thị trường khác
27,77
52,1
62,80
233,66
256,31
258,86
431,41
380,22
576,74
Bảng 12: Cơ cấu thị trường thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam giai đoạn 1997-2005. Đơn vị tính: %
Năm
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Cả nước
100
100
100
100
100
100
100
100
100
Nhật Bản
50,26
43,7
40,8
31,7
26,2
26,5
26,5
32,1
28,7
Mỹ
5,2
9,8
13,8
20,3
27,5
32,7
35,3
25,1
22,5
EU
9,8
11,4
9,6
4,8
5,1
3,6
5,3
9,6
13,9
Châu á (trừ Nhật Bản)
31,0
28,7
29,1
27,9
26,7
24,6
13,2
17,2
13,8
Các thị trường khác
3,7
6,4
6,7
15,3
14,5
12,6
19,7
16
21,1
Nguồn: Trung tâm tin học_Bộ Thuỷ sản
Thị trường Nhật Bản:
Thị trường Nhật Bản từng là thị trường truyền thống quan trọng nhất của xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam.
Thay cho vị trí nhập khẩu độc tôn của thuỷ sản Việt Nam vào những năm 80 và đầu những năm 90, đến nay kim ngạch xuất khẩu vào Nhật chỉ con khoảng dưới 30% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản. Từ năm 1997, do những ảnh hưởng của biến động kinh tế khu vực, sự mất giá của đồng Yên và việc chính phủ Nhật tăng thuế hàng bán đã khiến hàng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam xuất vào Nhật giảm mạnh cả về khối lượng và giá. Năm 1997, xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang Nhật chiếm 50,26%, rồi liên tục giảm xuống qua các năm,đến năm 2003 còn 26,5%, năm 2004 tỷ lệ này có tăng lên nhưng không nhiều (31,2%) nhưng đến năm 2005 lại giảm xuống còn 28,7%. Mặc dù từ năm 2001 đến nay, thị trường Mỹ luôn chiếm vị trí quan trọng hàng đầu, nhưng về lâu dài, Nhật Bản vẫn là thị trường chiến lược và là thị trường chính của thuỷ sản Việt Nam và bất cứ biến động nào của thị trường này cũng gây ảnh hưởng lớn đến xuất khẩu thuỷ sản nước ta.
Trong những năm gần đây, mặc dù kinh tế Nhật Bản gặp nhiều khó khăn, đồng Yên liên tục mất giá, nhưng quan hệ thương mại Việt-Nhật vẫn có những bước phát triển khá tốt, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá nói chung và xuất khẩu thuỷ sản nói riêng của Việt Nam sang Nhật vẫn liên tục tăng qua các năm. Cụ thể: Năm 1997, kim ngạch xuất khẩu mới chỉ đạt 382,77 triệu USD, năm 2001 đã tăng lên 465,9 triệu USD; năm 2003 đạt 582,8 triệu USD và; năm 2005 là 785,87 triệu USD và xu hướng sẽ tiếp tục tăng lên trong những năm tới. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam 6 tháng đầu năm 2006 là 1.409 triệu USD, trong đó giá trị xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Nhật là 345,5 triệu USD, chiếm 24,83%.
Thị trường Mỹ
Mỹ đang là một thị trường nhiều triển vọng mà Việt Nam mới bắt đầu khai thác và hoàn toàn có thể làm đối trọng với thị trường Nhật. Từ năm 2001 đến nay, Mỹ là thị trường nhập khẩu thuỷ sản chiếm vị trí số 1 đối với xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam và sẽ là thị trường có rất nhiều triển vọng vì sức mua rất lớn, giá cả tương đối ổn định và đều có xu hướng tăng . Mức tiêu thụ thuỷ sản của người Mỹ ngày càng tăng mạnh do xu hướng ngày càng có nhiều người Mỹ sử dụng sản phẩm thuỷ sản cho bữa ăn chính của gia đình. Theo thống kê của Bộ Thuỷ sản Mỹ, người Mỹ hiện sử dụng khoảng 80% tổng sản lượng thuỷ sản thế giới, trong đó có hơn một nửa có nguồn gốc nhập khẩu. Tại Mỹ có khoảng 1000 cơ sở chế biến cả nước phụ thuộc hoàn toàn vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Vì thế, Mỹ trở thành thị trường xuất khẩu thuỷ sản hấp dẫn đối với tất cả các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào thị trường Mỹ liên tục tăng qua các năm: 6 triệu USD vào năm 1994 lên 489,03 triệu USD năm 2001, năm 2003 đạt 777,65 triệu USD và tăng lên 617,17 triệu USD năm 2005. Mỹ đã trở thành thị trường chiếm vị trí quan trọng hàng đầu về thị phần của xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam từ 5,2% năm 1997 lên 27,6% năm 2001, năm 2003 chiếm tỷ trọng cao nhất từ trước tới nay (35,3%). Nhưng đến năm 2005 tỷ lệ này giảm xuống còn 22,5% sau một loạt các tranh chấp thương mại, các khoản tiền ký quỹ, chống bán phá giá gây tâm lý lo ngại cho các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản. Sang năm 2006, trong 6 tháng đầu năm, giá trị thuỷ sản xuất khẩu sang thị trường này đạt 260,8, chiếm 18,43% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản cả nước.
Mặt hàng thuỷ sản Việt Nam đặc biệt được ưa chuộng ở Mỹ là tôm sú cỡ lớn (16-20 con/pound trở lên). Giá tôm sú xuất vào thị trường Mỹ cao hơn vào thị trường Nhật Bản. Cơ cấu nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ từ Việt Nam trong vài năm gần đây như sau: Tôm đông lạnh 33%; cá fillet đông lạnh 15,5%; cá ngừ hộp 7,8%; tôm hòm 6,1%. Tỷ trọng tôm sú Việt Nam đi vào thị trường này chiếm khoảng 20-25 % tổng kim ngạch thuỷ sản xuất khẩu, đang có xu hướng tăng nhanh, có thể đưa lên 50% do có những trì trệ tại Nhật Bản và EU. Mặt hàng xuất khẩu vào thị trường Mỹ còn mở rộng cho các mặt hàng tươi sống như cá ngừ đại dương, cá thu, cua. Dù có sự gia tăng đáng kể, giá trị hàng thuỷ sản Việt Nam mới chỉ chiếm chưa tới 1% tổng kim ngạch nhập khẩu thuỷ sản của Mỹ (nhu cầu nhập khẩu thuỷ sản hàng năm của Mỹ khoảng 10 tỷ USD).
Nhưng Việt Nam cung gặp không ít khó khăn khi xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường khổng lồ này. Sức cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam với một số nước còn thấp, do đây là thị trường mới thâm nhập. Thị trường Mỹ có hệ thống phân phối khá bài bản, nhưng các doanh nghiệp Việt Nam chỉ mới tiếp cận được các nhà nhập khẩu, chưa với tới các nhà bán lẻ và siêu thị. Bên cạnh đó, hệ thống luật thương mại của Mỹ rất phức tạp, hơn nữa Mỹ cũng là nước có năng lực mạnh về sản xuất thuỷ sản, nhất là các loại cá. Do vậy, các nhà xuất khẩu Việt Nam còn phải cạnh tranh với chính các chủ trại nuôi cá, tôm ở Mỹ. Trong thời gian qua đã xảy ra rất nhiều khó khăn đối với xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Mỹ. Đó là việc các nhà sản xuất cá nheo của Mỹ đã thực hiện các biện pháp hạn chế việc hạn chế xuất khẩu các sản phẩm cá tra, cá basa của ta, họ tuyên truyền cá của Việt Nam không đáp ứng yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm, nuôi trong điều kiện ô nhiễm. Đồng thời một số nghị sỹ Mỹ yêu cầu áp dụng luật chống bán phá giá do giá cá của ta rẻ hơn cá catfish của Mỹ khoảng 1USD/kg. Đáng chú ý là ngày 1/7/2000 họ còn đưa ra quốc hội Hoa Kỳ dự thảo luật HR2439 gọi là “country of origin labelling bill” (nhãn mác của nước xuất xứ). Vào ngày cuối cùng của năm 2003 đã đánh dấu một trong những sự kiện lớn nhất trong năm của ngành thuỷ sản, khi Việt Nam là một trong sáu nước nằm trong danh sách bị liên minh tôm miền Nam Hoa Kỳ (SSA) kiện bán phá giá tôm tại thị trường nước này. Với những hành động mang nặng tính bảo hộ mậu dịch của Mỹ sẽ gây khó khăn không nhỏ đối với các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam. Vì vậy cần phải thường xuyên theo dõi nắm bắt thông tin kịp thời để chống lại ý định và những việc làm vô lý của họ.
Thị trường EU
Đây là thị trường khó tính với những yêu cầu nghiêm ngặt về tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm nhưng vẫn có nhiều triển vọng vì chấp nhận mặt hàng đa dạng để thoả mãn cả nhu cầu cao cấp của người châu Âu bản địa và nhu cầu của cộng đồng người nhập cư, trong đó có Việt kiều. Sức bán lẻ và phân phối thực phẩm của EU đã tăng đáng kể đối với các sản phẩm cắt khúc, cắt miếng đóng gói cao cấp và các sản phẩm giá trị gia tăng. Từ thực phẩm đông lạnh đã xuất hiện xu hướng chuyển sang các bữa ăn được chế biến sẵn ở dạng làm mát. Về giá cả, thị trường châu Âu chấp nhận giá cao hơn thị trường châu á, từ 1,1 đến 1,4 lần và khá ổn định, do đó phù hợp với mong muốn của các nhà chế biến thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam.
Vào năm 1997, Việt Nam được chính thức xuất khẩu hàng thuỷ sản sang EU. Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là tôm đông, cá đông, cá hộp, mực, thịt tôm hỗn hợp và các sản phẩm thuỷ sản khác. Tuy vậy, vẫn còn phần lớn hàng thuỷ sản Việt Nam được xuất sang EU thông qua các công ty Singapore, Thái Lan, Hồng Kông. Hiện tại, hàng thuỷ sản Việt Nam vẫn có nguy cơ đáp ứng chưa đầy đủ các yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng, an toàn và vệ sinh thực phẩm của EU do chất lượng nguyên liệu chưa tốt, điều kiện an toàn vệ sinh và trang thiết bị hạn chế, chưa phù hợp.
Đến cuối tháng 11/1999, EU đã quyết định đưa Việt Nam vào danh sách I các nước được xuất khẩu thuỷ sản sang EU. Thị trường EU tuy không tăng nhiều về tỷ trọng (dao động ở mức từ 3,6% đến 13,9%) nhưng đây vẫn là thị trường có nhu cầu ổn định và là thị trường đối trọng mỗi khi có biến động tại Mỹ và Nhật.
Một điều đáng mừng là trong sáu tháng đầu năm 2006, giá thị thuỷ sản xuất khẩu sang thị trường EU đạt 294,3 triệu USD, chiếm thị phần 20,86% tổng giá trị xuất khẩu, tăng 89,4% so với cùng kỳ năm 2005.
Rõ ràng xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường châu Âu đã có sự tăng trưởng liên tục và có những biến đổi về chất kể từ năm 2004 đến nay. Đây là một tín hiệu đáng mừng, đánh dấu kết quả của sự phấn đấu không ngừng của ngành thuỷ sản trong hoạt động xúc tiến thương mại, đa dạng hóa thị trường và sản phẩm, đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm, vượt qua những rào cản kỹ thuật về vệ sinh an toàn thực phẩm. Mới đây, Uỷ ban Liên minh châu Âu đã công nhận thêm 38 doanh nghiệp đủ điều kiện xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường EU, nâng tổng số doanh nghiệp được công nhận lên 209. Tuy nhiên để được công nhận là khó, song để đứng vững và đảm bảo tăng trưởng bền vững trên thị trường này còn là điều khó hơn, đòi hỏi các doanh nghiệp chế biến và các khâu hoạt động có liên quan phải không ngừng quan tâm, cảnh giác.
Thị trường châu á (trừ Nhật Bản)
Trung Quốc và Hồng Kông là hai thị trường có nhiều tiềm năng do vị trí địa lý gần Việt Nam, nhu cầu tiêu dùng thuỷ sản lớn và đang tăng nhanh với chủng loại sản phẩm đa dạng, từ các sản phẩm có giá trị rất cao như các loài cá sống cho đến các loại sản phẩm có giá trị thấp như cá khô. Tuy nhiên, hàng thuỷ sản Việt Nam xuất chính ngạch vào Trung Quốc còn quá ít ỏi, do quan hệ thương mại và thanh toán giữa 2 nước còn nhiều khó khăn. Hàng thuỷ sản chủ yếu xuất bằng đường tiểu ngạch và cũng chỉ bán sang một số tỉnh vùng biên giới phía Đông Nam, các tỉnh phía Bắc và Đông Bắc Trung Quốc tiếp cận được còn rất ít. Cần đặc biệt chú ý thị trường tốt cho các loài cá nổi cỡ nhỏ miền Bắc và miền Trung. Kim ngạch thuỷ sản xuất khẩu vào hai thị trường này ngày càng tăng, từ 117,1 triệu USD năm 1999 lên 316,7 triệu USD vào năm 2001 và giữ mức tăng trưởng đều đến năm 2003 đạt 497,803 triệu USD. Nhưng đến năm 2006, kim ngạch xuất khẩu sang hai thị trường này là 62,253 triệu USD, chỉ còn bằng 96% so với cùng kỳ năm trước. Điều đó gây thất vọng một chút vì Trung Quốc là thị trường có rất nhiều dự báo về sự chuyển mình vươn lên vị trí số 1 thế giới trong tương lai gần.
Đối với các thị trường như Inđônêsia, Philippines (và thêm cả Bắc Phi), khối lượng cũng như kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của ta tương đối thấp, các mặt hàng không đa dạng. Nguyên nhân là do khả năng cung cấp và nhu cầu tiêu thụ của Việt Nam và các nước này tương đối giống nhau.
Các nước châu á là thị trường rất quan trọng, chiếm từ 13%-31% tổng kim ngạch xuất khẩu của ta. Có một nghịch lý là mặc dù không xa về mặt địa lý nhưng khả năng bán sản phẩm thuỷ sản Việt Nam ở đây còn yếu. Nếu chịu khó đi sâu tìm tòi được khách hàng là các nhà phân phối cho thị trường bản địa thì việc nâng cao tỷ trọng các sản phẩm giá trị gia tăng, các sản phẩm chế biến đóng gói nhỏ bán ở các siêu thị không phải là quá khó khăn.
Trong sáu tháng đầu năm 2006, tại khu vực châu á (trừ Nhật Bản), chỉ có xuất khẩu thuỷ sản tới Đài Loan và Campuchia là thấp hơn so với cùng kỳ năm 2005 còn kim ngạch xuất khẩu tới các thị trường khác đều tăng lên, trong đó xuất khẩu tới Singapore tăng trưởng cao, tới cuối tháng 6/2006 đạt 22,6 triệu USD, trái ngược với xu hướng giảm sút kéo dài suốt năm 2005.
Các thị trường khác
Với chủ trương mở rộng, đa dạng hoá thị trường, ngoài các thị trường chính ở trên, Việt Nam mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản sang các nước khác như Ôxtrâylia, Niu Dilân, Mêhicô, Canađa, Đông Âu, châu Phi…Kim ngạch xuất khẩu thủy sản vào các thị trường này được duy trì qua các năm. Năm 1999, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 62,8 triệu USD (chiếm tỷ trọng 6,7%), năm 2003 đạt 431,41 triệu USD( chiếm 19,7%) và đến năm 2005 con số này đã lên đến 576,74 triệu USD (chiếm tỷ trọng 21,1%). Các thị trường này chủ yếu nhập khẩu sản phẩm tươi sống, sơ chế hoặc nguyên liệu đồng thời là khu vực cạnh tranh với nước ta về xuất khẩu. Mặt khác do nền kinh tế của các nước này không ổn định nên xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào các thị trường này s cũng không được ổn định.
4. Mặt hàng thuỷ sản xuất khẩu chính của Việt Nam.
Sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam chủ yếu được đề cập tới 4 nhóm sản phẩm sau: Tôm đông lạnh, cá đông lạnh, mực và bạch tuộc đông lạnh, hàng khô.
Giá trị các loại thuỷ sản xuất khẩu giai đoạn 1997-5005 được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 13: Kim ngạch xuất khẩu thủy sản theo mặt hàng giai đoạn 1997-2005
Đơn vị: triệu USD
Năm
Tôm đông lạnh
Cá đông lạnh
Mực và bạch tuộc đông lạnh
Hàng khô
Thuỷ sản khác
Tổng
1997
389,65
94,13
117,08
69,58
91,01
761,45
1998
449,00
78,62
93,34
61,52
135,51
817,99
1999
482,30
96,05
107,58
70,26
182,68
938,87
2000
654,21
165,80
108,88
233,64
316,08
1478,61
2001
777,82
221,95
115,88
196,82
465,01
1777,48
2002
949,42
361,64
140,22
154,98
416,56
2022,82
2003
1057,86
405,74
112,17
77,59
546,21
2199,57
2004
1268,04
464,73
167,62
122,84
377,55
2400,78
2005
1307,15
531,85
174,39
105,22
620,11
2738,72
Nguồn: Trung tâm tin học_Bộ Thuỷ sản
Xét về chủng loại mặt hàng, cơ cấu sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu là mất cân đối. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là tôm, ta có thể thấy rõ qua bảng sau:
Bảng 14: Cơ cấu thuỷ sản xuất khẩu giai đoạn 1997-2005
Đơn vị tính %
Năm
Tôm đông lạnh
Cá đông lạnh
Mực và bạch tuộc đông lạnh
Hàng khô
Thuỷ sản khác
Tổng
1997
51,17
12,36
15,37
9,14
11,96
100
1998
54,89
9,61
11,41
7,52
16,57
100
1999
51,37
10,23
11,56
7,48
19,36
100
2000
44,24
11,21
7,36
15,80
21,39
100
2001
43,75
12,48
6,52
11,07
26,18
100
2002
46,93
17,87
6,93
7,66
20,61
100
2003
48,09
18,44
5,10
3,53
24,64
100
2004
52,82
19,36
6,98
5,11
15,73
100
2005
47,72
19,42
6,37
3,84
22,65
100
Nguồn: Trung tâm tin học-Bộ Thuỷ sản
Tôm đông lạnh
Các mặt hàng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam tuy đã cố gắng rất nhiều để đa dạng hoá sản phẩm nhưng hiện nay tôm vẫn là mặt hàng xuất khẩu chủ lực, chiếm khoảng trên dưới 47,72% giá trị thuỷ sản xuất khẩu do tôm là mặt hàng có giá trị cao và nhu cầu tôm trên thế giới cũng tăng mạnh.
Tôm Việt Nam ngày càng có chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới. Từ năm 1997 đến nay, Việt Nam đã vượt qua Thái Lan để giữ vị trí cung cấp tôm lớn thứ 3 vào thị trường Nhật Bản, chiếm tỷ trọng từ 10-11% trên thị trường này. Trên thị trường Mỹ, trong vài năm gần đây, tôm Việt Nam đã tăng trưởng rất nhanh và đã được liệt kê vào 10 nhà cung cấp hàng đầu ở Mỹ.
Bảng 15: 10 thị trường xuất khẩu tôm chính của Việt Nam năm 2000, năm 2004 và năm 2005
2000
2004
2005
Thị trường
Tấn
1000 USD
Thị trường
Tấn
1000 USD
Thị trường
Tấn
1000 USD
Nhật Bản
30.756
291.035
Nhật Bản
62.451
521.428
Nhật Bản
61.963
517.831
Mỹ
14.464
215.377
Mỹ
37.061
397.761
Mỹ
40.311
423.246
Niu Dilân
4.025
23.830
Singapo
4.651
51.472
Ôxtrâylia
6.954
53.426
Hồng Kông
3.201
23.191
Ôxtrâylia
5.783
46.679
Đài Loan
6.958
51.000
Canađa
1.378
16.564
Đài Loan
6.358
42.149
Canađa
4.812
46.718
Bỉ
2.808
14.635
Canađa
4.029
40.285
Bỉ
3.277
24.531
Đài Loan
1.363
11.640
Malaixia
2.494
26.923
Đức
3.065
23.129
Ôxtrâylia
956
9.493
Bỉ
2.193
17.357
Anh
2.852
22.624
Anh
1.725
9.332
Anh
1.995
16.715
Hàn Quốc
3.082
19.841
Đức
1.159
8.622
Hàn Quốc
2.540
15.612
Hồng Kông
2.407
18.322
Tổng SL & GTXK
66.704
654.215
Tổn SL >XK
141.122
1.268.308
Tổng SL & GTXK
149.872
1.307.115
Nguồn: Bộ Thuỷ sản
Tôm dành cho xuất khẩu chủ yếu là tôm nuôi vì có cỡ lớn và đồng đều. Các mặt hàng tôm có giá trị đang dần nhiều lên. Năm 2004, tôm đông lạnh đã xuất khẩu tới gần 70 thị trường, trong đó Nhật trở lại vị trí số 1 , Mỹ đứng thứ 2 và Singapore đứng thứ 3.
Các sản phẩm tôm tăng về sản lượng nhưng tỷ trọng đã giảm xuống. Nếu như năm 1997 tôm chiếm 31,82% so với tổng sản lượng thuỷ sản xuất khẩu thì đến năm 2003 tỷ trọng này còn 25,88% và năm 2005 giảm xuống chỉ còn 23,55%. Năm 1997, xuất khẩu tôm chỉ đạt 389,65 triệu USD, chiếm 51,17% tỷ trọng thì đến năm 2003 con số này đã lên tới 1057,86 triệu USD, chiếm 48,09% và đến năm 2005 giá trị đạt 1307,15 triệu USD, chiếm 47,72%. Như vậy giá trị gia tăng của mặt hàng này ngày càng tăng và đang có chỗ đứng vững chắc trên thị trường thế giới.
Cá đông lạnh
Cá đông lạnh là mặt hàng xuất khẩu quan trọng thứ hai của Việt Nam, sau tôm đông lạnh. Tỷ trọng và kim ngạch xuất khẩu của loại mặt hàng này ngày càng tăng lên. Năm 1997, kim ngạch xuất khẩu của cá đông lạnh đạt 94,13 triệu USD chiếm 12,36% trong tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản Việt nam, năm 2003 đạt 405,74 triệu USD chiếm 18,44% tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản. Đến năm 2
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0531.doc