LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG. 3
I.Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ). 3
1. Khái niệm đầu tư nước ngoài. 3
2. Phân loại hoạt động FDI. 3
2.1.Phân loại theo tỷ lệ sở hữu vốn. 3
2.2. Phân loại theo mục tiêu. 5
2.3. Phân loại theo phương thức thực hiện. 5
3. Vai trò của đầu tư nước ngoài. 5
3.1.Vai trò đối với nước đi đầu tư. 5
3.2. Vai trò đối với nước chủ nhà. 6
II. Những vấn đề lý luận chung về ĐTNN vào lĩnh vực nông nghiệp. 9
1. Khái niệm nông nghiệp 9
2. Phân loại. 9
3. Sự cần thiết đầu tư vào nông nghiệp. 10
CHƯƠNG II- THỰC TRẠNG ĐTNN TRONG LĨNH VỰC NÔNG LÂM NGHIỆP – NÔNG THÔN (NLN - NT) GIAI ĐOẠN 2000 - 2006 11
I. Khái quát tình hình FDI vào Việt Nam. 11
II. Thực trạng thu hút FDI trong lĩnh vực nông lâm nghiệp – nông thôn (NLN – NT) giai đoạn 2000- 2006. 14
1. Qui mô và tốc độ tăng VĐT FDI vào lĩnh vực NLN – NT. 14
2. Cơ cấu vốn FDI vào nông nghiệp. 14
III. Đánh giá tình hình thu hút FDI vào lính vực NLN – NT. 17
1. Những kết quả đạt được ( những thành tựu ). 17
1.1. Đầu tư bổ sung nguồn vốn cho đầu tư lĩnh vực này, góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. 17
1.2. Chuyển dịch cơ cấu nông lâm nghiệp – nông thôn. 19
1.3. Tiếp thu một số công nghệ mới. 19
1.4. Nâng cao giá trị hàng nông sản xuất khẩu. 22
1.5. Đa dạng hóa sản phẩm. 22
1.6. Tạo việc làm cho người lao động, nâng cao thu nhập dân cư, cải thiện đời sống kinh tế xã hội nhiều vùng nông nghiệp và nông thôn. 23
1.7. Những thay đổi chủ yếu trong chính sách thu hút FDI trong các thời kỳ sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam 23
2. Những hạn chế. 26
2.1.Tỷ trọng ĐTNN vào lĩnh vực này thấp, chiếm khoảng 7% và liên tục giảm qua các thời kỳ từ năm 1988 đến nay. 26
2.2. Chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp rất chậm. 26
2.3 ĐTNN chưa phát huy được đầy đủ tiềm năng. 27
2.4. Phân bố nguồn vốn không đều giữa các địa phương. 27
2.5. Đối tác nước ngoài còn thiếu tính đa dạng. 27
IV. Những nguyên nhân chính tạo nên hạn chế. 27
1.Hoạt động Nông nghiệp nói chung và thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này gặp nhiều rủi ro hơn lĩnh vực Nông nghiệp. 27
2. Thiếu bảo đảm về cơ sở hạ tầng 28
3.Thiếu đảm bảo về đất đai. 30
4. Thiếu bảo đảm về nguồn nhân lực. 31
6. Nông nghiệp Việt Nam mang nặng tính sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp, phân tán thiếu chuyên môn. 34
7. Hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách thu hút FDI còn nhiều bất cập, chưa thật sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài. 34
8. Công tác vận động, xúc tiến đầu tư nước ngoài kém hiệu quả. 38
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG ĐTNN TRONG LĨNH VỰC NÔNG NGHIỆP. 40
I. Mục tiêu. 40
II. Kế hoạch phát triển NN và NT thời kỳ 2006- 2010 và kế hoạch thu hút sử dụng FDI đến năm 2010 và những năm tiếp theo 40
1. Kế hoạch phát triển nông nghiệp và nông thôn thời kỳ 2006 - 2010. 40
1.1. Về sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. 40
1.2. Về phát triển công nghiệp nông thôn: 41
1.3. Về phát triển nông thôn: 42
1.4. Về khoa học công nghệ và đào tạo. .42
1.5. Tăng cường công tác thị trường tiêu thụ nông sản trên cơ sở hội nhập kinh tế quốc tế: 42
1.6. Định hướng đầu tư xây dựng cơ bản với quản lý đầu tư: 42
2. Kế hoạch thu hút sử dụng FDI đến năm 2010. 44
3. Khuyến nghị về chính sách. 44
KẾT LUẬN 48
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH. 49
t
53 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1715 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ực nông nghiệp, do có phạm vi rộng ( bao gồm cả lĩnh vực lâm nghiệp và ngư nghiệp, thủy lợi và công nghiệp chế biến nông, lâm, hải sản ), công nghệ được áp dụng trong nông nghiệp bao gồm nhiều loại như công nghệ sinh học được áp dụng tạo ra các giống cây, con có năng suất cao, công nghệ sản xuất và sau thu hoạch, công nghệ chế biến nông lâm hải sản, công nghệ phát triển và quản lý tài nguyên nước; công nghệ tưới cho cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả trên các vùng đất khác nhau; công nghệ quản lý công trình thủy lợi; xây dựng các giải pháp để chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, nâng cao hiệu quả của các hình thức tổ chức sản xuất, phát triển dịch vụ phục vụ sản xuất... cho nên quá trình CGCN trong nông nghiệp có những đặc điểm khá phức tạp và có tính chất đặc thù riêng.
Thực trạng chuyển giao công nghệ trong khu vực FDI như sau:
Trong hơn 10 năm thu hút vốn FDI, lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn đã thu hút được một lượng vốn đầu tư nhất định. Tuy nhiên, lượng vốn đầu tư trực tiếp cũng như các công nghệ chuyển giao chưa đáp ứng đủ nhu cầu thay đổi cơ bản về trình độ và năng lực công nghệ trong toàn ngành do công nghệ áp dụng trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn còn khá lạc hậu. Theo số liệu gần đây, Việt Nam là một nước nông nghiệp có nguồn nông sản nguyên liệu dồi dào nhưng thiết bị, công nghệ chế biến nông sản không đủ năng lực sản xuất hàng xuất khẩu. Có thể điểm qua các số liệu sau:
- 128 nhà máy xay xát gạo, tổng công suất 2,4 triệu tấn nhưng thiết bị từ những năm 60 (ở miền Bắc) và những năm 80 (ở miền Nam);
- 126 nhà máy chế biến thủy sản đông lạnh, 11 cơ sở chế biến bột cá, 84 doanh nghiệp chế biến nước mắm không đủ đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và tiêu dùng nội địa;
- Ngành khai thác hải sản mới chủ yếu hoạt động gần bờ, chưa có nhiều phương tiện tàu và máy móc phục vụ đánh bắt xa bờ.
- 18 nhà máy chế biến rau quả chỉ đảm bảo chế biến được 5% sản lượng rau quả, chưa đáp ứng được chỉ tiêu chất lượng xuất khẩu;
- 30 nhà máy chế biến thịt của cả nước chỉ đạt tỷ lệ chế biến 1,5%;
- Các khu vực chế biến dầu thực vật, chè, cà phê, cao su cũng chưa được đầu tư thích đáng, thiết bị cũ, hiệu quả thấp;
- Công nghệ chế biến sữa đang ở tình trạng thiếu nguyên liệu tại chỗ.
Trong lĩnh vực này, nhiều dây chuyền công nghệ mới đã được chuyển giao vào Việt Nam như dây chuyền sản xuất các loại rau quả hộp, nước trái cây, một số liên doanh đã được thành lập ở Việt Nam để xuất khẩu một phần hoặc toàn bộ sản phẩm như liên doanh sản xuất thịt lợn ở Bình Dương, bột mì cao cấp ở Bà Rịa - Vũng Tàu, liên doanh chế biến chè, hồ tiêu... Một số giống cây mới đã được đưa vào Việt Nam cho năng suất cao như giống dứa Cayen, giống mía ấn Độ Đài Loan, châu Mỹ La tinh. Nhiều loại thiết bị chế biến đã được đưa vào Việt Nam thuộc loại tiên tiến và hiện đại bậc nhất thế giới như dây chuyền xay xát gạo Satake của Nhật Bản, dây chuyền sản xuất bột mỳ của Xinhgapo, Inđônêxia, các dây chuyền chế biến rau quả của ý, Hà Lan, các dây chuyền chế biến thịt của úc, các dây chuyền chế biến thức ăn gia súc của Mỹ, Pháp, Hà Lan, các dây chuyền chế biến chè của Nhật, Bỉ, Đài Loan, các nhà máy đường của Anh, Pháp, ấn Độ, úc, Nhật, Đài Loan, liên doanh chế biến sữa và các sản phẩm sữa, liên doanh sản xuất bia, nước giải khát, liên doanh chế biến hải sản.... Các công nghệ mới này góp phần tạo ra một khối lượng hàng nông sản xuất khẩu lớn, chất lượng cao và giá thành hạ, có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Điều này đã được khẳng định rõ trong văn kiện đại hội IX Đảng cộng sản Việt Nam: “Trong nông nghiệp, đã ứng dụng một số thành tựu của công nghệ sinh học; đưa một số giống mới vào sản xuất đại trà trên cơ sở áp dụng các kết quả nghiên cứu, tuyển chọn, lai tạo giống cây trồng, vật nuôi bằng công nghệ mới và công nghệ cao”.
Về cơ chế khuyến khích hoạt động CGCN vào lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn, thời gian qua Chính phủ Việt Nam đã có những chính sách khá mạnh trong việc thu hút vốn FDI và công nghệ hiện đại vào lĩnh vực này. Chẳng hạn, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam qui định các dự án thuộc lĩnh vực nuôi trồng nông, lâm, thủy sản, ứng dụng công nghệ sinh học, chế biến nông sản, lâm sản (trừ gỗ), thủy sản từ nguồn nguyên liệu trong nước xuất khẩu 50% sản phẩm trở lên, sản xuất các loại giống mới có chất lượng và hiệu quả kinh tế cao thuộc danh mục dự án đặc biệt khuyến khích đầu tư và mức thuế thu nhập doanh nghiệp là 10% lợi nhuận thu được. Ngoài ra, việc ưu đãi thuế cho các mặt hàng xuất khẩu, chính sách trang trại đã phát huy tác dụng, chính sách thuế nông nghiệp đã làm yên tâm người nông dân, chính sách khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư đã giúp cho hàng triệu nông dân tiếp cận với công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ sinh học.... Những chính sách này đang tạo ra một môi trường sản xuất và kinh doanh hàng nông sản sôi động, có chiều sâu và hiệu quả ngày càng tăng, làm tăng thêm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư trong lĩnh vực này đối với hoạt động CGCN. Ngoài ra, thị trường xuất khẩu cũng đang ngày càng mở rộng cho hàng nông sản Việt Nam.
1.4. Nâng cao giá trị hàng nông sản xuất khẩu.
Đây là một thành tựu rất đáng khích lệ, nhất là trong tình hình Việt Nam đã tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO. Việc mở cửa các thị trường là điều không tránh khỏi, vì thế nâng cao giá trị, chất lượng hàng nông sản xuất khẩu cũng là một biện pháp thị trường nông sản Việt Nam cạnh tranh với hàng nông sản của các nước có thế mạnh về hàng nông sản. Đối với nông nghiệp cam kết thuế nhập khẩu bình quân của các nông sản là 21% so với mức hiện hành 31,6%, giảm đi 16%. Cam kết áp dụng an toàn vệ sinh thực phẩm các sản phẩm nông nghiệp ( theo Bộ Thương mại).
Tổng doanh thu của các dự án đã đi vào sản xuất năm 2003 đạt 657,7 tỷ đồng; kim ngạch xuất khẩu đạt trên 13 triệu USD. Bình quân một lao động trong năm đạt 152,5 triệu đồng doanh thu, 3.000 USD giá trị xuất khẩu, 14,4 triệu đồng lợi nhuận và nộp ngân sách gần 2 triệu đồng.
Có thể nói mặc dù cơ cấu xuất khẩu đã có sự thay đổi theo hướng tích cực trong thời gian qua, nhưng tốc độ chuyển dịch theo hướng đáp ứng yêu cầu biến đổi của thị trường và xu thế thế giới diễn ra còn chậm, tỷ trọng hàng thô, sơ chế vẫn còn cao. Tỷ trọng nhóm hàng chế biến công nghệ cao còn quá nhỏ bé. Những mặt hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh và chiếm tỷ trọng lớn đều là những mặt hàng hoặc là hạn chế về các yếu tố cơ cấu như năng suất, diện tích, khả năng khai thác (nhóm nông, thuỷ sản và khoáng sản) hoặc là phụ thuộc quá nhiều vào công nghệ và nguyên liệu nhập từ bên ngoài, do đó giá trị gia tăng thấp (giày da và dệt may).
1.5. Đa dạng hóa sản phẩm.
Sau khi nhà nước bãi bỏ chính sách chỉ huy và sản xuất tập thể, ngày nay nông nghiệp Việt-Nam đã thực hiện được kế hoạch đa canh. Thay vì chỉ tập trung một một số hoa màu cổ truyền với nhiều rủi ro liên quan đến giá cả và thời tiết, nông dân được tự do trồng đủ loại hoa màu, cây ăn trái và kỹ nghệ với lợi tức cao hơn. Mức tăng trưởng hàng năm của khu vực nông nghiệp giữ ở mức 3.3% và 3.5% trong hai năm 2003 và 2004, năm 2005 là 2.2% và 2006 là 3.2%.
1.6. Tạo việc làm cho người lao động, nâng cao thu nhập dân cư, cải thiện đời sống kinh tế xã hội nhiều vùng nông nghiệp và nông thôn.
Bên cạnh hiệu quả kinh tế các dự án FDI trong nông, lâm nghiệp đã góp phần giải quyết một số vấn đề xã hội ở những vùng có dự án. 4.799 lao động nông thôn có việc làm mới, thu nhập cao hơn hẳn lao động của địa phương. Trình độ nghề nghiệp của lao động nông, lâm nghiệp được nâng cao qua thực tế sản xuất có tính hàng hóa cao của các dự án. Hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn vùng có dự án được xây dựng mới và nâng cấp so với trước, nhất là điện, thủy lợi, giao thông, cơ sở chế biến nông, lâm sản, trạm y-tế. Đối với các vùng miền núi,vùng đồng bào các dân tộc ít người như Sơn La, Cao Bằng, Quảng Ninh, Lâm Đồng, các dự án FDI trong nông, lâm nghiệp còn góp phần quan trọng xóa bỏ các hủ tục lạc hậu, xây dựng bản làng theo hướng văn minh phù hợp với nền sản xuất nông, lâm nghiệp hàng hóa. Ở Việt Nam, số lượng người làm việc trong khu vực FDI ngày càng tăng qua các năm.Thu nhập bình quân của lao động Việt Nam trong khu vực FDI nhìn chung cao hơn ở khu vực trong nước. Tuy nhiên, thu nhập của lao động trong khu vực FDI cũng tuỳ thuộc vào ngành nghề, trình độ học vấn và trình độ chuyên môn kỹ thuật, do vậy thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp này có có sự chênh lệch tương đối lớn. Người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao có thu nhập cao gấp 3,5 lần so với lao động phổ thông và cao gấp 2,88 lần so với lao động có trình độ sơ cấp. Các vị trí quản lý cao cấp hiện có mức thu nhập bình quân 10,231 triệu đồng/người/tháng, gấp 9,86 lần so với mức thu nhập trung bình của lao động phổ thông và gấp 2,29 lần so với lao động quản lý bậc trung.
Mặc dù thu nhập của lao động trong khu vực FDI có sự chênh lệch nhưng đã góp phần đáng kể vào việc nâng cao đời sống của người lao động và làm tăng sức mua trên thị trường.
1.7. Những thay đổi chủ yếu trong chính sách thu hút FDI trong các thời kỳ sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt nam
Để thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, trong thời gian qua, hàng loạt các quy định chính sách đã ban hành nhằm đơn gian hoá thủ tục, ưu đãi đất đai, thuế, lới lỏng chính sách thương mại. Điều này cũng một phần thúc đẩy ĐTNN vào Việt Nam trong thời gian qua.
Bảng 3 : Những thay đổi chủ yếu trong chính sách thu hút FDI
qua các thời kỳ.
Lĩnh vực
c/s
Luật sửa đổi năm 1992
đến 1995
Luật sửa đổi năm
1996 đến hết 1999
Luật sửa đổi năm
2000 đến nay
Trình tự đăng ký
+ Dự án FDI được nhận giấy phép đầu tư trong vòng 45 ngày;
+ Sau khi có giấy phép, DNFDI vẫn phải xin đăng ký hoạt động.
+ DNFDI được tự lựa chọn loại hình đầu tư, tỷ
lệ góp vốn, địa điểm
đầu tư, đối tác đầu tư.
+ DN xuất khẩu sản phẩm trên 80% được ưu tiên nhận giấy phép sớm;
+Ban hành danh mục DNFDI được đăng ký kinh doanh,
không cần xin giấy phép;
+ Bỏ chế độ thu phí
đăng ký đầu tư FDI
Phân cấp đăng ký/cấp phép Lĩnh vực
+ Khuyến khích các dự án liên doanh với doanh nghiệp trong nước; hạn chế dự án 100% vốn nước ngoài;
+ Khuyến khích DNFDI đầu tư vào những lĩnh vực định hướng xuất khẩu, công nghệ cao.
+ Ban hành danh mục dự án kêu gọi đầu tư FDI cho giai đoạn 2001-2005
+ Mở rộng lĩnh vực cho phép FDI đầu tư xây dựng nhà ở;
+ Đa dạng hoá hình thức đầu tư; Được
mua cổ phần của các doanh nghiệp trong nước
Đất đai
+ Phía Việt nam chịu trách nhiệm đền bù giải phóng mặt bằng cho các dự án có vốn đầu tư nước ngoài;
+ Dự án có vốn FDI được thuê đất để hoạt động, nhưng không được cho các doanh nghi nghiệp nghiệp nghiệp khác thuê lại.
+ UBND địa phương tạo điều kiện mặt bằng kinh doanh khi dự án được duyệt; DN thanh toán tiền giải phóng mặt bằng cho
UBND
+ Được quyền cho thuê
lại đất đã thuê tại các khu CN, khu chế xuất;
+ Được thế chấp tài sản gắn liền với đất và giá trị quyền sử dụng đất;
Quy định về vốn
+ Qui định vốn pháp định không được thấp hơn 30% tổng vốn đầu tư.
C/s
tỷ
giá, quy địnhvề ngoại tệ
+ Các dự án FDI đầu tư hạ tầng và thay thế nhập khẩu được nhà nước bảo đảm cân đối ngoại tệ;
+ Các DNFDI thuộc các lĩnh vực khác phải tự lo cân đối ngoại tệ; nhà nước không chịu trách nhiệm về cân đối ngoại tệ đối với các dự án này.
+ Tự bảo đảm cân đối nhu cầu về ngoại tệ cho
hoạt động của mình; + Áp dụng tỷ lệ kết hối ngoại tệ do tác động khủng hoảng tài chính khu vực (80%), sau đó nới dần tỷ lệ này.
+DN có thể mua ngoại tệ
với sự cho phép của
Ngân hàng nhà nước
+ Được mua ngoại tệ
tại
NHTM để đáp ứng nhu cầu giao dịch theo luật định; + Bãi bỏ yêu cầu chuẩn y khi chuyển nhượng vốn; giảm mức phí chuyển lợi nhuận ra
nước ngoài.
+ Giảm tỷ lệ kết hối ngoại tệ từ 80% xuống 50% đến 30% và 0%
C/s xuất nhập khẩu
+ DN phải bảo đảm tỷ lệ
XK theo đã ghi trong giấy phép đầu tư;
+ Sản phẩm của DNFDI không được bán ở thị trường VN qua đại lý
+ DNFDI không được làm
đại
+ Bãi bỏ hoàn toàn việc duyệt kế hoạch xuất khẩu của doanh nghiệp FDI;
+ Cải tiến thủ tục xuất nhập khẩu hàng hoá đối với xét xuất xứ hàng hoá XNK
+ Thu hẹp lĩnh vực yêu cầu tỷ
lệ xuất khẩu 80% sản lượng;
+ DN FDI được tham gia dịch vụ đại lý XNK
C/s thuế
lý XNK+ Áp dụng thuế ưu đãi cho các dự án FDI đầu tư vào các lĩnh vực đặc biệt ưu tiên với mức thuế thu nhập 10% trong vòng 15 năm kể từ khi hoạt động;
+ Mức thuế thu nhập của
DN 100% vốn nước ngoài không bao gồm phần bù trừ lợi nhuận của năm sau để bù cho lỗ của các năm trước;
+ DNFDI không được tính vào chi phí sản xuất một số khoản chi nhất định;
+ Thuế nhập khẩu được áp với mức giá thấp trong khung giá do Bộ Tài chính qui định;
+ Miễn thuế nhập khẩu đối với thiết bị, máy móc, vận tải chuyên dùng, nguyên liệu vật tư .. phục vụ sản xuất kinh doanh của DNFDI;
+Miễn thuế nhập khẩu đối với DN đầu tư vào những lĩnh vực ưu tiên,
địa bàn ưu tiên trong 5 năm đầu hoạt động;
+ DN xuất khẩu được miễn thuế nhập khẩu nguyên vật liệu để XK sản phẩm;
+ DN cung ứng sản phẩm đầu vào cho DN Xkhẩu cũng được miễn thuế nhập khẩu nguyên vật liệu trung gian với tỷ lệ tương ứng;
+ Bãi bỏ qui định bắt buộc DNFDI trích quĩ dự phòng;
+ Tiếp tục cải cách hệ thống huế, từng bước thu hẹp khoảng cách về thuế giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước
ngoài
Nguồn: Trích trong Nguyễn Thị Tuệ Anh et al, 2005.
Những hạn chế.
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu về phát triển nông lâm nghiệp - nông thôn, trong những năm qua tồn tại rất nhiều hạn chế.
2.1.Tỷ trọng ĐTNN vào lĩnh vực này thấp, chiếm khoảng 7% và liên tục giảm qua các thời kỳ từ năm 1988 đến nay.
ĐTNN vào lĩnh vực nông nghiệp có xu hướng giảm sút kể từ sau khủng hoảng tài chính châu Á và cho đến nay vẫn chưa có dấu hiện hồi phục do điều kiện đầu tư vào nông nghiệp của Việt Nam chưa thực sự hấp dẫn.
Số dự án bị giải thể trước thời gian ( 30%), chuyển đổi hình thức đầu tư cao hơn so với tỷ lệ bình quân chung cả nước là 16%. Có khá nhiều dự án ĐTNN đang trong tình trạng kinh doanh thua lỗ hoặc triển khai chậm.
2.2. Chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp rất chậm.
Sự lạc hậu của cơ cấu kinh tế nông nghiệp nước ta thể hiện ở chỗ ngành trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng rất lớn trong tổng giá trị sản xuất của toàn ngành nông nghiệp, trong khi đó tỷ trọng ngành chăn nuôi tương đối thấp và tỷ trọng ngành dịch vụ không đáng kể. Hơn thế nữa, cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong những năm qua chuyển dịch rất chậm chạp. Tỷ trọng các ngành biến động trồi sụt theo từng năm không theo xu hướng rõ ràng. Trong vòng 15 năm qua, tỷ trọng trồng trọt chỉ dao động trong khoảng 75,4-77,9%; tỷ trọng chăn nuôi dao động trong khoảng 17,8-22,4%; và tỷ trọng dịch vụ dao động trong khoảng 2,1-2,98%. Thực tế trên đây cho thấy rằng nông nghiệp nước ta vẫn là ngành sản xuất sản phẩm thô là chính, chăn nuôi và dịch vụ chưa phát triển. Đây thực sự là một khó khăn, thách thức lớn đối với việc đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn. Bởi vì cơ cấu nông nghiệp lạc hậu có thể gây cản trở đối với những động lực phát triển nội sinh của ngành; chẳng hạn, phần đông người lao động nông thôn hiện đang bị kìm hãm trong các hoạt động trồng trọt mang nặng tính thời vụ là một sự lãng phí lớn. Cơ cấu nông nghiệp lạc hậu cũng cho thấy sản xuất nông nghiệp chưa tiếp cận được với thị trường, với cơ cấu tiêu dùng, và phương thức sản xuất còn lạc hậu, chưa phù hợp với yêu cầu của nông nghiệp hàng hoá.
2.3 ĐTNN chưa phát huy được đầy đủ tiềm năng.
ĐTNN chưa phát huy được những tiềm năng, cụ thể như trong trồng trọt và chế biến nông sản, mới chỉ tập trung vào việc khai thác tiềm năng, nguồn lực sẵn có về đất đai và lao động... mà chưa có nhiều dự án tạo giống cây, giống con mới và nuôi, trồng, chế biến các loại rau, quả xuất khẩu có hàm lượng kỹ thuật cao, chất lượng tốt phù hợp với điều kiện Việt Nam. Các dự án chế biến lâm sản, chế biến gỗ mới chỉ dừng lại ở mức tập trung sử dụng nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Việc khai thác, sử dụng đất đai của các dự án ĐTNN trong lĩnh vực nông, lâm nghiệp chưa có hiệu quả. Nhiều dự án trồng rừng chiếm diện tích đất khá lớn, nhưng hiệu quả thực tế trên 1ha sử dụng đất còn rất thấp.
2.4. Phân bố nguồn vốn không đều giữa các địa phương.
Bên cạnh tỉ lệ vốn đầu tư của nước ngoài vào trong nông nghiệp chiếm tỷ trọng thấp và có xu hướng giảm xuống trong thời gian gần đây, phân bổ nguồn vốn đầu tư nước ngoài không đồng đều giữa các địa phương. Mặc dù, ngành nông nghiệp chỉ chiếm 10,6% tổng số các dự án FDI vào Việt Nam song việc phân bổ FDI chưa đồng đều giữa các vùng, miền. Nguồn vốn ĐTNN chủ yếu tập trung vào ĐBSCL với 13% vốn đầu tư và Đông Nam Bộ với 54%, các tỉnh miền Trung. Các vùng miền núi phía Bắc và ngay cả ĐBSH chiếm tỷ trọng thấp chỉ tương ứng 4% và 5%, và Tây Nguyên.
2.5. Đối tác nước ngoài còn thiếu tính đa dạng.
Đối tác nước ngoài trong lĩnh vực nông lâm nghiệp còn thiếu tính đa dạng. Hiện có 38 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư còn hiệu lực, trong đó các đối tác đầu tư lớn nhất là Đài Loan, quốc đảo Virgin, Anh, Thái Lan, Pháp... Các quốc gia đầu tư vào trong khu vực nông nghiệp nhưng chủ yếu là các quốc gia Châu á, các nước lớn đầu tư vào Việt Nam còn rất hạn chế.
IV. Những nguyên nhân chính tạo nên hạn chế.
1.Hoạt động Nông nghiệp nói chung và thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này gặp nhiều rủi ro hơn lĩnh vực Nông nghiệp.
Các điều kiện đất đai, thổ nhưỡng, địa hình, cơ sở hạ tầng vùng triển khai các dự án FDI trong nông, lâm nghiệp, đều không thuận lợi so với các điều kiện chung của cả nước, mà ngược lại có phần khó khăn hơn, vì phần lớn các dự án tập trung ở những vùng đất mới khai phá, nằm ở các vùng miền núi, trung du, các công trình thủy lợi chưa hoàn chỉnh. Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn chủ yếu dựa vào sản phẩm nguyên liệu thô, thời gian đầu tư và thu hồi vốn dài, chịu ảnh hưởng trực tiếp của thời tiết và thiên tai, đặc biệt là giá nguyên liệu thô trên thị trường thế giới luôn biến động bất lợi. Trong khi đó các nông sản có chất lượng tiêu dùng cao, nhãn hiệu nổi tiếng và hàm lượng giá trị gia tăng cao chưa được tạo dựng;
2. Thiếu bảo đảm về cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng nông thôn được hiểu là những phương tiện vật chất có ý nghĩa sử dụng lâu dài do hoạt động đầu tư của con người tạo ra. Nhờ cơ cơ sở hạ tầng mà các quá trình sản xuất, hoạt động kinh tế xã hội được thực hiện.
Cơ sở hạ tầng nông thôn bao gồm: đường giao thông; hệ thống thuỷ nông; hệ thống cung cấp điện; hệ thống thông tin liên lạc; cơ sở y tế; trường học; hệ thống chợ. Những loại cơ sở hạ tầng này là những yếu tố quan trọng, mang tính nền tảng đối với tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo ở nông thôn vì những lý do sau:
a.Tạo nền tảng, cơ hội thúc đẩy phát triển các hoạt động sản xuât kinh doanh ở nông thôn, bao gồm: nông, lâm, ngư, nghiệp; công nghiệp; thương mại và dịch vụ ở nông thôn. Nhờ có cơ sở hạ tầng tốt mà sản xuất nông lâm ngư nghiệp đạt được năng suất cao và có thể chuyển dịch được cơ cấu sản xuất theo lợi thế từng vùng; nhờ có cơ sở hạ tầng tốt mà các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp có thể phát triển
b. Tạo điều kiện cần thiết để thay đổi tình trạng về đời sống, sinh hoạt của xã hội nông thôn. Cơ sở hạ tầng đóng vai trò tạo cơ sở vật chất để chuyển đổi một xã hội nông thôn truyền thống sang văn minh hiện đại.
c. Là điều kiện tạo ra cầu nối và giao lưu về kinh tế-xã hội giữa nông thôn với thành thị, từ đó tạo ra sự phát triển hài hoà giữa các vùng nông thôn và giữa nông thôn với thành thị, từ đó tạo ra sự phát triển đồng đều toàn xã hội.
d. Đóng vai trò quan trọng trong việc phân bổ các nguồn lực như lao động và vốn, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo trên các vùng nông thôn.
Mạng lưới đường giao thông nông thôn là một trong những hạ tầng kinh tế kỹ thuật quan trọng nhất để thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa, tiếp cận thị trường và tạo tiền đề vật chất cho xóa đói giảm nghèo. Trước đây Chính phủ cấp phát tài chính cho xây dựng đường bộ chủ yếu là các tuyến đường quốc lộ và liên tỉnh. Hệ thống đường giao thông nông thôn hiện nay chiếm tới trên 80% tổng chiều dài đường giao thông cả nước, theo số liệu điều tra 8934 xã trong cả nước của Tổng cục thống kê công bố vào năm 2003 6 thì: trên 94,5% số xã đã có đường ôtô đến trung tâm, 32,9% số xã có đường liên thôn được nhựa/bê tông, 3,1% số xã có đường liên thôn được nhựa/ bê tông hóa. Do địa bàn rộng lớn và địa hình phức tạp nhất là ở khu vực miền núi và vùng sâu, vùng xa nên việc đưa điện về nông thôn gặp vấn đề về quy hoạch lưới điện, thiếu vốn... chất lượng điện lưới nông thôn ở một số nơi không đảm bảo, không an toàn, tổn hao điện năng lớn và người tiêu dùng cuối cùng phải chấp nhân giá điện cao.
Cả nước vẫn còn tới 3,5 triệu hộ gia đình và 16 triệu người dân nông thôn chưa tiếp cận được với hệ thống điện lưới quốc gia.
Trong sản xuất nông nghiệp hàng hóa, hệ thống hạ tầng thương mại có ý nghĩa rất lớn trong thúc đẩy sản xuất và giao lưu hàng hoá. Trong những năm vừa qua Nhà nước đã có chính sách khuyến khích phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng thương mại nông thôn, nhất là chợ nông thôn ở các vùng sản xuất tập trung, vùng đông dân cư và cả ở vùng cao.
Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê tổng số xã có chợ trong cả nước chiếm 56,12%. Tỷ lệ cao nhất là Đồng bằng Sông Cửu Long- gần 72%, tiếp đó đến vùng Đông Nam Bộ - gần 70%, Duyên Hải Miền Trung - 65%, Đồng Bằng Sông Hồng- 63%, thấp nhất là vùng Tây Bắc- 28,4%.
Mặc dù đã được tăng cường đầu tư, nhưng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội nông thôn như giao thông, điện, nước, thông tin liên lạc, trường học, bệnh viện, nhà văn hoá,... còn kém phát triển.
Hệ thống dịch vụ phục vụ sản xuất như cung ứng giống, thú y, bảo vệ thực vật, sửa chữa cơ khí, điện, tín dụng, và phục vụ đời sống như giáo dục, y tế, tư pháp, văn hoá, thể thao, còn rất thiếu và yếu. Hệ thống kết cấu hạ tầng thương mại cũng chưa phát triển, cả nước vẫn còn khoảng 4.000 xã chưa có chợ, chưa hình thành được các trung tâm thương mại, thiếu hệ thống kho lạnh, xe lạnh, cầu cảng, bến bãi, thông tin thị trường,...
Theo nghiên cứu mới đây của Ngân hàng thế giới, các doanh nghiệp FDI nói riêng và các doanh nghiệp khác nói chung cho biết việc xây dựng đường xá (xuyên quốc gia, tỉnh), điện là những ưu tiên quan trọng nhất nên phát triển. Tiếp theo là các dịch vụ liên quan đến viễn thông, đây cũng là các ưu tiên đối với việc cải thiện môi trường kinh doanh.
Hình 4 : Các ưu tiên về cơ sở hạ tầng
Nguồn : WB, 2005
3.Thiếu đảm bảo về đất đai.
Trong nông nghiệp, đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt. Theo Tổng cục Địa chính, đến năm 1998, Việt Nam mới sử dụng khoảng 67.57% diện tích đất tự nhiên, bình quân đầu người là khoảng 2790 m2. Còn khoảng 10.6 triệu ha đất chưa được sử dụng (32.4%), nhưng phần lớn là đồi dốc, thiếu nước, lại bị sói mòn, thoái hoá, diện tích đất bằng có thể dùng cho trồng trọt hầu hết là đất mặn, phèn ngập úng, muốn khai thác phải có nhiều vốn. Với dân số và NNL ngày càng tăng ở nông thôn, làm cho quỹ đất của VN tính bình quân đầu người vốn đã vào loại thấp nhất thế giới lại càng ít hơn, khó khăn nhiều hơn cho việc tạo công ăn việc làm ở nông thôn. Trong thực tế, tổng diện tích đất nông nghiệp của nước ta lại dành tới 70 % để trồng lúa, nhưng hiện việc thâm canh cây lúa đã đến giới hạn trong việc thu hút thêm lao động so với các cây trổng khác, làm cho hiệu quả sử dụng không cao. Ngoài ra, hiện nay hệ số sử dụng đất bình quân cả nước là 1,4; Miền Bắc là 1,2. Hiện có 445 ngàn hộ nông dân không có đất.
Một ví dụ nhỏ dưới đây sẽ cho ta thấy tình hình thiếu đất trong nông nghiệp với nhà đầu tư nước ngoài.
Ông Kuniaki Baba, Giám đốc Công ty TNHH trồng rừng Quy Nhơn, kể rằng, công ty ông cần mở rộng diện tích đất trồng rừng nguyên liệu để cung cấp cho nhà máy chế biến giấy tại Nhật. Song, đã nhiều ngày qua, dự án của công ty "án binh bất động" vì không thuê được đất. Không chỉ riêng ông Kuniaki Baba, nhiều vị lãnh đạo DN đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong nông nghiệp cũng đang kêu cứu về tình trạng thiếu đất sản xuất, hoặc không thể có đất để tạo vùng nguyên liệu. Ở một Bộ chuyên về sản xuất nông nghiệp, việc thiếu đất nghe như chuyện đùa, nhưng lại hoàn toàn là sự thật.
4. Thiếu bảo đảm về nguồn nhân lực.
Hiện nay, lao động nông thôn có khoảng hơn 30 triệu người, trong đó có tới hơn 80% không có chuyên môn kỹ thuật và hơn 20% không có hoặc thiếu việc làm. Tình trạng “thừa lao động, thiếu chất xám, trí thức không muốn về nông thôn làm việc” đang là một áp lực lớn đối với kinh tế nông thôn. Chất lượng thấp của nguồn nhân lực ở khu vực nông thôn thể hiện qua tỷ lệ không biết chữ là 4,79%, tốt nghiệp trung học phổ thông cơ sở là 34,59% và tốt nghiệp trung học phổ thông là 11,18%. Nếu đánh giá trình độ văn hoá bình quân theo giới tính có thể thấy số năm đi học văn hoá trung bình của khu vực nông thôn thấp hơn thành thị, của phụ nữ thấp hơn nam giới. Theo các nhà nghiên cứu, năng suất lao động sẽ tăng nếu người nông dân có trình độ học vấn ở mức độ nào đó, và nếu tốt nghiệp phổ thông, mức tăng này là 11%. Ngoài ra trình độ học vấn còn cho người lao động khả năng lĩnh hội những kiến thức, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh. Với chất lượng của NNL nông thôn Việt Nam như vậy sẽ hạ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3478.doc