Đề tài Thực trạng và giải pháp ngành công ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC

trang

 

Lời cảm ơn .

Lời mở đầu .

Nội dung

Chương I: Tổng quan về ngành công nghiệp phụ trợ

1. khái niệm

2. Vai trò và đặc điểm của ngành CNPT

a. Vai trò

b. Đặc điểm

Chương II: Thực trạng ngành CNPT

1. Những nhân tố ảnh hưởng đến CNPT

2. Thực trạng ngành CNPT

3. Ảnh hưởng của ngành CNPT đối với kinh tế việt nam

4. Những ưu thế và hạn chế của ngành CNPT

a. Ưu thế

b. Hạn chế chung của ngành công nghiệp

chương III: Đảng và chính phủ có những nhìn nhận về CNPT

1. Quan niệm của Đảng và Chính phủ về CNPT

2. Chính sách quan trọng

Chương IV: giải pháp đưa ra cho ngành CNPT

1. Đề xuất

2. kiến nghị

KẾT LUẬN

 

 

doc21 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 3244 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp ngành công ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chất nào khác góp phần tạo thành sản phẩm. khái niệm công nghiệp phụ trợ trên thực tế chủ yếu sử dụng trong các ngành công nghiệp có sản phẩm đòi hỏi sự kết nối của nhiều chi tiết phức tạp đòi hỏi tính chính xác cao, dây chuyền sản xuất đồng loạt với các công đoạn lắp ráp tách biệt. hai ngành công nghiệp hay sử dụng khái niệm công nghiệp phụ trợ là ngành ô tô và điện tử. Tuy nhiên, nếu đặt góc nhìn rộng hơn, công nghiệp phụ trợ phải được hiểu một cách tông quát như một hình dung về toàn bộ quá trình sản xuất nói chung, chứ không thể bổ dọc, cắt lớp theo ngành hay sản phẩm vì mỗi ngành, mỗi loại sản phẩm đều có những đặc thù riêng và đều có những đòi hỏi ở các mức độ khác nhau về yếu tố phụ trợ.công nghiệp phụ trợ được chia thành các ngành sản xuất: các ngành cứng như sản xuất nguyên liệu và linh kiện… các ngành mềm như thiết kế sản phẩm, mua sắm, marketing quốc tế, viễn thông, vận tải, năng lượng, cấp nước… các ngành phục vụ nhu cầu nội địa như thép, hóa chất, giấy, xi măng… 2.Vai trò và đặc điểm của CNPT a.Vai trò: Công nghiệp phụ trợ đóng vai trò quan trọng quyết định đối với khả năng cạnh tranh và có vai trò to lớn trong quá trình công nghiệp hóa. Tuy nhiên ngành công nghiệp phụ trợ của nước ta đang phải đối mặt với những khó khăn về nguồn vốn cũng như sức cạnh tranh của ngành này đối với khu vực và thế giới. Công nghiệp phụ trợ tạo nhiều công ăn việc làm, thu hút lao động phù hợp với điều kiện việt nam. Công nghiệp phụ trợ đóng vai trò quan trọng việc tăng sức mạnh cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp chính và đẩy nhanh công nghiệp hóa theo hướng mở rộng và chuyên sâu. Công nghiệp phụ trợ phát triển kéo theo các công ty lắp ráp và sản xuất thành phẩm cuối cùng thóa khỏi cảnh phụ thuộc vào nhập khẩu. giá nhập khẩu những sản phẩm nhưng chi phí đầu vào tăng cao còn chưa kể rủi ro về tiến độ, thời gian nhận hàng nhập khẩu Công nghiệp phụ trợ phát triển có vai trò đặc biệt trong vấn đề thu hút đầu tư nước ngoài (FDI), nhất là FDI trong ngành sản xuất các loại máy móc, thực tế cho thấy, tỷ lệ chi phí về công nghiêp phụ trợ cao hơn nhiều so với lao động trong giá thành sản phẩm, nên một nước dù có ưu thế về lao động nhưng công nghiệp phụ trợ không phát triển cũng làm cho môi trường đầu tư kém hấp dẫn. b.Đặc điểm Trong hoạch định chiến lược và chính sách công nghiệp của một quốc gia, quan hệ giữa một ngành sản xuất công nghiệp với các ngành phụ trợ của nó là vấn đề quan trọng. phát triển hợp lý công nghiệp phụ trợ sẽ đóng góp quan trọng vào sự phát triển công nghiệp và kinh tế của quốc gia. lâu nay khi nói đến hạn chế trong thu hút đầu tư vào nước ta người ta cho rằng lỗi là do cơ sở hạ tầng bất cập, thủ tục hành chính rườm rà…tuy nhiên nhiều địa phương đã nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư nhung sức ra vẫn còn yếu. đến nay, các nhà quản lý nhận ra rằng một trong những yếu tố cốt lõi là do chính sách nội tại các doanh nghiệp trên địa bàn, nhất là các doanh nghiệp tham gia vào các hoat động phụ trợ. Chúng ta lấy ví dụ: về thành phố Đà Nẵng là địa phương tiên phong của miền trung trong việc đẩy mạnh đô thị hóa làm thay đổi diện mạo kinh tế- xã hội địa phương và môi trường đầu tư. CHƯƠNG II: Thực trạng ngành công nghiệp phụ trợ và ảnh hưởng của nó tới kinh tế Việt Nam 1.Các nhân tố ảnh hưởng công nghiệp phụ trợ: -Thị trường sản phẩm nguồn.Nhu cầu sản phẩm nguồn phải tạo ra thị trường ổn định để phát triển hiệu quả các ngành phụ trợ. Nếu sản phẩm nguồn có quy mô nhỏ và chủng loại đa dạng thì số lượng sản xuất của các ngành phụ trợ sẽ nhỏ, giá thành sản xuất cao. Nếu tiêu thụ sản phẩm nguồn nội địa không lớn các nhà sản xuất nguồn sẽ không tham gia thị trường và ngành sản xuất sản phẩm phụ trợ gặp khó khăn. - Nguồn lực tài chính: Đầu tư vào các ngành sản xuất phụ trợ bất lợi hơn so với đầu tư vào sản xuất nguồn (thường là lắp ráp): Suất đầu tư lớn; công nghệ phức tạp; thời hạn đầu tư và hoàn vốn dài; độ rủi ro trong đầu tư cao. Nguồn lực tài chính cho đầu tư phát triển công nghiệp và chính sách huy động nguồn lực đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm các ngành công nghiệp phụ trợ phát triển bền vững. - Tiến bộ khoa học và công nghệ: Do yêu cầu cải tiến liên tục để nâng cao năng lực cạnh tranh, việc thiết kế và chế tạo mới sản phẩm nguồn yêu cầu công nghiệp phụ trợ phải thường xuyên đổi mới, nghiên cứu và sản xuất phụ liệu, phụ tùng hay chi tiết phù hợp. - Bảo đảm yêu cầu nghiêm ngặt về (QCD) chất lượng, chi phí và thời hạn cung ứng (các sản phẩm phụ trợ) nhằm đáp ứng những cam kết với khách hàng của sản xuất nguồn. Nguồn linh kiện, phụ kiện sản xuất trong nước phong phú, chất lượng cao sẽ tích cực hạ giá thành sản phẩm nguồn. - Sự phát triển công nghệ thông tin và thương mại điện tử hiện nay tạo điều kiện cung và cầu (sản phẩm phụ trợ và sản phẩm nguồn) gần nhau hơn, giảm thời gian giao dịch, mở rộng phạm vi quan hệ giữa hai khu vực. - Quan hệ giữa sản phẩm phụ trợ và sản phẩm nguồn không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia, mà phải phát triển trong phạm vi khu vực và toàn cầu để nâng cao hiệu quả. - Hoạch định chiến lược phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ là một phần của chính sách phát triển kinh tế quốc gia, thu hút đầu tư nước ngoài và phân công lao động hiệu quả giữa sản xuất trong nước và các tập đoàn đa quốc gia. 2.thực trạng công nghiệp phụ trợ Ở việt nam,cho đến nay, chưa có một cuộc điều tra toàn diện nào về ngành công nghiệp phụ trợ được tiến hành, song để đánh giá thực trạng của ngành, chúng ta có thể dựa trên một số kết quả khảo sát, điều tra mẫu và nghiên cứu do các cơ quan khác nhau tiến hành ( tổng cục thống kê, viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản- JETRO và nhất là diễn đàn phát triển Việt Nam – VDF).Theo báo cáo năm 2010 của VDF, các nhà sản xuất nhật bản cho rằng CNPT Việt nam còn chậm phát triển. tỷ lệ nội địa hóa của các nhà sản xuất nhật bản tại việt nam ở các mặt hàng như ô tô cao nhất cũng chỉ đạt10%. Tương tự là hai ngành dệt may và da giày. Mặc dù công nghiệp sản xuất nguyên phụ liệu trong vài năm gần đây phát triển so với trước đây, nhưng hai ngành này vẫn phụ thuộc rất lớn vào việc nhập khẩu nguyên phụ liệu nước ngoài. Trong đó, ngành dệt may nhập khẩu khoảng 80% nhu cầu về sợi polyeste, ngành giày da nhập khẩu khoảng 85% hóa chất, các phụ liệu đế giày, mũi giày cùng các phụ liệu khác. còn theo nghiên cứu của viện nghiên cứu quản ký kinh tế trung ương (CIEM), khi thực hiện cuộc khảo sát hơn 80 doanh nghiệp FDI tại việt nam, có tới1/3 doanh nghiệp cho rằng việc cung ứng nguyên vật liệu và các hoạt động kinh tế phụ trợ của việt nam rất kém. Các doanh nghiệp FDI rất muốn phối hợp với các nhà cung cấp trong nước để giảm chi phí sản xuất, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, nhưng rất khó có thể tìm được nhà cung ứng thích hợp. đôi khi họ phải tim ra các nhà cung cấp tiềm năng thông qua niên giám điện thoại hoặc dựa vào các mối quan hệ cá nhân của nhân viên, nhưng tiếp cận hàng trăm đơn vị mới tìm thấy được một nhà cung cấp đạt yêu cầu Nguyên nhân của những yếu kém kể trên là do các nhà cung cấp Việt Nam chưa năng động và nhạy bén trong việc tiếp cận khách hàng, chưa tự tin và chưa có khái niệm “ xây dựng quan hệ” trong kinh doanh. Ngoài ra , các doanh nghiệp phụ trợ hiện vẫn chủ yếu kà các doanh nghiệp nhà nước, sản xuất ra những sản phẩm có chất lượn kém và giá thành cao (do công nghệ lạc hậu, trình độ quản lý kém…) nên chỉ tiêu thụ được trong nội bộ các doanh nghiệp nhà nước. trên thực tế luôn tồn tại một khoảng cách quá lớn với yêu cầu về chất lượng sản phẩm, giá bán cũng như thời hạn giao hàng của các doanh nghiệp nước ngoài so với khả năng đáp ứng của các doanh nghiệp việt nam.Hiện cả nước có 450.000 doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 90%, đóng góp hơn 40% GDP, hơn 50% lao động trong các doanh nghiệp. Thực trạng phát triển CNPT có thể được đánh giá thông qua khả năng cung cấp linh kiện và tỷ lệ nội địa hóa trong một số ngành công nghiệp ở việt nam như sau: Về ngành dệt may và dày da: Công nghiệp hỗ trợ của ngành dệt may, da giày hiện đang yếu và thiếu, điều đó thể hiện rõ nhất ở giá trị thặng dư của 2 ngành. Năm 2010, tổng kim ngạch xuất khẩu của 2 ngành đạt 16,6 tỷ USD nhưng chúng ta đã phải bỏ ra khoảng 11,5 tỷ USD để nhập khẩu nguyên phụ liệu phục vụ cho sản xuất. Giá trị thu về của 2 ngành thực sự rất nhỏ so với hàng chục tỷ đồng kim ngạch xuất khẩu đạt được hàng năm. Cụ thể, năm 2010 ngành dệt may hiện chỉ chủ động được khoảng 30-40% nguồn nguyên phụ liệu, trong đó vải đáp ứng được 20-30% nhu cầu, bông đáp ứng được 10%, sơ thì chúng ta phải nhập khẩu hoàn toàn, chỉ có sợi là ngành dệt may chủ động được gần như hoàn toàn nhu cầu sản xuất trong nước và xuất khẩu (xuất khẩu khoảng 2 tỷ USD năm 2010). Với ngành da giày, công nghiệp hỗ trợ của ngành này có khá hơn so với ngành dệt may, bằng chứng là ngành da giày có thể chủ động được 40-50% nguồn nguyên phụ liệu cho sản xuất. Tuy nhiên, chỉ có phụ liệu như đế, vải bạt, chỉ… là ngành chủ động được khoảng 50%, còn da thuộc và nguyên liệu giả da, ngành da giày hiện đang phải nhập khẩu gần như hoàn toàn. Về ngành điên tử - tin học: sau nhiều năm phát triển, ngành điện tử việt nam vẫn trong tình trạng lắp ráp cho các thương hiệu nước ngoài. Các doanh nghiệp điện tử trong nước vẫn gần như chỉ khai thác sản phẩm cũ, lợi nhuận rất thấp và giá trị gia tăng chỉ 10-15%/năm. Trong khi đó, các doanh nghiệp FDI trong nghành điện tử, tin học đang đứng trước sức ép phải giảm chí linh kiện, phụ kiện và nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm sản xuất trong nước. tuy nhiên, do số doanh nghiệp phụ trợ rất ít, chất lượng linh kiện chưa đảm bảo nên phần lớn các doanh nghiệp FDI phải nhập khẩu linh phụ kiện từ các nước xung quanh hoặc nhập trực tiếp từ nhật bản Về ngành sản xuất và lắp ráp ô tô: mỗi chiếc xe hơi đều cần 20.000-30.000 chi tiết, trong khi đó số doanh nghiệp việt nam sản xuất linh kiện còn quá ít, hơn nữa một số doanh nghiệp chỉ sản xuất được một số loại sản phẩm đoan giản như bảng điện, dây điện, phụ tùng nhựa, đệm cao su, săm lốp,…trong khi đó Thái Lan xuất khẩu ô tô với linh kiện , phụ tùng sản xuất tại chỗ với khoảng 15 nhà máy lắp ráp có trên 1.800 nhà cung ứng sản phẩm phụ trợ và hiện có đến 19 ngành công nghiệp phụ trợ ở 3 cấp: lắp ráp, cung cấp thiết bị- phụ tùng-linh kiện và dịch vụ. Có lẽ câu chuyện thất bại chiến lược nội địa hóa của ngành công nghiệp ô tô Việt Nam là một minh chứng rõ nhất cho thấy, ngành công nghiệp phụ trợ nước ta phát triển không như mong muốn. Sau hơn 10 năm hoạt động, tỷ lệ nội địa hóa của ngành ô tô rất thấp. Tỷ lệ nội địa hóa của Honda Việt Nam là cao nhất nhưng cũng chỉ mới đạt 10%, kế tiếp là Toyota Việt Nam (7%). Hai công ty Daewoo Việt Nam và Ngôi Sao cùng đạt 4%. Thấp nhất là Suzuki (chỉ đạt 3%) và Ford Việt Nam: 2%... Về ngành cơ khí chế tạo: Với ngành cơ khí, đến năm 2010, CNPT ngành cơ khí chế tạo phải đáp ứng được 50% nhu cầu nội địa về phôi đúc, rèn và chi tiết quy chuẩn. chúng ta có một số công ty và doanh nghiệp công nghệ đang sản xuất phụ tùng lắp ráp, công nghệ chế tạo máy. Tuy nhiên có rất ít doanh nghiệp có khả năng đáp ứng yêu cầu( đặc biệt là những lãnh đạo nước ngoài) do chất lượng kém, độ chính xác thấp, không đảm bảo tiêu chuẩn công tác. Theo thống kê của bộ công thương , hiện nay có trên 230 doanh nghiệp sản xuất linh kiện ,phụ tùng cung cấp cho công nghiệp lắp ráp va chế tạo trong đó có hơn 80 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, nhưng so sánh hơn cả thì chất lượng vẫn kém hơn nhiều so với các sản phẩm của nhật bản, đài loan.. Công nghiệp đúc nhựa có khoảng 200 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đúc nhựa nhưng chủ yếu là sản xuất hàng tiêu dùng thông thường.trong các ngành công nghiệp điện lắp ráp như điện, ô tô… thì rất ít doanh nghiệp có khả năng cung cấp linh kiện nhựa đúc dùng trong sản phẩm công nghiệp, chúng ta vẫn phải nhập khẩu sản phẩm chế tạo từ nước ngoài để sản xuất. 3.Ảnh hưởng của CNPT tới kinh tế Việt Nam công nghiệp phụ trợ những năm gần đây chúng ta đã nói nhiều tới sự phát triển chậm chạp của ngành CNPT ở nước ta hiện nay nhưng xem ra thời điểm này nó trở nên bức thiết hơn bao giờ hết bởi nó không đơn thuần phản ánh hiện trạng nước ta thiếu chiến lược phat triển ngành CNPT mà nó còn đang có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu hút đầu tư nước ngoài. Đến thời điểm toàn cầu hóa đã có ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế, môi trường đầu tư, giá công nhân, mặt bằng rẻ không còn là “lợi thế” riêng của Việt Nam trong thu hút đầu tư nữa. giờ đây các nhà đầu tư dặc biệt là các lãnh đạo nước ngoài họ đã chuyển hướng nhắm tới những thị trường có thể đáp ứng tốt nhất cho việc sản xuất các sản phẩm đặc biệt trong đó các sản phẩm cung cấp từ ngành CNPT là vô cùng cần thiết.bởi vậy việc phát triển CNPT đang là một trong những chính sách phát triển hàng đầu của chính phủ và được kỳ vọng sẽ làm thay đổi bộ mặt của ngành công nghiệp Việt Nam trong những năm tới. Công nghiệp phụ trợ ảnh hưởng tới kim ngạch nhập khẩu của nước ta. Công nghiệp phụ trợ không phát triển sẽ làm cho các công ty lắp ráp và những công ty sản xuất thành phẩm cuối cùng khác sẽ phải phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu. dù cho những sản phẩm này có được cung cấp với giá rẻ ở nước ngoài nhưng vì chủng loại quá nhiều, phí tốn chuyên chở, bảo hiểm sẽ làm tăng phí tổn đầu vào. Đó là chưa nói đến tiến độ. Thời gian nhận hàng nhập khẩu. Công nghiệp phụ trợ khôngchỉ là sản xuất các linh kiện, phụ tùng mà nó còn là công cụ trong việc đẩy mạnh đô thị hóa làm thay đổi diện mạo kinh tế- xã hội địa phương và môi trường đầu tư. Lấy ví dụ điển hình dự án: khách sạn Lam Kinh Thanh Hóa. Chủ đầu tư là: PVFC land và PVCoa. Công trình khách sạn Lam Kinh được xây dựng trên diện tích khu đất 32.233m2 gồm 9 tầng với quy mô 250 phòng. Công trình đạt tiêu chuẩn bốn sao phù hợp với tiêu chuẩn xếp hạng khách sạn thế giới của tổ chức du lịch thế giới (WTO), hiệp hội khách sạn quốch tế (IHA), hiệp hội khách sạn và nhà hàng của liên minh châu âu, và với tiêu chuẩn xếp hạng khách sạn chung cuả các nước tiểu vùng Mekong của tổng cục du lịch Việt Nam.dự án khách sạn lam kinh được thực hiện nhằm góp phần thực hiện định hướng phát triển kinh tế xã hội, nâng cao cơ sở hạ tầng cho thành phố thanh hóa nói riêng và tỉnh thanh hóa nói chung.. đồng thời , dự án cũng thực hiện định hướng phát triển hoạt động của PVN tại tỉnh thanh hóa, là phụ trợ cho các dự án trọng điểm mà điển hình là dự án lọc hóa dầu Nghi Sơn sẽ hoàn thành năm 2013. 4.Những ưu thế và hạn chế của ngành CNPT. a. ưu thế .- Việt Nam đã gia nhập ASEAN, APEC, WTO, đã là thành viên không thường trực Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. -  Đổi mới và cải cách mạnh mẽ: giảm tiêu cực trong quản lý hành chánh, hứa hẹn nhiều thuận lợi cho nhà đầu tư trong hoạt động sản xuất và kinh doanh. -  Chính trị ổn định: tạo tâm lý an toàn để nhà đầu tư hoạch định lâu dài, sản xuất kinh doanh dài hạn. - Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với thông lệ và tập quán quốc tế: đảm bảo quyền lợi nhà đầu tư, hạn chế các khó khăn do khác biệt về luật lệ, quy định. -  Tạo cơ hội cho các thành phần kinh tế phát triển bình đẳng trong cơ chế thị trường. -  Chủ động và tích cực hội nhập, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về tự do hóa, thuận lợi hóa đầu tư, tạo thị trường mới cho nhà đầu tư. b. hạn chế chung của ngành công nghiệp công nghiệp việt nam còn quá yếu, hiện nay có quá ít ngành có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. nguyên nhân không có sức cạnh tranh một phàn vì cơ cấu đầu tư nghiêng về những ngành việt nam không có lợi thế so sánh( những ngành thuộc công nghiệp nặng như sắt thép, xi măng, phân bón, luyện kim…) nên sản xuất chủ yếu là cho thị trường nội địa, FDI cũng tập trung nhiều vào những ngành thay thế nhập khẩu.công nghiệp phụ trợ đã và đang có những ảnh hưởng rất lớn tới công nghiệp nói riêng và nền kinh tế việt nam nói chung, dưới đây là những hạn chế cơ bản của công nghiệp phụ trợ việt nam: -  Doanh nghiệp phụ trợ chưa xác định các chiến lược lâu dài: Chiến lược phát triển 2011-2020 cũng chỉ nhắc đến CNPT trong vỏn vẹn 7 từ: “phát triển mạnh công nghiệp hỗ trợ” chứ thực tế thì các doanh nghiệp không có bước tiến, trong việc tổ chức và xây dựng chiến lược hoat động đang là hạn chế cơ bản nhất của CNPT -  Sự phối hợp giữa các doanh nghiệp chưa chặt chẽ: Các doanh nghiệp phần lớn hoạt động riêng rẽ và thiếu chủ động yêu cầu hỗ trợ của khối doanh nghiệp tư nhân, vốn là nhân vật chính của cuộc chơi kinh tế thị trường và cũng là đối tượng chính trong sản xuất CNPT. -  Nhập siêu do thiếu nguyên vật liệu: nguyên vật liệu sản xuất trong ngành công nghiệp phụ trợ không phải là điểm yếu của công nghiệp việt nam nhưng giai đoạn cuối của sản xuất sản phẩm lại là vấn đề nan giải của việt nam, không có khoa học kỹ thuật và công nghệ cao nên khâu sản xuất công đoạn cuối việt nam luôn phải nhập khẩu của nước ngoài, một số công ty của nước ngoài thay vì tổ chức sản xuất tại việt nam sẽ chuyển qua nhập khẩu sản phẩm của chính họ để phân phối trên thị trường việt nam. - Tỷ lệ nội địa hoá linh phụ kiện của các ngành sản xuất ở mức thấp -  Doanh nghiệp công nghiệp phụ trợ yếu nên không tăng cường khả năng cạnh tranh, nếu có thì chủ yếu tham gia khâu đóng gói, bao bì, … -  Giá sản phẩm cao nên khó cạnh tranh. c. hạn chế của CNPT - Chưa có sự triển khai các chính sách phù hợp và sự hỗ trợ kịp thời, đúng mức. - Cần có chương trình hành động cụ thể, kế hoạch chi tiết để triển khai đảm bảo mục tiêu, tiến độ - Hỗ trợ nguồn vốn cho các doanh nghiệp phụ trợ và kỹ thuật sản xuất tiên tiến. - Các ngành công nghiệp phụ trợ chưa nhận biết tầm quan trọng của việc tăng cường khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp. - Hình thức sản xuất tích hợp theo chiều dọc, không chuyên môn hoá. - Quy mô thị trường trong nước còn hạn chế: thị trường ôtô Việt Nam (do nhiều yếu tố chi phối như hạ tầng giao thông, chính sách thuế nhằm hạn chế lượng xe lưu hành…) với khoảng 9xe/1.000 dân. - Thông tin phối hợp giữa FDI và SME còn hạn chế. - Chưa có hệ thống cung ứng có kiểm soát (Supplier Chain Management): Ngành công nghiệp ôtô hình thành 5 cấp bậc sản xuất với hàng nghìn các doanh nghiệp tham gia trong đó nhiều nhất là các doanh nghiệp cung cấp nguyên vật liệu, kế đến là các doanh nghiệp nhỏ, các doanh CHƯƠNG III: Nhìn nhận của Đảng và Chính Phủ về CNPT 1. Quan niệm của Đảng và Chính phủ về CNPT Ở Việt Nam, quan niệm về công nghiệp phụ trợ xuất hiện trong các chương trình hợp tác kinh tế với Nhật Bản. Khái niệm này được du nhập vào nước ta thông qua vai trò của Diễn đàn kinh tế Việt Nam (VDF) và ảnh hưởng của các luồng FDI Nhật Bản, đặc biệt gắn với việc chọn lựa địa điểm đặt các nhà máy 2004, chủ yếu trong các chỉ thị, công văn chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ. Chỉ thị số 47/2004/CT-TTg ngày 22/12/2004 về các giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp xuất khẩu có đề ra nhiệm vụ trong năm 2005: “Tập trung phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ để tăng cường khả năng cung ứng nguyên vật liệu, bán thành phẩm, phụ liệu đầu vào trong nước cho sản xuất hàng công nghiệp xuất khẩu và thúc đẩy mối quan hệ bổ trợ liên ngành giữa các ngành công nghiệp…”. Một vài công văn và chỉ thị sau đó cũng lặp lại nội dung này (Chỉ thị 27/2006/CT-TTg ngày 07/08/2006). Đặc biệt, nội dung phát triển phát triển công nghiệp đã được đề cập trong Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam (Quyết định số 73/2006/QĐ-TTg ngày 04/04/2006 về phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển các ngành công nghiệp Việt Nam theo các  vùng lãnh thổ đến năm 2010, tầm nhìn đến 2020). Công nghiệp phụ trợ trở thành một trong những nội dung chính đối với Kế hoạch tổng thể phát triển công nghiệp điện tử Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến 2020 (Quyết định số 75/2007/QĐ-TTg ngày 28/05/2007). 2. Chính sách của Nhà Nước Ngày 31/07/2007, Bộ công nghiệp ra quyết định số 37/2007/QĐ-BCN phê duyệt quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020. nội dung quy hoạch phát triển công nghiệp phụ trợ tập trung vào 5 nhóm ngành: dệt may, da dày, điện tử- tin học, sản xuất lắp ráp ô tô và cơ khí chế tạo. Với một số chính sách quan trọng sau : - Hình thành các khu, cụm công nghiệp sản xuất linh kiện, phụ tùng, nguyên vật liệu phụ trợ cũng như  một số khu, cụm công nghiệp phụ trợ có trang thiết bị, công nghệ tiên tiến gắn với các vùng có ngành công nghiệp chính phát triển. -Khuyến khích các DNVVN tham gia sản xuất sản phẩm phụ trợ, cung ứng nguyên phụ liệu cho sản xuất phụ trợ; tập trung phát triển các ngành, các sản phẩm công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn, tạo nền tảng để phát triển DNVVN làm vệ tinh phát triển công nghiệp phụ trợ, hỗ trợ chi phí mua bản quyền và tạo điều kiện thuận lợi cho họ tiếp cận nguồn vốn vay dài hạn để đầu tư phát triển. -Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có các dự án chuyển giao công nghệ vào VN, khuyến khích tham gia đào tạo nguồn nhân lực, kết nối khối doanh nghiệp này với các doanh nghiệp nội địa trong phát triển sản xuất phụ trợ. - Khuyến khích các viện nghiên cứu chuyên ngành triển khai nghiên cứu, thực nghiệm các đề tài, dự án gắn với nhu cầu phát triển sản xuất các chủng loại vật liệu, chi tiết, linh phụ kiện, phụ tùng... phục vụ phát triển công nghiệp phụ trợ. - Thu hút sự hỗ trợ của Chính phủ các nước phát triển như Nhật Bản, EU... để đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp phụ trợ. - Sử dụng vốn ODA để hỗ trợ đào tạo lao động, xây dựng thể chế pháp lý và các chương trình phát triển công nghiệp phụ trợ, công nghiệp vừa và nhỏ, chương trình hợp tác với các công ty đa quốc gia đầu tư trực tiếp vào VN. CHƯƠNG IV: giải pháp đưa ra cho ngành công nghiệp phụ trợ CNPT Việt Nam hiện nay đang còn chậm phát triển đang còn thua xa các nước Nhật Bản, Trung Quốc…có nhiều nguyên nhân dẫn tới sự chậm trễ đó, sau đây là những giải pháp cho ngành CNPT: 1.đề xuất chính sách hỗ trợ hợp lý từ nhà nước, phải có một bộ luật chính thức về công nghiệp phụ trợ chứ không đơn thuần là quyết định phê duyệt hay là xây dựng nghị định ưu đãi công nghiệp phụ trợ.nhà nước cần phải có chính sách phát triển học tập cac nước có nền kinh tế phát triển đặc biệt là Nhật Bản thực hiện chính sách công nghiệp phụ trợ một cách bài bản, có chủ đích và phù hợp với từng thời kỳ. giải pháp về khoa học công nghệ, nhà nước cần xây dựng và ban hành một tiêu chuẩn kỹ thuật chất lượng sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế, làm căn cứ cho định hướng phát triển. cần hoàn thiện nâng cấp các tổ chức kiểm định, đánh giá chất lượng sản phẩm phụ trợ đạt trình độ quốc tế. tạođiều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp FDI có các dự án chuyển giao công nghệ tiên tiến vào sản xuất taị việt nam. Cũng như hỗ trợ kinh phí mua bản quyền cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển CNPT giải pháp huy động nguồn nhân lực. nhân lực là khâu có ý nghĩa quyết định đối với mọi doanh nghiệp đặc biệt là đối với doanh nghiệp có công nghiệp phụ trợ phụ trợ đang trong giai đoạn sơ khai, để đảm bảo cho ngành công nghiệp này phát triển hoạt động, đáp ứng yêu cầu sẽ cần nhiều cán bộ kỹ thuật các ngành thiết kế, chế tạo máy, luyện kim, điện tử- tin học …có khả năng làm chủ các công nghệ. để vươn lên tầm cao đủ sức cạnh tranh trên trường quốc tế nhân viên ngành này cần phải có năng lực, trình độ nghiên cứu, tác phong công nghiệp cao, do đó Việt Nam cần phải chú trọng bồi dưỡng nguồn nhân lực bằng mọi hình thức. giải pháp liên kết doanh nghiệp. để tranh thủ bước đi nhanh, chắc, hiệu quả cần xây dựng các chương trình hợp tác dài hạn với các đối tác chiến lược, các công ty, tập đoàn đa quốc gia về phát triển công nghiệp nói chung và công nghiệp phụ trợ nói riêng. ở Việt Nam trong giai đoạn 2010 tầm nhìn 2020. trước mắt cần có kế hoạch kết nối với các doanh nghiệp FDI ( FDI là vốn đầu tư trực tiếp) với các doanh nghiệp nội địa thông qua các kế hoạch kết nối, chương trình giới thiệu nhu cầu phát triển và sử dụng sản phẩm phụ trợ và hợp đồng kinh tế giữa 2 bên. Giải pháp về hạ tầng cơ sở. giao thông vận tải của nước ta rất kém. Cần phải tích cực đẩy mạnh xây dựng hoàn thiện cả các mặt đường bộ, đường sắt, đường biênt, hàng không. Hệ thống càn được nâng cấp, đáp ứng chuyên chở hành khách và hàng hoá ngày càng tăng lên. Các kho hàng, các điểm tập trung hàng hóa ở các vùng kinh tế trọng điểm cần được mở rộng và xây dựng hiện đại hơn, phù hợp hơn. Giải pháp về tài chính. DN vừa và nhỏ là đối tượng chủ yếu trong lĩnh vực này nên cần tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp ấy tiếp cận được với nguồn vốn vay dài hạn đầu tư cho phat triển, trong việc đầu tư và sản xút sản phẩm phụ trợ cũng cần hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ nghiên cứu và học tập công nghệ của nước khác, hỗ trợ cho ngành phhats triển khoa học công nghệ cho các doanh nghiệp công nghiệp phụ trợ. Để bắt nhịp làn sóng nội địa hóa Việt nam cần sớm xây dựng các cơ sở dữ liệu hiệu quả. Một doanh nghiệp nên có đủ các thông tin về chính sách, thành tích và kinh nghiệm của công ty, hạn chế trong khu vực sản xuất, tranh thiết bị sản xuất, độ chính xác, chứng chỉ chất lượng, các khách hàng chính, doanh số bán, tổng vốn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng và giải pháp ngành công nghiệp phụ trợ ở Việt Nam hiện nay.doc
Tài liệu liên quan