Đề tài Thực trạng và giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU trong xu hướng xoá bỏ hạn ngạch dệt may

Hiện nay hàng dệt may VN xuất khẩu vào EU chủ yếu theo hình thức gia công vì thế hiệu quả thực tế là rất nhỏ. Hiện có tới 70% hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may VN sang EU thông qua các thị trường Hồng Kông, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore. Các nước này thường nhập khẩu hoặc thuê VN gia công rồi tái xuất sang thị trường EU. Chính điều này tạo nên sự bất cập đối với công ty VN, bởi như vậy họ không tự khẳng định được vị thế của mình trên thị trường mà lại phải ẩn sau nhãn mác của một hãng nước ngoài, họ không có khả năng cũng như luôn bị thụ động trong việc thực hiện hoạt đống sản xuất của mình về mẫu mã, chủng loại. Đặc biệt là giá cả được trả rất thấp, điều đó làm cho lợi nhuận không cao và như vậy vốn đầu tư cho thiết bị không có nên chất lượng thấp, khả năng sáng tạo mẫu mã kém không tiêu thụ được. Và cứ như vậy tạo nên một vòng luẩn quẩn cho các doanh nghiệp VN.

 

doc29 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1747 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU trong xu hướng xoá bỏ hạn ngạch dệt may, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ày. Cụ thể là chất lượng của sản phẩm vẫn chưa đạt được đúng như tiêu chuẩn của khách hàng đòi hỏi và chưa ổn định. Do đó gần như các sản phẩm này không phải là hàng tiêu dùng đối với khách hàng có thu nhập cao. Mẫu mã hầu như chưa được đổi mới với thị hiếu của người tiêu dùng. Vì thế khả năng đúng mốt hợp thời trang của dệt may gần như không đáp ứng được. Bên cạnh đó, giá xuất khẩu của các mặt hàng năm 1999 bị giảm thấp từ 15 - 20 % so với năm 1998 nên hiệu quả kinh tế là chưa cao. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến khả năng hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty trong việc nâng cao uy tín, mở rộng thị trường. Mặt khác hình thức xuất khẩu theo hạn nghạch cũng tạo ra cho doanh nghiệp luôn bị gò bó thụ động trong việc thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của mình. Tuy nhiên vì thị trường EU tiêu dùng theo tầng lớp nên sản phẩm dệt may VN thường thích hợp, thoả mãn nhu cầu ở tầng lớp trung lưu nghĩa là đã có sự chấp nhận mặt hàng này hơn là chất lượng cũng như giá cả vừa với mức thu nhập của họ. Chính vì vậy mà số hạn ngạch đã được giảm từ 151 vào năm 1993 đến năm 2000 số hàng quản lý bằng hạn ngạch chỉ còn 28 đã cho thấy người tiêu dùng EU đang ngày càng chấp nhận tiêu dùng hàng dệt may nhiều hơn. Với thị trường EU luôn đòi hỏi chất lượng cao, mẫu mã được đổi mới liên tục số lượng hàng dệt may xuất khẩu sang EU còn quá ít. Nhưng phải thừa nhận rằng Hiệp định buôn bán hàng dệt may giữa VN và EU đã tạo ra bước tiến mới trong xuất khẩu hàng dệt may nước ta. Vì vậy, điều quan trọng hiện nay để thâm nhập thị trường này là phải tăng cường xuất khẩu và liên tục nâng cao chất lượng, đổi mới sản phẩm về mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc ... nhằm cạnh tranh có hiệu quả hơn với các đối thủ khác trên thị trường này. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may VN sang thị trường EU Là một thị trường đầy tiềm năng với sức tiêu dùng hàng dệt may cao hàng đầu thế giới: 17 kg/người/năm. EU thực sự trở thành thị trường rộng lớn. Vì vậy nhu cầu tăng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may VN sang thị trường EU luôn là vấn đề cấp thiết. Hiện nay hàng dệt may VN xuất khẩu sang hơn 40 nước trên thế giới trong đó xuất khẩu sang các nước EU chiếm gần 40% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của nước ta. Căn cứ vào số liệu của EU năm 1997 kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may VN chiếm 0,8% trong tổng kim ngạch xuất khẩu dệt may vào thị trường EU, cụ thể là năm 1996 đạt 405,8 triệu USD năm 1997 đạt 436,1 triệu USD năm 1998 lên đến 578,7 triệu USD năm 1999 là 658,7 triệu USD. Dự kiến kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may cả năm 2004 đạt khoảng 4,3 - 4,35 tỷ USD, vượt kế hoạch năm 2004 khoảng 50 - 100 triệu USD, trong đó EU đạt gần 800 triệu USD chiếm 18,4% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, tăng 40% so với năm 2003. Tuy nhiên một trong những nhân tố làm kim ngạch xuất khẩu tăng cao là do việc cộng kim ngạch của 10 nước thành viên mới trong EU. Tính đến hết ngày 11/1/2005 tỷ lệ thực hiện hạn ngạch vào thị trường EU như sau: trong tổng số 29 chủng loại hàng (cat) chịu áp dụng hạn ngạch thì có hai cat có tỷ lệ thực hiện đạt hơn 90% (áo khoác nam - cat.15 và quần áo dệt kim - cat.83) 6 cat đạt hơn 80% (gồm sợi tổng hợp - cat.41, áo len - nỉ - cat.5, quần - cat.6, áo khoác nữ - cat.14, ga trải giường - cat.20, quần áo bảo hộ lao động - cat.76) 5 cat thực hiện trên 70%( gồm cat.4,13,29,39,76). Chủng loại hàng may mặc được tập trung xuất khẩu Trong các chủng loại hàng may mặc xuất khẩu sang EU, hầu hết các doanh nghiệp may mặc mới chỉ tập trung vào một số sản phẩm dễ dàng, các mã hàng nóng như: áo jacket, áo sơ mi, áo váy ... cụ thể tỷ trọng xuất khẩu sang EU là; áo jacket (51,7%), áo sơ mi (11%), quần âu (5%) áo len và áo dệt kim (3,9%) T- shirt và polo - shirt (3,4%) quần dệt kim (2,7%), bộ quần áo bảo hộ lao động (2,1%) áo khoác nam (1,8%) và áo sơ mi nữ (1,4%) ( nguồn Bộ thương mại ) Trong đó loại được đặc biệt xuất khẩu trong cơ cấu hàng dệt may xuất khẩu sang EU là mặt hàng áo jacket 2 hoặc 3 lớp. Hình thức xuất khẩu chủ yếu Hiện nay hàng dệt may VN xuất khẩu vào EU chủ yếu theo hình thức gia công vì thế hiệu quả thực tế là rất nhỏ. Hiện có tới 70% hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may VN sang EU thông qua các thị trường Hồng Kông, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore. Các nước này thường nhập khẩu hoặc thuê VN gia công rồi tái xuất sang thị trường EU. Chính điều này tạo nên sự bất cập đối với công ty VN, bởi như vậy họ không tự khẳng định được vị thế của mình trên thị trường mà lại phải ẩn sau nhãn mác của một hãng nước ngoài, họ không có khả năng cũng như luôn bị thụ động trong việc thực hiện hoạt đống sản xuất của mình về mẫu mã, chủng loại. Đặc biệt là giá cả được trả rất thấp, điều đó làm cho lợi nhuận không cao và như vậy vốn đầu tư cho thiết bị không có nên chất lượng thấp, khả năng sáng tạo mẫu mã kém không tiêu thụ được. Và cứ như vậy tạo nên một vòng luẩn quẩn cho các doanh nghiệp VN. Cạnh tranh với một số nước trên thị trường EU Với tư cách là nhà xuất khẩu mới còn non trẻ, hơn nữa lại chưa phải là thành viên của WTO nên bị hạn chế hạn ngạch theo các Hiệp định song phương, chịu mức thuế suất, nhập khẩu cao... vì thế thị phần của VN ở thị trường EU còn rất nhiều bất cập và nhỏ bé. Năm 2000 đạt 0,5% giá trị nhập khẩu hàng dệt may của EU, đến năm 2002 là 0,8%. Các quốc gia và vùng lãnh thổ có năng lực sản xuất lại được ưu đãi về hạn ngạch đã chiếm tỷ trọng khá lớn vào các thị trường quan trọng như Trung Quốc: 11,5%, các nước Đông á 6%, ấn Độ 6% đặc biệt Thổ Nhĩ Kỳ 7,8%, Đông Nam á chiếm 4,5%. Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU sau khi có Hiệp định tự do hoá thương mại ngành dệt may. Tình hình chung của dệt may Việt Nam sau khi có Hiệp định tự do hoá thương mại ngành dệt may. Có thể nói rằng ngay cả khi VN đã là thành viên của WTO ngành dệt may VN cũng như nhiều nước khác vẫn chịu sức ép rất lớn trước sức cạnh tranh của hàng dệt may Trung Quốc, ấn Độ, Pakistan... trong khi đó, dù đã đàm phán khẩn trương chúng ta vẫn chưa thể khẳng định VN có thể gia nhập WTO vào năm 2005. Vì vậy, rất cần tính đến khả năng VN vẫn phải chịu áp đặt quota trong năm 2005. Khi xoá bỏ quota cạnh tranh sẽ gay gắt hơn, các nước nhập khẩu sẽ được tự do lựa chọn nơi nào có ngành dệt may cạnh tranh hơn, chọn doanh nghiệp nào có khả năng cạnh tranh mạnh hơn để nhập khẩu. Có dự báo cho rằng sau khi bỏ quota, giá bán các sản phẩm dệt may sẽ giảm 20% (chính xác đến đâu còn phải theo dõi, nhưng xu hướng giảm giá là điều chắc chắn. Một ví dụ cụ thể khi Hoa kỳ bỏ quota cho Trung Quốc 25 cat thì giá trung bình của các cat này giảm 48%, còn thị phần của Trung Quốc ở các cat đó tăng 9% năm 2001, lên 61% năm 2004) Đây là sức ép rất lớn đối với các nhà sản xuất dệt may. Với nước ta, hậu quả còn nghiêm trọng hơn, thách thức và sức ép còn lớn hơn. Bởi lẽ, ngoài thách thức và sức ép mà doanh nghiệp các nước phải đối đầu, chúng ta còn phải chịu thêm sức ép do việc tiếp tục bị áp đặt quota. Việc xuất khẩu theo quota làm tăng chi phí giao dịch của các doanh nghiệp xuất - nhập khẩu. Vì vậy, đòi hỏi phải tổ chức sản xuất và xuất khẩu sao cho có lợi nhất, sao cho có thể phát huy được tối đa sức mạnh không chỉ của một doanh nghiệp mà của cả ngành dệt may VN. Điều này liên quan đến cách thức phân bổ quota. Những thuận lợi mà các doanh nghiệp có được khi xoá bỏ quota: như trên đã phân tích khi bỏ chế độ quota, bản đồ xuất khẩu dệt may sẽ thay đổi, dòng thương mại dệt may sẽ chuyển sang các thị trường có sức cạnh tranh cao hơn, đến với các doanh nghiệp có khả năng đáp ứng tốt hơn về số lượng chất lượng, giá bán, thời gian giao hàng, chi phí giao dịch khi nhập khẩu thấp hơn ... Những khó khăn mà các doanh nghiệp VN sẽ gặp phải khi xoá bỏ hạn ngạch: năm 2005 khi Trung Quốc, ấn Độ, pakistan và nói chung 147 nước thành viên WTO được xuất khẩu không cần quota, cạnh tranh để xuất khẩu sẽ gay gắt hơn, giá xuất khẩu sẽ giảm, làm cho các doanh nghiệp nhỏ khó có khả năng giữ được thị trường là các thị trường quen thuộc trước đây. Tại thị trường EU, áp lực cạnh tranh của các nước có lợi thế về sản xuất hàng may mặc như Trung Quốc, ấn Độ cũng khiến VN chịu nhiều bất lợi. Thị trường trọng điểm của hàng dệt may Việt Nam trước thách thức xoá bỏ hạn ngạch dệt may. Thị trường EU là một thị trường trọng điểm đối với hàng may mặc xuất khẩu VN. Trong nhiều năm, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường này luôn đạt được những thành tựu đáng kể về giá trị và thị phần xuất khẩu. Nhất là sau khi VN và EU kí Hiệp định về các sản phẩm dệt may ngày 15/2/2003 và một sự kiện trọng đại khác là ngày 1/5/2004, EU đã kết nạp thêm 10 thành viên mới nâng tổng số thành viên trong EU lên 25 nước. Theo ước tính của Bộ thương mại, kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc VN sang thị trường EU có thể đạt gần 1 tỷ EURO trong năm 2004. Tuy nhiên, bên cạnh cơ hội đang mở ra cho các doanh nghiệp tiếp cận và mở rộng hoạt động kinh doanh ở thị trường EU thì hàng may mặc VN đang gặp khá nhiều khó khăn trong cạnh tranh. Khó khăn lớn nhất là từ ngày 1/1/2005 khi hạn ngạch dệt may được xoá bỏ giữa các nước thành viên của WTO thì hàng may mặc xuất khẩu của hàng dệt may VN phải cạnh tranh gay gắt hơn. Cũng từ ngày đó sẽ có khoảng 165 mã hàng dệt may các loại được xuất khẩu tự do vào thị trường EU mà không gặp phải một trở ngại nào. Các quốc gia sẽ đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng may mặc vào thị trường EU với những lợi thế riêng của mình. Trung Quốc là một đối thủ mạnh nhất trong xuất khẩu hàng may mặc của VN tại thị trường EU, sau đó là ấn Độ và một số nước khác ở Châu á. VN là trong những nước xuất khẩu hàng dệt may lớn trên thế giới. Tuy nhiên khi hội nhập hoàn toàn vào một thị trường dệt may phi hạn ngạch, doanh nghiệp VN sẽ gặp nhiều bất lợi. Một trong những bất lợi lớn nhất là doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nguyên phụ liệu nhập khẩu, tới trên 70%. Vấn đề lao động - một lợi thế chúng ta "tự hào" lâu nay cũng sẽ mất đi cùng với sự tiến bộ của kỹ thuật và chi phí nhân công sẽ tăng lên do nhu cầu đào tạo tay nghề cao. Về phía doanh nghiệp bất lợi lớn nhất là VN chưa phải là thành viên của WTO nên chắc chắn vẫn bị áp dụng hạn ngạch. Chính phủ đang nỗ lực đàm phán với EU để dỡ bỏ hạn ngạch cho hàng dệt may VN dù VN chưa vào WTO. Nếu đàm phán thành công hàng dệt may VN sẽ có lợi thế rất lớn ở Châu Âu. VN đã đàm phán xong với EU về việc gia nhập WTO và hiện đang đàm phán với Mỹ. Đây là hai đối tác quan trọng nhất. VN đang nỗ lực để gia nhập WTO vào năm 2005. Một hạn chế lớn nữa của doanh nghiệp dệt may VN là chưa xác định cụ thể chiến lược cạnh tranh phù hợp với khả năng. Hầu hết các doanh nghiệp VN hiện chủ yếu sản xuất theo phương thức gia công, ít có thương hiệu riêng cho mình để tạo ấn tượng tại các thị trường chính. Doanh nghiệp VN cũng phải quen với việc nghiên cứu thị trường, xu hướng mẫu mã một cách bài bản và nâng cao khả năng thiết kế. Các doanh nghiệp cũng cần quan tâm tới các rào cản phi thuế quan như chống bán phá giá, các quy định nghiêm ngặt về xuất xứ hàng hoá ... mà các nền kinh tế phát triển như EU, Hoa kỳ thường xuyên sử dụng. Rất đáng mừng là phần lớn doanh nghiệp dệt may VN đã ý thức được và có sự chuẩn bị tốt cho những rào cản này. Doanh nghiệp đã tiếp cận với các chuẩn mực quản lí quốc tế như chuẩn mực về trách nhiệm xã hội SA8000, nhiều doanh nghiệp đã được chứng nhận. Tất cả các doanh nghiệp cũng đã xây dựng công đoạn xử lí nước thải đạt yêu cầu theo chuẩn SA14000. Bên cạnh những thách thức rất lớn, VN không phải không có những lợi thế. Nhiều nhà nhập khẩu trên thế giới nhận định sản phẩm may VN có khả năng cạnh tranh không thua kém bất kỳ nước nào, thậm chí chất lượng còn nổi trội hơn Trung Quốc. Phần BA Giải pháp cho xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường EU trong xu hướng xoá bỏ hạn ngạch dệt may I. Về phía Nhà nước Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Nhà nước chính là chủ thể bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp khi tham gia vào hội nhập. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp dệt may nhà nước nên có sự quan tâm hơn về quyền lợi của các doanh nghiệp khi xuất khẩu sản phẩm của mình ra thị trường thế giới, nhất là quyền lợi về kinh tế. Bên cạnh đó, ở trong nước, Nhà nước cũng nên tạo điều kiện về môi trường pháp lý, chính trị, xã hội, kinh tế cho các doanh nghiệp này hoạt động một cách có hiệu quả nhất. Muốn vậy phải thực hiện nghiêm túc các giải pháp đồng bộ sau: Đảm bảo quyền lợi kinh tế trong và ngoài nước 1.1 Chính sách về kinh tế: Đó là sự can thiệp của Nhà nước vào việc phát triển kinh tế-xã hội theo những mục tiêu nhất định. Đối với ngành dệt may, mục tiêu chính là có chỗ đứng vững chắc trên trường quốc tế. Nhà nước tiếp tục hoàn thiện và sử dụng vốn một cách có hiệu quả nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp đổi mới công nghệ, tăng quy mô sản xuất, tạo ra ngày càng nhiều sản phẩm dệt may có chất lượng tốt, số lượng nhiều. Mở rộng và đa dạng hoá thị trường cung ứng vốn ví dụ như ngoài các nguồn vốn tự có do tiết kiệm của doanh nghiệp, từ tổ chức tín dụng…Nhà nước có thể phát triển mạnh hơn thị trường chứng khoán, cổ phiếu, trái phiếu…Để huy động vốn nhanh và dễ dàng hơn, Nhà nước phải hỗ trợ từ nguồn vốn ngân sách, vốn ODA đối với các dự án quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu, trồng bông, trồng dâu, nuôi tằm, đầu tư vào các công trình xử lý nước thải. Quy hoạch các cụm công nghiệp dệt, xây dựng cơ sở hạ tầng đối với các cụm công nghiệp mới, đào tạo và nghiên cứu, xây dựng các viện, các trường và trung tâm nghiên cứu chuyên ngành dệt may. Đối với các dự án đầu tư vào lĩnh vực sợi, dệt, in, nhuộm hoàn tất, nguyên liệu dệt, phụ liệu may và cơ khí dệt may cần phải được vay vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, trong đó: 50% vay với lãi suất bằng 50% mức lãi suất theo quy định hiện hành tại thời điểm rút vốn, 50% còn lại vay theo quy định của quỹ hỗ trợ. Đẩy mạnh cổ phần hoá các doanh nghiệp may mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư phát triển ngành may, nhất là ở các vùng đông dân cư, nhiều lao động. Xây dựng các chính sách khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu. Việc xuất khẩu vào thị trường phi hạn ngạch, xuất khẩu các mặt hàng không hạn ngạch sang các thị trường có hạn ngạch, xuất khẩu hàng sử dụng vải nguyên phụ liệu sản xuất trong nước…cần được hết sức chú ý và có chính sách hỗ trợ riêng biệt(Ngoài chính sách hỗ trợ chung của Nhà nước cho hàng xuất khẩu như hỗ trợ lãi suất, thưởng theo kim ngạch)…Cụ thể là xuất khẩu sang các thị trường phi hạn ngạch, xuất khẩu mặt hàng không hạn ngạch sang thị trường có hạn ngạch, mặt hàng mới, thị trường mới, tăng trưởng cao được hưởng chính sách hỗ trợ xuất khẩu theo quy định hiện hành (thưởng xuất khẩu, thưởng theo kim ngạch xuất khẩu). Ưu tiên hạn ngạch cho các mặt hàng xuất khẩu mà sản phẩm được sản xuất bằng nguyên liệu trong nước, hợp đồng ký trực tiếp với EU, Hoa Kỳ, xuất khẩu sản phẩm không hạn ngạch sang thị trường Hoa Kỳ. Nhà nước phải tập trung mọi khả năng và cơ hội đàm phán để được tăng hạn ngạch hoặc xoá bỏ hoàn toàn hạn ngạch đối với Việt Nam. Đồng thời tạo điều kiện khuyến khích tối đa các doanh nghiệp của EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản đầu tư vào ngành dệt may Việt Nam. Nhà nước tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xây dựng hình ảnh hàng dệt may Việt Nam, quảng cáo thương hiệu trên thị trường thế giới thông qua các hoạt động xúc tiến thương mại, hội chợ triển lãm, khảo sát thị trường, xây dựng trung tâm giới thiệu sản phẩm và đặc biệt là thông qua trang Web của thương vụ Việt Nam tại các nước là hết sức quan trọng. Nhà nước cần phải có chính sách thích hợp nhằm sử dụng có hiệu quả đội ngũ Việt kiều tại các quốc gia nhập khẩu hàng dệt may, thiết lập các kênh phân phối, điều tra, nghiên cứu thị trường và quảng bá sản phẩm rộng rãi trong công chúng. Việt kiều sẽ là cầu nối tuyệt vời đưa sản phẩm may mặc Việt Nam vào các hội chợ triển lãm, các trung tâm thương mại trên thế giới. Nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp tổ chức, hoạt động và quản lý theo hội, và Nhà nước nên có quy định, chính sách rõ ràng cho các hội này. Hội được hiểu là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức cùng ngành nghề, cùng chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên hoạt động thường xuyên nhằm bảo vệ quyền, lợi ích cho hội. Khuyến khích các doanh nghiệp dệt may nhỏ và yếu kém sát nhập lại nhằm mục đích nâng cao sức cạnh tranh, duy trì được hoạt động của mình, đảm bảo công việc cho người lao động, thu lợi nhiều hơn. 1.2. Đảm bảo chính sách thuế thích hợp Mục đích chính sách thuế của Nhà nước là quản lý hoạt động xuất, nhập khẩu, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, nâng cao hiệu quả của các hoạt động xuất khẩu, góp phần phát triển và bảo vệ sản xuất, góp phần tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Nhà nước cần phải xác định căn cứ tính thuế sao cho phù hợp, tuỳ thuộc vào số lượng từng mặt hàng ghi trong tờ khai hàng xuất khẩu. Giá tính thuế phải dựa trên cơ sở rõ ràng, đối với hàng xuất khẩu dệt may là giá bán tại cửa khẩu theo hợp đồng, tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đồng nước ngoài dùng để xác định giá tính thuế là tỷ giá mua vào do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm tính thuế. Chính phủ cần có biện pháp xử lý nghiêm các vi phạm thuế cho hợp lý, cán bộ thuế, cá nhân khác lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm dụng, tham ô tiền thuế xuất khẩu, phải có bồi thường cho Nhà nước toàn bộ số tiền đã chiếm dụng, tham ô, tuỳ theo mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp các doanh nghiệp dệt may không đồng ý với số thuế đã được thông báo chính thức thì có quyền khiếu nại lên cơ quan thu thuế trung ương để giải quyết, nếu vẫn không đồng ý thì có quyền khiếu nại lên Bộ trưởng Bộ tài chính, quyết định của Bộ trưởng Bộ tài chính là quyết định cuối cùng. 1.3 Chính sách về tỷ giá và lãi suất cho vay. Chính sách có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm dệt may ra thị trường thế giới sẽ thu về ngoại tệ. Nếu tỷ giá hối đoái thường xuyên biến động, thay đổi sẽ gây ảnh hưởng đến quyết định của doanh nghiệp, các chủ doanh nghiệp khó có thể ra được quyết định nhanh chóng và kịp thời do vậy buộc Nhà nước phải có chính sách cho phù hợp đảm bảo tính ổn định tương đối cho tỷ giá. Cần thông tin cho các doanh nghiệp thường xuyên để theo dõi và có phản ứng chính xác. Nghiên cứu thị trường dự báo xu hướng tỷ giá trong tương lai để có thể chủ động thay đổi chính sách sao cho phù hợp, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động. Về lãi suất cho vay, Nhà nước cần phải phối hợp với các ngân hàng để có chính sách về lãi suất cho vay phù hợp. Như giảm lãi suất cho vay, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư, mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng lượng xuất khẩu hàng dệt may trên thị trường thế giới. Tăng lượng vốn cho vay đối với các doanh nghiệp dệt may. Khi có sự thay đổi về lãi suất cần có sự thông báo rõ ràng trên các phương tiện thông tin đại chúng. Đơn giản hoá các thủ tục, giải quyết kịp thời nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp. Nghiên cứu kỹ tình hình, điều kiện cơ sở vật chất, điều kiện kinh doanh để đặt ra một mức lãi suất cho phù hợp… Với những chính sách về tỷ giá và lãi suất thích hợp, ngành dệt may Việt Nam sẽ có những bước đi vững chắc hơn trên con đường hội nhập kinh tế thế giới. 2. Tạo môi trường chính trị, xã hội và pháp lý thuận lợi Trong bất kỳ một xã hội nào, môi trường chính trị ổn định, các thiết chế chính trị và pháp luật vững chắc đóng vai trò là những điều kiện tiên quyết quan trọng đối với sự phát triển kinh tế vói chung và ngành dệt may nói riêng. Chúng ta cần tiếp tục đổi mới hơn nữa về chính trị - xã hội, văn hoá, tư tưởng cải cách nền hành chính quốc gia. Cần có sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, tăng cường vai trò của Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Một xã hội ổn định là điều kiện cần thiết đối với các doanh nghiệp dệt may trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Xây dựng khuôn khổ pháp lý …. Cho các doanh nghiệp dệt mayVN nâng cao khả năng cạnh tranh trong khu vực và quốc tế. Hoàn thiện và bảo đảm quyền tự chủ, quyền tự do liên doanh, liên kết trong các hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp dệt may. Quyền tự chủ ở đây là quyền quyết định kế hoạch kinh doanh, quyền tự do kí kết hợp đồng kinh tế, quyền tự chủ về tài chính, giá cả và quyền tự do liên doanh liên kết. Cải cách nền hành chính Quốc gia, đơn giản hoá thủ tục hành chính. Xoá bỏ nhiều loại giấy phép không cần thiết, sắp xếp lại một số cơ quan thuộc chính phủ cùng nhiều cơ quan tư vấn, phối hợp liên ngành. Thành lập cơ qnan nghiên cứu, phân tích nhằm nắm bắt thông tin nhanh chóng ở thị trường thế giới giúp doanh nghiệp dệt may kịp thời ra các quyết định chính xác. II. Về phía Bộ Thương Mại Bên cạnh vai trò của Nhà nước, Bộ Thương Mại cũng có một vai trò quan trọng đối với các doanh nghiệp dệt may. Vai trò đó được thể hiện rõ trong việc điều hành, quản lý, phân bổ hạn ngạch, trong xúc tiến thương mại, trong giải quyết các tranh chấp, vi phạm. Để hỗ trợ các doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Bộ thương mại còn thực hiện các giải pháp sau 1. Trong phân bổ hạn ngạch dệt may 1.1.Quản lý việc phân bổ hạn ngạch Trong quá trình quản lý phân bổ hạn ngạch, Bộ Thương Mại cần tăng cường chỉ đạo trực tiếp và có sự phối hợp giữa các đơn vị trong Bộ Thương Mại (Văn phòng, vụ XNK, vụ TMĐT…) với Bộ Công Nghiệp và Hiệp hội dệt may Việt Nam. Để đạt được hiệu quả cao, phát huy tối đa việc áp dụng công nghệ tin học trong giao nhận, xử lý công văn về hạn ngạch dệt may. Tăng cường tính công khai, minh bạch và kịp thời từ việc tiếp nhận đến xử lý công văn. Để có thế quản lý đạt hiệu quả Bộ Thương Mại cần: Thứ nhất: phải xác định căn cứ giao hạn ngạch rõ ràng, chính xác. Đối với hạn ngạch thành tích dành 80% nguồn hạn ngạch giao cho doanh nghiệp đã có thành tích xuất khẩu. Hạn ngạch thành tích nên giao thành 2 hoặc 3 đợt, nhằm đảm bảo chia nhỏ giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu đạt hiệu quả, tránh khê đọng hạn ngạch. Không nên giao hạn ngạch thành tích cho các doanh nghiệp mới…, chưa được kiểm chứng năng lực sản xuất. Và các thương nhân có kết luận nghi vấn trong đợt kiểm tra của hải quan. 20%hạn ngạch phát triển còn lại, nên chia ra nhiều loại để tiến hành phân bổ sao cho phù hợp với năng lực của mỗi doanh nghiệp xuất khẩu, bao gồm các loại sau: - Thưởng các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may sử dụng vải sản xuất trong nước, do Việt Nam vẫn chưa chủ động sản xuất được nguyên liệu, phụ liệu. Vì vậy, Bộ Thương mại nên khuyến khích tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất khẩu, tận dụng tối đa nguồn nguyên liệu trong nước. - Thưởng cho doanh nghiệp xuất khẩu các chủng loại hàng phi hạn ngạch. Thưởng cho các ….. vùng sâu, vùng xa, các doanh nghiệp đầu tư mới các dự án dệt, nhuộm lớn Thứ 2: Trong việc hoàn trả hạn ngạch, các doanh nghiệp không có khả năng thực hiện hạn ngạch được giao phải có văn bản hoàn trả Bộ Thương Mai, tránh khê đọng hạn ngạch. Đối với các doanh nghiệp không sử dụng hết hạn ngạch mà không trả lại Bộ sẽ bị phạt. Thứ 3: Khi tiến hành phân bổ hạn ngạch BTM cần phải thông báo công khai danh sách các doanh nghiệp được giao hạn ngạch trên trang web của Bộ Thương Mại để các doanh nghiệp đối chiếu, so sánh và giám sát. Để giúp cho việc quản lí có hiệu quả, Bộ Thương Mại nên lập danh sách, địa chỉ thư điện tử của các doanh nghiệp, triển khai gửi thư điện tử cho tất cả các thương nhân đăng kí và trả lời những thắc mắc qua thư điện tử. Qua đó, soạn thảo các câu hỏi thường gặp giúp các doanh nghiệp tìm hiểu về cơ chế , chính sách được rõ ràng và thuận tiện hơn. Bộ Thương Mại nâng cấp trang Web về dệt may, cho phép các doanh nghiệp thắc mắc dưới dạng thư điện tử từ trang web này. Bộ Thương Mại xây dựng cơ chế cần thiết cho việc thực hiện hạn ngạch như về chuyển đổi, vay, nhượng hạn ngạch. Tập trung xây dựng quy chế quản lí và ứng dụng công nghệ thông tin trong việc phân bổ và kiểm soát thực hiện cấp visa. Triển khai việc kiểm tra hoạt động và năng lực sản xuất của doanh nghiệp. 1.2 Giải quyết tranh chấp vi phạm trong phân bổ và thực hiện Trong qúa trình quản lí việc phân bổ và thực hiện hạn ngạch xuất khẩu hàng dệt may, đối với các doanh nghiệp nói chung, Bộ thương mại phải luôn đối xử công bằng và không phân biệt giữa các loại hình doanh nghiệp. Bất kỳ doanh nghiệp nào, dù là doanh nghiệp nhà nước hay công ty tư nhân, trách nhiệm hữu hạn, hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nếu vi phạm các quy định về phân bổ và thực hiện hạn ngạch dệt may đều bị xử lí theo quy định. 2. Trong xúc tiến thương mại Xúc tiến thương mại là Bộ thương mại tìm kiếm các cơ hội cho các doanh nghiệp dệt may, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ dàng chuyển các sản phẩm dệt may từ thị trường trong nước ra thị trường quốc tế và nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Để đạt hiệu quả cao, xúc tiến thương mại phải được thể hiện trong các chính sách của Bộ thương mại, nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế. Xúc tiến thương mại cần phải được thể hiện một cách linh hoạt và cụ thể. Bộ thương mại cần có hướng dẫn cho các doanh nghiệp xây dựng được mô hình quản lí kinh doanh trung

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc61516.DOC
Tài liệu liên quan