Đề tài Thực trạng và giải pháp nhăm kiểm soát suy thoái nguồn thuỷ sinh

MỤC LỤC

Trang

LỜI MỞ ĐẦU

PHẦN I. CƠ SỞ LÍ LUẬN 1

1. Khái niệm chung về thuỷ sinh. 1

2. Những nguyên nhân gây suy thoái nguồn thủy sinh. 1

2.1. Những ảnh hưởng từ tự nhiên đối với nguồn thuỷ sinh. 1

2.2. Những ảnh hưởng từ hoạt động của con người tới nguồn thuỷ sinh. 2

3. Thực trạng suy thoái thuỷ sinh 5

3.1. Trên thế giới 5

3.2. Tại Việt Nam 6

4. Yêu cầu phát triển bền vững nguồn thuỷ sinh: 14

PHẦN II: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT SUY THOÁI THỦY SINH 21

 

1. Những quy định về bảo vệ, tái tạo và phát triển giống loài thuỷ sinh: 19

1.1. Các quy định về bảo vệ môi trường sống của các loài thuỷ sinh. 19

1.2. Các quy định về khuyến khích đầu tư vào bảo vệ và phát triển giống loài thuỷ sinh. 19

2. Những quy định về công cụ, phương thức đánh bắt thuỷ sản nhằm bảo vệ nguồn thuỷ sinh: 23

3.Những quy định về thức ăn, thuốc và các loại hoá chất dùng trong nuôi trồng thuỷ sản có nguy cơ tác động đến nguồn thuỷ sinh: 26

3.1.Giới thiệu về thức ăn, thuốc, hoá chất dùng trong nuôi trồng thuỷ sản, và sự cần thiết của các quy định pháp luật: 26

3.2. Pháp luật cụ thể quy định về trách nhiệm của các chủ thể trong quá trình tác động vào môi trường thuỷ sinh. 27

4. Những quy định về khai thác thuỷ sản có nguy cơ gây hại đến nguồn thuỷ sinh: 30

4.1. Về Giấy phép khai thác thuỷ sản: 30

4.2. Quyền và nghĩa vụ của các tổ chức cá nhân trong quá trình khai thác thuỷ sản: 32

4.3. Danh sách 21 loại thủy sản bị cấm khai thác vô thời hạn: 33

5. Quy định về các cơ quan quản lý: 34

5.1. Chính phủ 34

5.2.Ủy ban nhân dân các cấp: 34

5.3 .Bộ tài nguyên và môi trường 35

5.4. Các bộ ngành khác. 35

PHẦN III: THỰC TRẠNG VỀ KIỂM SOÁT SUY THOÁI NGUỒN THUỶ SINH 36

1. Thực trạng pháp luật 36

1.1. Xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ nguồn lợi thủy sinh 36

2. Thực trạng áp dụng pháp luật 44

2. 1. Công tác thanh tra về bảo vệ môi trường: 44

2.2. Giám sát việc thực hiện pháp lệnh Bảo vệ nguồn lợi thủy sản 46

2.3. Xử lý vi phạm 47

2.4 Đế án bảo vệ loài thủy sinh 51

PHẦN IV: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT 53

1. Kiến nghị pháp luật để bảo vệ tái tạo và phát triển giống loài thủy sinh: 53

2. Kiến nghị về công cụ, phương thức đánh bắt thủy sản nhằm bảo vệ nguồn thủy sinh: 55

3. Kiến nghị về thức ăn, thuốc, hóa chất và các chế phẩm sinh học 56

4. Nâng cao và hoàn thiện pháp luật trong xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kiểm soát suy thoái nguồn thủy sinh: 59

4.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật quy định về chức năng của các chủ thể một cách rõ ràng: 59

5. Nâng cao ý thức của người dân về bảo vệ nguồn thủy sinh 69

KẾT LUẬN 71

HỆ THỐNG CÁC VĂN BẢN PHÁP LUẬT 72

TÀI LIỆU THAM KHẢO 74

 

 

doc77 trang | Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 3005 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp nhăm kiểm soát suy thoái nguồn thuỷ sinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o nghề, xây dựng hệ thống thông tin liên lạc, điều tra nguồn lợi, dự báo ngư trường, dịch vụ hậu cần cũng như tổ chức các hình thức sản xuất phù hợp để khuyến khích tổ chức cá nhân khai thác thuỷ sản ở các vùng biển phù hợp. Pháp luật cũng đã có một số quy định về vấn đề này như các chủ thể muốn tiến hành khai thác thuỷ sản thì phải xin phép… 4.1. Về Giấy phép khai thác thuỷ sản: Nhằm bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản một cách bền vững, “tổ chức cá nhân khai thác thuỷ sản phải có Giấy phép khai thác thuỷ sản” (Khoản 1-Điều 16- Luật Thuỷ sản 2003). Hoạt động cấp và thu hồi Giấy phép khai thác thuỷ sản mang tính pháp lý nhằm để nhà nước có thể theo dõi, quản lý và kiểm soát chặt chẽ toàn bộ quá trình khai thác thuỷ sản, hạn chế đến mức thấp nhất việc khai thác thuỷ sản nói riêng và nguồn thuỷ sinh nói chung một cách bừa bãi và trái pháp luật. Tuy nhiên, luật cũng quy định trường hợp cá nhân khai thác thuỷ sản bằng tàu cá có trọng tải dưới 0,5 tấn hoặc không sử dụng tàu cá thì không cần phải xin phép. Ngoài ra các trường hợp khác đều phải xin cấp Giấy phép khai thác thuỷ sản và sẽ được cấp khi có đủ các điều kiện sau: - Có đăng ký kinh doanh khai thác thuỷ sản. - Có tàu cá đã đăng ký, đăng kiểm. - Có ngư cụ, phương tiện khai thác phù hợp. - Thuyền trưởng, máy trưởng trên tàu cá phải có văn bằng, chứng chỉ phù hợp theo quy định của pháp luật. ( Theo Điều 17- Luật Thuỷ sản 2003) Giấy phép khai thác thuỷ sản cần phải được quy định đầy đủ về những nội dung như: nghề khai thác, ngư cụ khai thác; vùng, tuyến được phép khai thác; thời gian hoạt động khai thác; thời hạn của giấy phép và các nội dung cần thiết khác theo quy định của pháp luật. Nội dung của Giấy phép này đương nhiên phải phù hợp với những quy định của pháp luật môi trường về thời gian, phương tiện và công cụ đánh bắt nguồn thuỷ sinh. Có hai hoạt động tiến hành thường xuyên trong quá trình khai thác thuỷ sản là phải duy trì chế độ báo cáo khai thác thuỷ sản và phải ghi nhật ký khai thác thuỷ sản. Theo quy định tại Điều 19 Luật Thuỷ sản thì: sau khi được cấp Giấy phép khai thác thuỷ sản, các tổ chức cá nhân cần phải báo cáo khai thác thuỷ sản với cơ quan quản lý thuỷ sản ở địa phương nơi đăng ký tàu cá. Đối với các tàu cá mà chỉ huy tàu cần phải có bằng thuyền trưởng theo quy định của Bộ Thuỷ sản thì chính người thuyền trưởng này cần phải tổ chức thực hiện việc ghi nhật ký khai thác thuỷ sản. Quy định này nhằm đảm bảo sự quản lý chặt chẽ từ phía Nhà nước đối với các hoạt động khai thác thuỷ sản trên các vùng nước nhằm khai thác thuỷ sản bền vững. Giấy phép khai thác thuỷ sản có thể sẽ bị thu hồi khi: tổ chức cá nhân khai thác thuỷ sản: Không còn đủ các điều kiện cấp Giấy phép khai thác thuỷ sản. Vi phạm nghiêm trọng các quy định của Luật thuỷ sản về khai thác thuỷ sản hoặc đã bị xử lý vi phạm hành chính về hoạt động thuỷ sản ba lần trong thời hạn của Giấy phép khai thác thuỷ sản. Tẩy xoá, sửa chữa nội dung Giấy phép khai thác thuỷ sản Có hành vi vi phạm khác mà pháp luật quy định phải thu hồi giấy phép (Điều 18- Luật Thuỷ sản 2003) 4.2. Quyền và nghĩa vụ của các tổ chức cá nhân trong quá trình khai thác thuỷ sản: Quyền lợi của những chủ thể khai thác thuỷ sản được quy định rất cụ thể tại Điều 20 - Luật Thuỷ sản 2003: Khai thác thuỷ sản theo nội dung ghi trong Giấy phép khai thác thuỷ sản Được cơ quan chuyên môn thông báo kịp thời về tình hình diễn biến thời tiết, được thông báo về nguồn lợi thuỷ sản, thông tin về hoạt động thuỷ sản, thị trường thuỷ sản và hướng dẫn về kỹ thuật khai thác thuỷ sản => tạo cho các chủ thể tiến hành hoạt động thuỷ sản sự yên tâm về chuyên môn. Được Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp do thành quả lao động và kết quả đầu tư trong khai thác thuỷ sản => khiến cho các chủ thể yên tâm bỏ vốn, đầu tư công nghệ cũng như toàn bộ công sức trong quá trình khai thác thuỷ sản. Có các quyền khác theo quy định của pháp luật. Bên cạnh các quyền lợi cụ thể, các chủ thể còn phải thực hiện các nghĩa vụ trước Nhà nước trong quá trình tiến hành khai thác thuỷ sản. Ngoài việc thực hiện các quy định được ghi trong Giấy phép khai thác thuỷ sản; nộp thuế, phí, lệ phí theo quy định của pháp luật hay đánh dấu các ngư cụ đang được sử dụng tại ngư trường bằng dấu hiệu dễ nhận biết theo quy định của Bộ thuỷ sản, các tổ chức cá nhân phải tuân thủ sự kiểm tra, kiểm soát của các lực lượng, cơ quan có thẩm quyền cũng như phải tuân theo những quy định về quản lý vùng khai thác, bảo vệ trật tự, an ninh trên địa bàn khai thác. Việc phát hiện, tố giác, ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật về thuỷ sản cũng phải được các chủ thể này tuân thủ. Đặc biệt phải cứu nạn khi gặp người, tàu thuyền bị nạn và thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. 4.3. Danh sách 21 loại thủy sản bị cấm khai thác vô thời hạn: Theo Thông tư số 02 hướng dẫn thực hiện Nghị định 59 của Chính phủ về điều kiện sản xuất, kinh doanh một số ngành nghề thủy sản, do Bộ trưởng Tạ Quang Ngọc ký ban hành ngày 20/3/2006, 21 loại thủy sản bị cấm khai thác gồm: trai ngọc, cá cháy, cá chình mun, cá còm, cá anh vũ, cá tra dầu, cá cóc Tam Đảo, cá sấu hoa cà, cá sấu xiêm, cá heo, cá voi, cá ông sư, cá nàng tiên, cá hô, cá chìa vôi sông, vích và trứng, rùa da và trứng, đồi mồi dứa và trứng, đồi mồi và trứng, bộ san hô cứng, bộ san hô sừng, và bộ san hô đen. Kèm theo đó là danh sách 12 loại tôm, cá biển; 7 loại nhuyễn thể; 8 loại tôm, cá nước ngọt bị cấm khai thác có thời hạn trong năm. Bộ Thủy sản cũng quy định kích thước tối thiểu của các loài thủy sản kinh tế sống trong các vùng nước tự nhiên được phép khai thác. Trong đó, tỷ lệ cho phép các đối tượng nhỏ hơn kích thước quy định không được chiếm quá 15% sản lượng thủy sản khai thác (lấy tối thiểu 3 mẫu ngẫu nhiên để tính tỷ lệ bình quân). Bộ trưởng Bộ Thủy sản cũng ban hành quy định cấm phát triển các nghề kết hợp với ánh sáng hoạt động tại tuyến bờ và tuyến lộng; các nghề te, xiệp, xịch, đáy trong sông, đáy biển; tàu lắp máy có công suất dưới 90 sức ngựa làm nghề lưới kéo cá và tàu lắp máy dưới 30 sức ngựa làm các nghề khác. Việc làm này nhằm bảo vệ các loài thủy sản quý hiếm và các đối tượng khác mà trữ lượng bị suy giảm nghiêm trọng hoặc có nguy cơ tuyệt chủng. Khu vực cấm khai thác có thời hạn trong năm: - Hòn Mỹ - Hòn Miều (Quảng Ninh): Từ 15/4 đến 31/7 hàng năm - Quần đảo Cô Tô (Quảng Ninh): 15/2-15/6 - Cát Bà - Ba Lạt (Hải Phòng): 15/4-31/7 - Hòn Nẹ - Lạch Ghép (Thanh Hóa): 15/4-31/7 - Ven bờ vịnh Diễn Châu (Nghệ An): 1/3-30/4 - Ven bờ biển Bạc Liêu (Bạc Liêu): 1/4-30/6 - Ven bờ biển Cà Mau (Cà Mau): 1/4-30/6 - Ven bờ biển Kiên Giang (Kiên Giang): 1/4-30/6 5. Quy định về các cơ quan quản lý: 5.1. Chính phủ - Thống nhất quản lý nhà nước về kiểm soát suy thoái nguồn thủy sinh trên phạm vi cả nước. -Thi hành chính sách bảo vệ ,cải tạo ,tái sinh,và sử dụng hợp lý nguồn thủy sinh. -Quyết định chính sách cụ thể về bảo vệ ,cải thiện ,và giữ gìn môi trường thủy sinh,chỉ đạo tập trung giải quyết tình trạng suy thoái nguồn thủy sinh ở các khu vực trọng điểm,kiểm soát ô nhiễm,cung ứng và khắc phục sự cố môi trường. 5.2.Ủy ban nhân dân các cấp: -Thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kiểm soát suy thoái nguồn thủy sinh trong phạm vi địa phương. -Tổ chức bảo vệ môi trường thủy sinh. -Tổ chức thực hiện các tiêu chuẩn của pháp luật về tiêu chuẩn đo lường và chất lượng nguồn thủy sinh, kiểm tra chất lượng trên địa bàn huyện, ngăn chặn sản xuất và lưu hành hàng giả về thức ăn, thuốc và hóa chất trong nuôi trồng thủy sinh. 5.3 .Bộ tài nguyên và môi trường Bộ tài nguyên và môi trường là cơ quan chuyên môn cao nhất chịu trách nhiệm trước Chính phủ về kiểm soát suy thoái tài nguyên nước nuôi trồng thủy sản nói riêng và nguồn thủy sinh nói chung. 5.4. Các bộ ngành khác. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn và các bộ ngành khác có liên quan như Bộ công an, Bộ quốc phòng, Bộ văn hóa-thông tin…và các cơ quan khác chịu trách nhiệm phối hợp cùng Bộ thủy sản thực hiện chức năng chuyên môn về kiểm soát suy thoái nguồn thủy sinh. Ngoài ra, liên quan đến kiểm soát suy thoái nguồn thủy sinh, thực hiện chức năng thanh tra về bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, thú y đối với động vật và sản phẩm động vật thủy sản, bảo vệ môi trường sống của các loài thủy sản và về an toàn kỹ thuật các phương tiện, thiết bị nghề cá, đã phân cấp cho ngành thủy sản, bên cạnh đó còn có lực lượng Thanh tra bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Tổ chức này bao gồm: -Thanh tra bảo vệ nguồn lợi thủy sản trung ương, thuộc Cục bảo vệ nguồn lợi thủy sản. -Thanh tra bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thuộc Chi cục bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh hoặc thuộc Sở thủy sản, Sở nông-lâm-thủy sản. -Thanh tra bảo vệ nguồn lợi thủy sản trung ương và Thanh tra bảo vệ nguồn lợi thủy sản tỉnh được sử dụng con dấu riêng. PHẦN III: THỰC TRẠNG VỀ KIỂM SOÁT SUY THOÁI NGUỒN THUỶ SINH 1. Thực trạng pháp luật 1.1. Xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ nguồn lợi thủy sinh Mặc dù pháp luật đã quy định rất cụ thể và chặt chẽ nội dung về kiểm soát suy thoái nguồn thuỷ sinh, tuy nhiên trên thực tế vì lợi ích trước mắt mà nhiều cá nhân đã có những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ nguồn thuỷ sinh. Hậu quả của những hành vi này là làm cho nguồn thuỷ sinh ngày một bị cạn kiệt dẫn tới việc dần bị suy thoái. Để ngăn chặn và khắc phục nguy cơ suy thoái nguồn thuỷ sinh Nhà nước đã quy định xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ nguồn lợi thuỷ sinh. Trước tiên là quy định những hành vi được xem là vi phạm pháp luật về bảo vệ nguồn thuỷ sinh. Tiếp đó là những biện pháp xử lý đối với những hành vi vi phạm đó. *Những hành vi vi phạm pháp luật chủ yếu về bảo vệ nguồn thuỷ sinh Phá hoại môi trường sống của các loài thuỷ sinh - Các chủ thể có hành vi xả thải trái phép vào môi trường nước nơi sinh sống của các loài thuỷ sinh. - Các chủ thể tiến hành hoạt động thủy sản hoặc có các hoạt động khác ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống, di cư, sinh sản của các loài thủy sinh. - Các chủ thể khi xây dựng mới, thay đổi hoặc phá bỏ các công trình có liên quan đến môi trường sống, di cư, sinh sống của loai thủy sinh - Hành vi thải, để rò rỉ các chất độc hại có nồng độ vượt quá giới hạn quy định. - Hành vi phá rừng ngập mặn, rừng đầu nguồn, các rạn đá và san hô, các bãi thực vật ngầm và các sinh cảnh đặc biệt khác. b. Vi phạm về bảo vệ các loài thuỷ sinh Các chủ thể tiến hành khai thác thuỷ sản có kích thước nhỏ hơn kích thước cho phép, tại khu vực cấm hoặc trong thời gian cấm khai thác làm ảnh hưởng đến các giống loài thuỷ sinh. c. Khai thác trái phép Các chủ thể đặt các loại ngư cụ để khai thác thuỷ sản không được phép của các cơ quan có thẩm quyền, sử dụng lưới có kích thước mắt lưới nhỏ hơn quy định, sử dụng các công cụ huỷ diệt hàng loạt để khai thác, dùng chất độc hại, chất nổ, súng đạn, dòng điện làm tê liệt hoặc làm chết hàng loạt để khai thác thuỷ sản. d. Vi phạm về nuôi trồng và phòng ngừa dich bệnh cho thuỷ sinh Các chủ thể sử dụng các loại thức ăn, thuốc và hoá chất thuộc danh mục hạn chế sử dụng không theo quy định của pháp luật; không thực hiện các biện pháp phòng ngừa dịch bệnh bắt buộc theo quy định của các cơ quan có thẩm quyền; đổ, thải các loại thuốc, hoá chất hoặc thức ăn nuôi trồng thuỷ sinh quá hạn hoặc bị cấm sử dụng. e. Vi phạm về sản xuất ,bán các loại thức ăn,thuốc và hoá chất dùng trong nuôi trồng thuỷ sinh - Các chủ thể khi nhập khẩu thức ăn, nguyên liệu làm thức ăn nuôi trồng thủy sản; thuốc, hoá chất dùng trong nuôi trồng thủy sản thuộc danh mục hàng hoá nhập khẩu chuyên ngành thủy sản không tuân theo quy định của pháp luật về thú y, chất lượng hàng hoá, thương mại và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Trường hợp không thuộc danh mục hàng hoá nhập khẩu chuyên ngành thủy sản, trước khi nhập khẩu thương mại lần đầu không qua khảo nghiệm, kiểm nghiệm theo quy định của Bộ Thủy sản. - Nhà xưởng, kho chứa, trang thiết bị, dụng cụ chế biến, dụng cụ vệ sinh, hệ thống xử lý nước thải, chất thải rắn và khí thải, trang thiết bị kiểm tra chất lượng sản phẩm không bảo đảm đạt tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn cơ sở vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường theo quy định của pháp luật; - Các chủ thể sản xuất, kinh doanh thức ăn nuôi trồng thủy sản; thuốc, hoá chất dùng trong nuôi trồng thủy sản không có đủ điều kiện kinh doanh theo quy định của Chính phủ; không tuân theo các quy định của pháp luật về thú y, chất lượng hàng hoá, bảo vệ môi trường, nhãn hiệu hàng hoá và các quy định khác của pháp luật có liên quan. - Thuốc không nhãn mác, thức ăn chưa công bố chất lượng, chưa được phép lưu hành được bày bán tràn lan trên thị trường. f. Vi phạm các quy định về chế biến, vận chuyển hoặc đưa ra thị trường các loài thuỷ sinh trái phép. * Các hình thức trách nhiệm pháp lý đối với các hành vi vi phạm. Chủ thể thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật về kiểm soát suy thoái nguồn thuỷ sinh thông thường phải chịu hai loại trách nhiệm pháp lý cơ bản là trách nhiệm hành chính và trách nhiệm hình sự. -Trách nhiệm hành chính do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng đối với các chủ thể khi họ vi phạm hành chính liên quan đến việc kiểm soát suy thoái nguồn thuỷ sinh. Trách nhiệm hành chính sẽ được áp dụng cho các chủ thể vi phạm ngay khi chưa có hậu quả xảy ra, hoặc không phụ thuộc vào việc họ đã gây thiệt hại hay chưa. -Trách nhiệm hình sự là loại trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc nhất được áp dụng đối với các chủ thể khi họ phạm các tội danh được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999. -Ngoài ra các chủ thể có thể còn phải chịu trách nhiệm dân sự trong trường hợp có thiệt hại do hành vi của họ gây ra. - Trách nhiệm hành chính. Tại điều 7 thuộc Nghị định 121/2004/NĐ-CP đã quy định các hình thức xử phạt và biện pháp khắc phục hậu quả, các chủ thể sẽ phải chịu các hình thức như: cảnh cáo, phạt tiền,…Theo điều này mức phạt tiền cao nhất có thể được áp dụng đối với các hành vi vi phạm là 70.000.000 đồng. Ngoài ra, các chủ thể còn có thể phải chịu các biện pháp khác như bị tước quyền sử dụng Giấy phép có liên quan, bị tịch thu hàng hoá, vật phẩm gây ô nhiễm môi trường, buộc tiêu huỷ hàng hoá, vật phẩm gây ô nhiễm, buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường do hành vi vi phạm gây ra… Tại điều 2 của Nghị định này cũng quy định rõ về các đối tượng bị xử phạt, có thể là cá nhân tổ chức Việt Nam hoặc cá nhân tổ chức nước ngoài. Cụ thể như sau: Cá nhân, tổ chức Việt Nam có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đều bị xử phạt theo các quy định tại Nghị định này và các nghị định có liên quan; Cá nhân, tổ chức nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường trong phạm vi lãnh thổ, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều bị xử phạt như cá nhân, tổ chức Việt Nam theo các quy định tại Nghị định này và các nghị định có liên quan, trừ trường hợp các Điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có quy định khác; Cá nhân là người chưa thành niên có hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường thì bị xử phạt theo các quy định tại Điều 7 của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính. - Trách nhiệm hình sự Trong Bộ luật hình sự năm 1999 không có một tội danh riêng truy cứu đối với các chủ thể phạm tội liên quan đến kiểm soát suy thoái nguồn thuỷ sinh. Tại chương XVII quy định về Các tội pham về môi trường, có một số điều luật có thể truy cứu đối với các chủ thể này, đó là các tội: Tội gây ô nhiễm nguồn nước (điều 183) và Tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản (điều 188). * Thẩm quyền xử lý: Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực này được quy định tại điều 25,26,27 của Nghị định Chính phủ số 121/2004/NĐ-CP ngày 12-5-2004. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của thanh tra chuyên ngành về bảo vệ môi trường. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường của các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức thanh tra nhà nước chuyên ngành. Ngoài những người có thẩm quyền xử phạt quy định tại Điều 25, Điều 26 Nghị định này, những người có thẩm quyền xử phạt theo quy định của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính nếu phát hiện thấy các hành vi vi phạm hành chính quy định trong Nghị định này mà thuộc lĩnh vực và địa bàn quản lý của mình thì có quyền xử phạt nhưng phải thực hiện theo đúng quy định của Điều 42 của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính. *Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính: Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại Điều 28 của Nghị định Chính phủ số 121/2004/NĐ-CP ngày 12-5-2004. a. Ưu điểm + Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật và văn bản dưới luật nhằm ngăn ngừa giảm thiểu tình trạng suy thoái môi trường nói chung, trong đó bao gồm cả suy thoái nguồn thuỷ sinh: Luật môi trường 2005 Luật thuỷ sản 2003 - Nghị định của chính phủ Số 121/2004/NĐ-CP ngày 12 tháng 5 năm 2004 Quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. - Nghị định số: 154/2006/NĐ-CP, ngày 25/12/2006 về xử lý vi phạm hành chính thủy sản. - Tiếp theo đó, nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan trọng dưới luật quy định về đánh giá tác động môi trường, quản lý chất thải, kể cả chất thải nguy hại, xử lý sự cố môi trường, nhất là sự cố tràn dầu, bảo tồn đa dạng sinh học, các tiêu chuẩn môi trường ... cũng đã được ban hành, góp phần quan trọng đưa Luật Bảo vệ môi trường vào cuộc sống. Đặc biệt, mới đây, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 làm cơ sở định hướng cho công tác bảo vệ môi trường trong thời gian tới. Bên cạnh đó, còn kể đến nhiều văn bản quan trọng mới được ban hành thể hiện nỗ lực và quyết tâm của Chính phủ trong việc triển khai, thực thi các nội dung của Luật như: Kế hoạch xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, Kế hoạch hành động giai đoạn 2003 – 2010 về khắc phục hậu quả chất độc hoá học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở Việt Nam, v.v. + Bộ máy quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường đã được hình thành từ trung ương đến cấp tỉnh, thành phố. Cho đến nay, hệ thống cơ quan quản lý này đã tiếp tục được tăng cường với việc thành lập Bộ Tài nguyên và Môi trường và hệ thống các cơ quan chuyên môn đang được hình thành đến cấp xã, phường, thị trấn. Hệ thống cơ quan quản lý này đã có những đóng góp đáng kể cho công tác bảo vệ môi trường. b.Nhược điểm + Pháp luật về môi trường thủy sinh (MTTS) chưa đảm bảo tính khả thi cao. Một số quy định còn mang tính tuyên ngôn hoặc ở mức chung chung, thiếu cụ thể. Nhiều quy định thiếu tính định hướng hành vi, nhiều qui định chưa tính đến các yếu tố khách quan của đời sống kinh tế - xã hội. Các quy định về MTTS nhiều văn bản có giá trị pháp lý khác nhau, do nhiều cơ quan soạn thảo, đề cập đến một hoặc một vài khía cạnh của MTTS. Các qui định về bảo vệ nguồn gen, kiến thức bản địa, bảo hộ quyền của tổ chức, cá nhân lai tạo giống vật nuôi mới, bảo hộ sinh hoạt công nghiệp đối với tạo giống con mới... còn mờ nhạt. + Hệ thống pháp lý về bảo vệ môi trường giữa các ngành còn chồng chéo, bất cập Biển và vùng bờ biển nước ta là nơi tập trung các hoạt động kinh tế khác nhau và vẫn chủ yếu được quản lý theo ngành. Theo cách quản lý này, các ngành thường chú trọng nhiều hơn đến mục tiêu phát triển kinh tế, các mục tiêu xã hội và môi trường ít được ưu tiên, đồng thời chỉ chú ý đến lợi ích ngành mình ít chú ý đến lợi ích ngành khác. Kết quả là tính toàn vẹn và tính liên kết của các hệ thống tự nhiên vùng bờ nói trên bị chia cắt, mâu thuẫn lợi ích trong sử dụng tài nguyên vùng này ngày càng tăng, ảnh hưởng đến tính bền vững của các hoạt động phát triển ở đây. Liên quan đến quản lý biển và vùng bờ có nhiều cơ quan quản lý khác nhau, nhưng vẫn còn chồng chéo về chức năng và nhiệm vụ, trong khi có những mảng trống bị bỏ ngỏ không ai có trách nhiệm giải quyết. Thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý,cơ quan khoa học và các tổ chức phi chính phủ (NGO) trong việc sử dụng và quản lý tài nguyên biển, đặc biệt ở vùng ven bờ. Sự tham gia của cộng đồng địa phương vào tiến trình quản lý hoàn toàn thụ động và không thường xuyên, do còn thiếu các quy định về quyền hạn và trách nhiệm của họ một cách cụ thể. Cộng đồng địa phương vừa là người hưởng thụ tài nguyên, vừa là một trong những chủ thể quản lý, có kiến thức bản địa, hiểu được nguyện vọng và công việc của chính họ. Lôi cuốn cộng đồng địa phương vào quản lý tài nguyên biển chính là góp phần thực hiện tốt chủ trương của Chính phủ về tăng cường dân chủ ở cơ sở và nguyên tắc "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra". + Pháp luật còn thiếu nhiều quy định dẫn đến tình trạng hành vi vi phạm không bị xử lý. - Hệ thống văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường với khoảng 300 văn bản là khá nhiều, nhưng vẫn còn thiếu nhiều quy định quan trọng, cụ thể. Ví dụ như: thuế bảo vệ môi trường; kiểm toán môi trường; quy định chi tiết chế độ bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại môi trường; thiếu chính sách cụ thể khuyến khích ngành công nghiệp môi trường, xã hội hóa bảo vệ môi trường... Chưa có quy định đặc thù về nguyên tắc bồi thường trong lĩnh vực môi trường. - Bộ luật Hình sự với 15 tội danh trong 10 điều luật thuộc chương XVII về tội phạm môi trường, đến nay, cũng mới chỉ có 2 tội danh bị truy tố là tội hủy hoại rừng (Điều 189) và tội vi phạm các quy định về bảo vệ động vật hoang dã quý hiếm (Điều 190). Các tội danh còn lại của 10 điều luật về tội phạm môi trường trong đó có 2 tội về nguồn thủy sinh (điều 183-tội gây ô nhiễm nước; điều 188-tội hủy hoại nguồn lợi thuỷ sản) muốn truy tố phải có điều kiện trước đó là "đã bị xử phạt hành chính mà vẫn còn vi phạm, gây hậu quả nghiêm trọng "thì chưa đưa ra truy tố được vụ nào. Do đó, 8 tội danh môi trường trong Bộ luật Hình sự vô hình dung đã “lọt lưới” pháp luật. - Ngoài ra, ngay Luật Bảo vệ Môi trường cũng còn nhiều bất cập. Theo luật này, chỉ có 1 tội danh không phải xử lý hành chính mà được khởi tố ngay, nhưng 9 tội còn lại để có thể khởi tố cần phải có 2 điều kiện bắt buộc là đã xử lý hành chính cơ sở vi phạm nhưng tái phạm hoặc cơ sở để xảy ra hậu quả nghiêm trọng. Trong khi thế nào là để xảy ra hậu quả nghiêm trọng lại hết sức mơ hồ. Thực tế nhiều vụ việc gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, nhưng hậu quả ngay tức thì không thể nhìn thấy được mà kéo dài dai dẳng hàng chục năm sau mới bùng phát thành dịch bệnh. Bên cạnh đó, chế tài xử phạt còn quá nhẹ, chỉ là giải pháp tạm thời có tính chất cảnh cáo. Mức phạt cao nhất là 70 triệu đồng trong khi phải đầu tư thiết bị xử lý môi trường hàng tỷ đồng, với mức phạt này các doanh nghiệp sẵn sàng chịu phạt. - Một vấn đề khác nữa là tính ổn định văn bản pháp luật bảo vệ môi trường của Việt Nam không cao. Có văn bản mới ban hành chưa lâu đã phải sửa đổi, bổ sung  như Nghị định 80/2006/NĐ-CP ban hành năm 2006, qua 1 năm áp dụng đã phải sửa đổi, bổ sung. Ngày 28/02 vừa qua, Chính Phủ đã ban hành Nghị định số 21/2008/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung Nghị định 80. - Ngoài ra, các điều kiện đảm bảo công tác bảo vệ môi trường, bổ sung nguồn nhân lực và các trang thiết bị cần thiết, nhất là cho các tổ chức cấp cơ sở, nâng cao nhận thức của người dân và cán bộ quản lý không có trong quy định. 2. Thực trạng áp dụng pháp luật 2. 1. Công tác thanh tra về bảo vệ môi trường: Mục đích của hoạt động thanh tra là nhằm kiểm tra, đánh giá được thực trạng hoạt động của các tổ chức, doanh nghiệp trong các lĩnh vực trên, qua đó phát hiện các vi phạm và xử lý theo đúng quy định của pháp luật hiện hành. Trong những năm gần đây, các vụ vi phạm pháp luật về ô nhiễm môi trường đặc biệt là vi phạm dẫn đến suy thoái nguồn thủy sinh đang có xu hướng ngày càng tăng. Vì vậy, các cơ quan có thẩm quyền đã bắt tay vào việc thanh tra kiểm tra để phát hiện các hành vi vi phạm của các tổ chức, cá nhân. Trong những năm vừa qua nhờ sự hoạt động tích cực với tinh thần trách nhiệm cao các cơ quan thanh tra đã kịp thời phát hiện và ngăn chặn các vụ vi phạm về bảo vệ môi trường. * Để tiến hành kiểm soát suy thoái nguồn thuỷ sinh, Nhà nước ta đã bắt đầu từ việc tiến hành thanh tra các nguồn ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống của các loài thủy sinh. Ví dụ: thanh tra toàn diện Miwon. Sở tài nguyên môi trường Phú Thọ bắt đầu đợt thanh tra toàn diện về việc vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường của Công ty Miwon VN (Miwon). Trước đó, Phòng Cảnh sát Môi trường (PC36)- Công an tỉnh Phú Thọ đã tiến hành kiểm tra đột xuất Miwon (cuối tháng 9) và phát hiện doanh nghiệp này xả thẳng nước thải chưa qua xử lý ra sông Hồng. Ông Ngô Quang Thiệu, Trưởng Phòng PC36, xác định hệ thống xử lý nước thải của Miwon đã không hoạt động. Tuy nhiên, điều đáng nói là Trung tâm Quan trắc và Bảo vệ môi trường (Sở TN-MT Phú Thọ) suốt từ đầu năm 2007 đến nay

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng và giải pháp nhăm kiểm soát suy thoái nguồn thuỷ sinh.doc
Tài liệu liên quan