Đề tài Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Vinaconex

Lời mở đầu. .1

Chương I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ NÓI CHUNG VÀ HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU NÓI RIÊNG

I. Thương mại quốc tế. .2

1. Khái niệm về thương mại quốc tế. .2

2. TMQT - một sự cần thiết khách quan. .3

II. Hoạt động nhập khẩu và vai trò của hoạt động nhập khẩu với nền kinh tế quốc dân. .3

III. Nội dung của hoạt động nhập khẩu. .4

1. Nghiên cứu thị trường. .4

2. Lập phương án kinh doanh. .5

3. Ký kết hợp đồng. .5

4. Thực hiện hợp đồng. .7

5. Đánh giá hiệu quả thực hiện. .7

IV. Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu của doanh nghiệp. .8

1. Nhóm nhân tố bên trong. .8

2. Nhóm nhân tố bên ngoài. .9

Chương II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH NHẬP KHẨU CỦA TỔNG CÔNG TY VINACONEX TRONG THỜI GIAN QUA. .12

I. Khái quát về Tổng công ty VINACONEX. .12

1. Quá trình hình thành và phát triển của Tổng công ty. .12

2. Các lĩnh vực hoạt động chính của Tổng công ty VINACONEX. .15

II. Thực trạng hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá trong những năm qua.

1. Hoạt động nhập khẩu tại Tổng công ty VINACONEX. .15

Chương III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ TẠI TỔNG CÔNG TY VINACONEX. .22

1. Đối với Tổng công ty. .22

2. Kiến nghị với Nhà nước. .25

Kết luận. .28

Tài liệu tham khảo. .29

 

 

 

 

 

 

 

 

doc33 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1252 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Vinaconex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng xuất nhập khẩu của doanh nghiệp. Do đặc điểm riêng của kinh doanh TMQT là thường xuyên phải giao dịch với đối tác nước ngoài nên cán bộ ngoài giỏi nghiệp vụ kinh doanh còn phải giỏi ngoại ngữ. Ngoại ngữ kém sẽ gây khó khăn trong việc giao dịch, làm ảnh hưởng đến hiệu quả công việc. 1.3. Lợi thế bên trong của doanh nghiệp Một doanh nghiệp kinh doanh lâu năm, có uy tín trên thị trường là một điều kiện rất thuận lợi. Có uy tín với bạn hàng về việc thanh toán đủ, đúng hạn sẽ thuận lợi cho những hợp đồng sau này. Uy tín của doanh nghiệp là nhân tố quyết định khả năng cạnh tranh và vị thế của doanh nghiệp. Nếu có chức năng nhập khẩu uỷ thác thì khi doanh nghiệp có uy tín sẽ có nhiều các đơn vị trong nưóc uỷ thác việc nhập khẩu cho doanh nghiệp. Hàng hoá của doanh nghiệp dễ tiêu thụ hơn những doanh nghiệp làm ăn không đứng đắn, mất uy tín với khách hàng. Ngoài ra, một doanh nghiệp có kinh nghiệm trong nhập khẩu một sản phẩm nào đó sẽ lựa chọn được nguồn hàng tốt nhất phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng trong nước do am hiểu về thị trường, có những mối quan hệ rộng, lâu năm. 2. Nhóm nhân tố bên ngoài 2.1. Chính sách của Chính phủ Chính sách của Chính phủ có tác động không nhỏ đến hiệu quả của hoạt động nhập khẩu. Các chính sách tài chính tín dụng ưu đãi cho các nhà nhập khẩu sẽ tạo cho họ nắm được cơ hội kinh doanh và thu lợi nhuận. Chính sách bảo hộ nền sản xuất trong nước và khuyến khích thay thế hàng nhập khẩu đã làm giảm hiệu quả kinh doanh của các nhà nhập khẩu muốn thu lợi nhuận qua việc bán hàng nhập khẩu trong nước, nhưng mang lại hiệu quả kinh tế xã hội, tạo công ăn việc làm cho người lao động, hơn nữa khuyến khích các ngành sản xuất trong nước phát huy được khả năng của mình. 2.2. Thuế nhập khẩu Thuế nhập khẩu là một loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá hoặc tính theo phần trăm đối với tổng trị giá hàng hoá hay là kết ọp cả hai cách nói trên đối với hàng nhập khẩu. Theo đó người mua trong nước phải trả cho những hàng hoá nhập khẩu một khoản lớn hơn mức mà người xuất khẩu nước ngoaì nhận được. Thuế nhập khẩu nhằm bảo vệ và phát triển sản xuất, hướng dẫn tiêu dùng trong nước và góp phần tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Tuy nhiên thuế nhập khẩu làm cho giá bán trong nước của hàng nhập khẩu cao hơn mức giá nhập và chính người tiêu dùng trong nước phải chịu thuế này. Nếu thuế này quá cao sẽ đưa đến tình trạng giảm mức cầu của người tiêu dùng đối với hàng nhập và làm hạn chế mức nhập khẩu của doanh nghiệp. Từ cuối thập kỷ 80, nhiều quốc gia đã thay đổi chiến lược phát triển TMQT, đẩy mạnh xuất khẩu và nâng cao trình độ sản xuất trong nước, cạnh tranh với thị trường thế giới. Để thực hiện chiến lược đó, nhiều nước đã cắt giảm thuế quan để khuyến khích trao đổi. Ví dụ như Đài Loan đã giảm thuế hàng nhập khẩu từ 40% xuống 20%. Thái Lan giảm thuế xuất nhập khẩu máy móc thiết bị từ 30% xuống còn 5%. Việt Nam với tiến trình tham gia vào AFTA giảm mức thuế suất xuất nhập khẩu xuống còn 0 - 5% vào năm 2006. Còn hiện tại việc quy định mức thuế xuất nhập khẩu luôn là đề tài được quan tâm từ nhiều phía. 2.3. Hạn ngạch nhập khẩu Hạn ngạch nhập khẩu là quy định của Nhà nước nhằm hạn chế nhập khẩu về số lượng hoặc giá trị một số mặt hàng nhất định hoặc từ những thị trường nhất định trong một khoảng thời gian thường là một năm. Mục tiêu việc áp dụng biện pháp quản lý nhập khẩu bằng hạn ngạch của Nhà nước nhằm bảo hộ sản xuất trong nước, sử dụng có hiệu quả quỹ ngoại tệ, bảo đảm các cam kết của Chính phủ ta với nước ngoài. Hạn ngạch nhập khẩu đưa đến tình trạng hạn chế số lượng nhập khẩu đồng thời gây ảnh hưởng đến giá nội địa của hàng hoá. Hạn ngạch nhập khẩu có tác động tương đối giống với thuế nhập khẩu tức là do có hạn ngạch làm giá hàng nhập khẩu trong nước sẽ tăng lên. Nhưng hạn ngạch không làm tăng thu ngân sách. Đối với cả Chính phủ và các doanh nghiệp trong nước, việc cấp hạn ngạch nhập khẩu có lợi là xác định được khối lượng nhập khẩu biết trước. Hiện nay Nhà nước ta tiến hành đấu thầu hạn ngạch chứ không phân bổ trực tiếp cho các doanh nghiệp như trước đây nữa. Doanh nghiệp nào thắng thầu thì sẽ có quyền nhập khẩu mặt hàng đó với số lượng quy định.Tuy nhiên việc nhập khẩu nhiều hay ít khi doanh nghiệp đã thắng thầu phụ thuộc vào đinh ngạch (tổng hạn ngạch) mà Chính phủ đưa ra. 2.4. Tỷ giá hối đoái Các phương tiện thanh toán quốc tế được mua và bán trên thị trường hối đoái bằng tiền tệ quốc gia của một nước theo một giá cả nhất định. Vì vậy, giá cả của một đơn vị tiện tệ nước này thể hiện bằng một số đơn vị tiền tệ của nước kia được gọi là tỷ giá hối đoái (TGHĐ). Việc áp dụng loại TGHĐ nào, cao hay thấp đều ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động xuất nhập khẩu. Việc phá giá đồng nội tệ hay chính là TGHĐ cao lên sẽ có tác dụng khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu. Ngược lại, TGHĐ thấp sẽ hạn chế xuất khẩu và đẩy mạnh nhập khẩu. 2.5. Nhân tố cạnh tranh Cạnh tranh được xem xét theo hai góc độ: cạnh tranh trong nội bộ ngành sản xuất trong nước và cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài. Trong một thời kỳ, nếu có nhiều doanh nghiệp cùng nhập khẩu một loại mặt hàng và tiêu thụ ở thị trường nội địa hay nhập khẩu để sản xuất cùng một loại mặt hàng thì việc cạnh tranh có ảnh hưởng rất lớn tới giá cả, doanh số bán hàng, ảnh hưởng tới mức tiêu thụ và do đó ảnh hưởng tới kết quả và hiệu quả kinh doanh. Khi có nhiều nhà nhập khẩu cùng quan tâm đến một loại hàng hoá, giá nhập khẩu cũng tăng lên làm tăng các khoản chi phí, giảm hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp cùng một lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Các nhà sản xuất nước ngoài khi thâm nhập thị trương nội địa cũng trở thành một đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước. Họ cạnh tranh bằng giá cả, chất lượng, mẫu mã. uy tín,... khi thu hút được khách hàng về phía mình, các sản phẩm của nước ngoài làm giảm thị phần của sản phẩm được sản xuất trong nước từ nguyên liệu nhập khẩu, từ đó làm giảm doanh số bán hàng của các doanh nghiệp kinh doanh nhập khẩu. 2.6. Nhân tố văn hoá, thị hiếu của mỗi quốc gia Trên thế giới có nhiều nền văn hoá khác nhau và mỗi quốc gia có một phong tục tập quán khác nhau. Một quốc gia sẽ nhập khẩu hàng hoá để bổ sung, thay thế cho việc tiêu dùng hoặc nhập khẩu để tiếp tục sản xuất các loại hàng hoá phù hợp với nhu cầu và thị hiếu trong một giai đoạn nhất định của dân cư. Việc nghiên cứu văn hoá, thị hiếu sẽ quyết đinh kết quả bán hàng của các nhà nhập khẩu và quyết định đến hiệu quả hoạt động nhập khẩu. Chương II Thực trạng hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Tổng Công ty VINACONEX trong thời gian qua I. Khái quát về Tổng công ty VINACONEX 1. Quá trình hình thành và phát triển của Tổng công ty Được thành lập ngày 27 -9 -1988, VINACONEX khi đó là Công ty dịch vụ xây dựng và xuất khẩu lao động trực thuộc Bộ Xây dựng, có nhiệm vụ quản lý cán bộ, công nhân lao động ngành xây dựng làm việc ở các nước Bulgari, Nga, Tiệp khắc (cũ), irắc, tháng 8 - 1991 trở thành Tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam(VINACONEX). Tháng 11 - 1995, Tổng công ty VINACONEX được Chính phủ quyết định trở thành một Tổng công ty Nhà nước (Tổng công ty 90) với nhiều thành viên mới là các công ty trực thuộc Bộ xây dựng trước đây. Từ đó đến nay, nhiều công ty của các địa phương như Hải Phòng, Hải Dương, Huế, Hà Nội, Đắc Lắc, Quảng Nam, Đồng Tháp, Hà Tây, Bà Rịa - Vũng Tàu cũng đã gia nhập làm thành viên của Tổng công ty, cùng với nhiều công ty cổ phần thành lập mới, liên doanh tạo ra một đại gia đình VINACONEX. Trải qua những năm tháng xây dựng và trưởng thành, cho đến nay, VINACONEX đã trở thành Tổng công ty đa doanh hàng đầu của Bộ Xây dựng, với chức năng chính là: xây lắp, tư vấn đầu tư - thiết kế - khảo sát quy hoạch, kinh doanh xuất nhập khẩu thiết bị, vật tư phục vụ ngành xây dựng và các ngành kinh tế khác, sản xuất công nghiệp và vật liệu xây dựng, xuất khẩu chuyên gia và lao động ra nước ngoài, và đặc biệt, đầu tư vào các lĩnh vực của nền kinh tế đang là nhiệm vụ chiến lược quan trọng hàng đầu nhằm chuyển đổi cơ cấu và mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, xứng tầm với tập đoàn kinh tế mạnh. Cho đến nay, Tổng công ty đã có một đội ngũ lớn mạnh với hơn 26.000 cán bộ, kỹ sư, chuyên gia, công nhân viên, nhiều người trong số đó đã được đào tạo và làm việc ở nước ngoài, có kiến thức chuyên sâu và giàu kinh nghiệm, có thể đáp ứng được những yêu cầu đa dạng của khách hàng. 1.1. Về hoạt động kinh doanh xây lắp Hoạt động xây lắp đã trở thành lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của Tổng công ty kể từ năm 1995. VINACONEX đã thực hiện đa dạng hoá công tác xây lắp ở các lĩnh vực: dân dụng, công cộng, công nghiệp, giao thông, truyền tải điện, viễn thông, cấp thoát nước, xử lý môi trường, thuỷ lợi và thiết kế các loại công trình với kỹ thuật chuyên ngành khác nhau, qui mô lớn trong và ngoài nước... Ngày nay VINACONEX được biết đến như một trong những Tổng công ty hàng đầu về xây lắp ở Việt Nam, ngày càng khẳng định được vị thế, khả năng và uy tín của mình trong điều kiện thị trường cạnh tranh gay gắt. VINACONEX hàng năm đã thi công hàng nghìn công trình, hạng mục công trình, trong đó có nhiều công trình lớn, đòi hỏi kỹ, mỹ thuật cao, phức tạp thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau như: công nghiệp, dân dụng, giao thông thuỷ lợi, cấp, thoát nước, cơ sở hạ tầng kĩ thuật khác, điển hình như: các nhà máy xi - măng công suất lớn, nhà máy nhiệt điện, nhà máy phân đạm...; phát triển các đô thị mới có quy hoạch, kiến trúc đồng bộ theo tiêu chuẩn quốc tế, các cao ốc, cụm biệt thự ở các thành phố lớn, tổ hợp Đại sứ quán, Trung tâm báo chí, các khách sạn quốc tế cao cấp; Dự án cấp nước Hà nội, các nhà máy nước, các dự án thoát nước Hà nội, các công trình giao thông... ở nước ngoài, Tổng công ty đã thi công nhiều công trình như: Đại học Tổng hợp ORAN của Angieri, đường xe điện ngầm và nhà máy điện nguyên tử ở Bungari, các nhà máy, bệnh viện, trường học tại Liên - Xô (Cũ) và Liên bang Nga, Đại học quốc gia và bệnh viện ở thủ đô Viên - chăn (Lào). 1.2. Về xuất khẩu lao động Ngày nay VINACONEX được biết đến như là một doanh nghiệp hàng đầu của Việt Nam trong lĩnh vực xuất khẩu lao động. Chỉ trong vòng 10 năm gần đây, VINACONEX đã đưa trên 50.000 người đi làm việc ở trên 20 nước trên thế giới như các nước ở Trung Đông, Libya,Irắc, Kuwait, Bắc Phi, Nhật, Hàn Quốc, Singapore,... trong số đó bao gồm: kỹ sư, đội trưởng, công nhân có nghề, lao động phổ thông, thực tập sinh,... Uy tín của VINACONEX tại các thị trường nói trên ngày càng được nâng cao và do đó, ngày càng có nhiều hãng đến hợp tác với VINACONEX trong việc yêu cầu cung cấp nhân lực cho họ. Công tác tạo nguồn lao động phục vụ cho xuất khẩu của VINACONEX liên quan chặt chẽ với chiến lược đào tạo, định hướng theo yêu cầu của khách hàng. VINACONEX đã đầu tư mở rộng và nâng cấp hệ thống trường học, thiết bị phương tiện phục vụ đào tạo, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng về số lượng cũng như chất lượng, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. 1.3. Kinh doanh xuất nhập khẩu và đầu tư phát triển Kinh doanh xuất nhập khẩu cũng là một trong những lĩnh vực hoạt động chính của VINACONEX, với mạng lưới bán hàng rộng khắp thế giới, có uy tín và hiệu quả. Lĩnh vực xuất nhập khẩu của VINACONEX ngày càng được mở rộng, hoạt động và tăng trưởng của nó gắn chặt với hoạt động và sự tăng trưởng chung của các lĩnh vực kinh doanh khác của VINACONEX. Kim ngạch xuất nhập khẩu trung bình hàng năm của VINACONEX tăng xấp xỉ 20%. Đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực trọng điểm của nền kinh tế đang là chiến lược ưu tiên số một cho sự phát triển lâu dài của VINACONEX. Đồng thời, cùng với việc sắp xếp và đổi mới doanh nghiệp, sẽ tạo cơ sở nền tảng và hội đủ các yếu tố cho sự hình thành một tập đoàn đa doanh vững mạnh. VINACONEX sẽ đón đầu được các thành tựu khoa học công nghệ, khoa học quản lý tiên tiến của thời đại, khi mà kinh tế tri thức đã trở thành cốt yếu cho sự phát triển của kinh tế toàn cầu. Các lĩnh vực mà VINACONEX đang tập trung đầu tư là: phát triển đô thị, bất động sản, các công trình hạ tầng kỹ thuật, sản xuất công nghiệp và vật liệu xây dựng, thương mại, công nghệ cao, v.v... VINACONEX đã và đang hợp tác với các trường đại học trong nước và nước ngoài, các công ty quốc tế có uy tín trong lĩnh vực tư vấn thiết kế. Hiện nay, Tổng công ty là một đơn vị lớn mạnh, có nhiều các đơn vị thành viên bao gồm 42 công ty 100% vốn Nhà nước; 19 công ty cổ phần do Tổng công ty giữ cổ phần chi phối; 10 công ty có vốn góp của Tổng công ty trong đó có 2 công ty liên doanh là Công ty liên doanh VINATA VINACONEX (Việt Nam) - TAISEI (Nhật Bản) và Liên doanh VIKOWA VINACONEX (Việt Nam) - KOLON (Hàn Quốc); Tổng công ty có 7 văn phòng đại diện tại nước ngoài gồm các nước : Hàn Quốc, Lybia, Nga, Đài Loan, Malaysia, CH Séc, Nhật. 2. Các lĩnh vực hoạt động chính của Tổng công ty VINACONEX Xây lắp Tư vấn đầu tư, qui hoạch, khảo sát, thiết kế Xuất nhập khẩu: Máy móc, thiết bị, vật tư xây dựng, các loại hàng hoá khác... Xuất khẩu lao động Sản xuất công nghiệp và vật liệu xây dựng Khách sạn và du lịch Dịch vụ bảo hiểm, tài chính Đầu tư: Phát triển đô thị mới và bất động sản Trung tâm thương mại và dịch vụ tổng hợp Khu công nghiệp, hạ tầng kĩ thuật Đầu tư Sản xuất công nghiệp và vật liệu xây dựng. II/ Thực trạng hoạt động XNK hàng hoá trong những năm qua Với gần 40 năm hoạt động và phát triển, Tổng công ty VINACONEX ngày càng lớn mạnh. Đặc biệt từ khi được thành lập lại trên cơ sở tổ chức sắp xếp lại các đơn vị của Tổng công ty XNK xây dựng Việt Nam và một số đơn vị trực thuộc Bộ Xây dựng, hoạt động dưới hình thức Tổng công ty 90. Tổng công ty đã là một doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực xây dựng. *Bảng 1 : Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty(năm 2002 - 2004) Đơn vị : Tỉ đồng Năm Chỉ tiêu 2002 2003 2004 1. Tổng giá trị sản lượng 1767 1780 1948 - GT KD XNK hàng hoá 436 462 455 2. Tổng doanh thu 779 925 983 3. Nộp ngân sách 65 70 75 Nguồn : Trích báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch hàng năm (2002 - 2004) Qua bảng trên ta thấy, giá trị hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá có đóng góp rất lớn vào giá trị tổng sản lượng của Tổng công ty hàng năm. Cụ thể, năm 2002 đạt 436 tỉ đồng, chiếm 24,67% tổng giá trị sản lượng, năm 2003 đạt 462 tỉ đồng chiếm 25,96% tổng giá trị sản lượng,, năm 2004 đạt 455 tỉ đồng đạt 23,36% tổng giá trị sản lượng. Tổng doanh thu của công ty luôn tăng đều qua các năm. Có được kết quả như vậy một phần do hoạt động kinh doanh xuât nhập khẩu, nhưng chu yếu do hoạt động xây lắp. Giá trị sản lượng xây lắp cao, nhiều công trình quốc tế được thực hiện như : Xây dựng trường Đại học Đồng Độc, bệnh viện Sethairath tại Viên chăn - Lào... Các công trình lớn trong nườc như : Nhà máy xi măng Nghi Sơn, Trạm phân phối xi măng Hiệp Phước, công trình thuỷ lợi Tân chi, công trình cầu Bến Hồ bắc qua sông Đuống,... Tất cả các công trình lớn này đều mang lại lợi nhuận cho Tổng công ty. Tổng công ty luôn thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước, các khoản nộp ngân sách được hoàn thành hàng năm, tránh nợ đọng năm này qua năm khác. Để phục vụ nhu cầu trong nước, hoạt động xuất nhập khẩu của Tổng công ty đã tận dụng lợi thế của mình, hướng vào các mặt hàng chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng. Các mặt hàng nhập khẩu của Tổng công ty gồm: - Nhập khẩu máy móc thiết bị xây dựng. - Nhập khẩu nguyên vật liệu xây dựng. - Nhập khẩu hàng điện dân dụng. - Nhập khẩu xe máy. - Nhập khẩu một số mặt hàng khác Các mặt hàng xuất khẩu gồm : - Xi măng, gạch Granit (sang Lào) - Chất tẩy rửa (sang Nhật Bản) - Đá xẻ, đá Marble (sang Singapore) *Bảng 2 : Kim ngạch xuất nhập khẩu của Tổng công ty (năm 2002 - 2004) Đơn vị : USD Năm 2002 2003 2004 Kim ngạch NK 27.502.356 29.108.406 28.516.156 Kim ngạch XK 92.580 132.100 281.312 Tổng KN XNK 27.594.936 29.240.506 28.797.468 Nguồn: Trích báo cáo tổng kết năm (2002 - 2004) Qua bảng trên ta thấy, kim ngạch xuất nhập khẩu chủ yếu do hoạt động nhập khẩu mang lại, kim ngạch xuất khẩu chiếm tỉ trọng rất nhỏ. Tuy nhiên, Tổng công ty đang chú trọng vào hoạt động xuất khẩu, tăng cường xuất khẩu các loại nguyên vật liệu xây dựng sang Lào, Singapore và Nhật Bản nên kim ngạch xuất khẩu đã dần đạt được chuyển biến qua từng năm. Kim ngạch nhập khẩu năm nào cũng chiếm trên 90% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu. 1. Hoạt động nhập khẩu tại Tổng công ty VINACONEX Nhập khẩu hàng hoá là một mảng khá lớn trong số các hoạt động sản xuất kinh doanh của Tổng công ty VINACONEX. Vì vậy để xem xét đánh giá một cách chi tiết, tỉ mỉ thật khó. Ta chỉ đi phân tích một số mặt chính sau : 1.1. Về thị trường nhập khẩu Trong kinh doanh nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng, việc tìm kiếm thị trường là vấn đề rất quan trọng, đảm bảo cho hoạt động kinh doanh được diễn ra liên tục, đạt hiệu quả cao. Kinh doanh vượt ra khỏi phạm vi biên giới quốc gia thì việc nghiên cứu thị trường càng trở nên phức tạp. Trong những năm vừa qua, Tổng công ty VINACONEX đã luôn cố gắng trong việc tìm kiếm và lựa chọn thị trường. Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt từ khi gia nhập khối ASEAN thì mối quan hệ của Tổng công ty với các thị trường ngày càng mở rộng và gắn bó, thuận lợi hơn trong hoạt động kinh doanh. Nhìn chung thị trường nhập khẩu của Tổng công ty có xu hướng tăng qua các năm (khoảng 10% một năm). Những thị trường thường xuyên như Nhật bản, Hàn Quốc,... có giá trị kim ngạch lớn và chiếm tỉ trọng ngày càng cao. Cùng một loại hàng hoá như nhau nhưng Tổng công ty đã có xu hướng nhập ở nhiều nước khác nhau với chất lượng và giá cả khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng trong nước. Hiện nay Tổng công ty có quan hệ bạn hàng với hơn 13 nước trên thế giới, mỗi nước đều phát huy thế mạnh riêng với từng mặt hàng nhập khẩu. Thị trường Hàn Quốc và Nhật Bản vẫn là thị trường nhập khẩu chính của Tổng công ty trong những năm qua. Ta hãy đi phân tích kim ngạch nhập khẩu của hai thị trường này : *Bảng 3 : Kim ngạch nhập khẩu theo thị trường (2002 - 2004) Năm 2002 2003 2004 Chỉ tiêu Thị Trường Kim Ngạch (USD) Tỉ Trọng (%) Kim Ngạch (USD) Tỉ Trọng (%) Kim Ngạch (USD) Tỉ Trọng (%) Nhật Bản 12.053.113 42,83 13.651.431 46,89 14.036.042 49,22 Hàn Quốc 1.468.904 5,34 5.473.341 18,8 10.620.364 37,24 Các thị trường khác 13.980.339 51,83 9.983.634 34,31 3.859.750 13,54 Tổng 27.502.356 100 29.108.406 100 28.516.156 100 Nguồn : Trích báo cáo tổng kết hàng XNK hàng năm(2002 -2004) Qua bảng trên ta thấy, kim ngạch nhập khẩu từ thị trường Nhật Bản chiếm đa số qua các năm. Năm 2002, kim ngạch nhập khẩu từ thị trường Nhật Bản là 12.053.113 USD chiếm 42,83% trong tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2002. Sang năm 2003, kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này là 13.651.431 USD chiếm 46,89% tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2003 và tăng 4,06% so với năm 2002. Năm 2004, thị trường Nhật bản vẫn được khai thác nguồn hàng cho nên giá trị kim ngạch nhập khẩu vẫn đạt ở mức cao là 14.036.042 USD chiếm 49,22% tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2004 và tăng 2,33% so năm 2003, tăng 6,39% so năm 2002. Thị trường Nhật bản cung cấp chủ yếu các loại máy móc thiết bị và nguyên vật liệu xây dựng. Trong tương lai thị trường Nhật Bản vẫn là thị trường truyền thống của tổng công ty, khai thác các chủng loại mặt hàng như : thiết bị thi công, thang máy, cẩu tháp. thép xây dựng,... Đối với thị trường Hàn Quốc kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này vẫn tiếp tục tăng qua mấy năm gần đây. Năm 2002, thị trường này chỉ chiếm tỉ trọng là 5,34% với giá trị kim ngạch nhập khẩu là 1.468.904 USD. Nhưng đến năm 2003, tỉ trọng tăng vọt lên chiếm 18,8% với kim ngạch nhập khẩu là 5.473.341 USD, giá trị kim ngạch tăng 352% so năm 2002. Đến năm 2004 kim ngạch nhập khẩu đạt 10.620.364 USD chiếm 37,24% tỉ trọng kim ngạch cả năm. Mặc dù tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu năm 2004 so với 2003 thấp hơn 2003 so với 2002 nhưng tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu vẫn rất nhanh. 1.2 Về mặt hàng nhập khẩu Mặt hàng nhập khẩu của Tổng công ty chiếm phần lớn là máy móc thiết bị xây dựng và nguyên vật liệu xây dựng. Máy móc thiết bị xây dựng thường là những dây chuyền sản xuất, những máy móc có giá trị lớn nhưng lại nhập với số lượng nhỏ nên kim ngạch nhập khẩu của mặt hàng máy móc thiết bị thường nhỏ hơn nguyên vật liệu. Những chủng loại mặt hàng thuộc nguyên vật liệu thường có giá trị thấp hơn nhưng lại được nhập với số lượng lớn nên mặt hàng nguyên vật liệu vẫn chiếm tỉ trọng cao hơn. *Bảng 4 : Kim ngạch nhập khẩu theo mặt hàng (2002 - 2004) Năm 2002 2003 2004 Chỉ tiêu Mặt hàng Kim Ngạch (USD) Tỉ Trọng (%) Kim Ngạch (USD) Tỉ Trọng (%) Kim Ngạch (USD) Tỉ Trọng (%) Máy móc thiết bị 16.365.271 59,51 15.397.075 52,89 8.314.301 29,12 Nguyên vật liệu 9.770.372 35,53 12.126.124 41,66 18.520.334 64,95 Các mặt hàng khác 1.366.713 4,96 1.585.207 5,45 1.681.521 5,93 Tổng 27.502.356 100 29.108.406 100 28.516.156 100 Nguồn : Trích báo cáo tổng kết hàng XNK hàng năm(2002 -2004) Cụ thể, năm 2002 giá trị kim ngạch nhập khẩu của mặt hàng máy móc thiết bị là 16.365.271 USD chiếm tỉ trọng 59,51%. Nhưng năm 2003 kim ngạch nhập khẩu của mặt hàng này chỉ còn 15.397.075 USD chiếm 52,89%. Và năm 2004 kim ngạch nhập khẩu là 8.314.301 USD chiếm 29,12% kim ngạch nhập khẩu cả năm và giảm 23,77% so năm 2003. Kim ngạch nhập khẩu hàng nguyên vật liệu xây dựng luôn tăng lên theo các năm. Kim ngạch năm 2002 là 9.770.372 USD chiếm 35,53% , năm 2003 là 12.126.124 USD chiếm 41,66% . Do nhu cầu xây dựng cao nên nhu cầu về nguyên vật liệu xây dựng lớn, kim ngạch nhập khẩu nguyên vật liệu xây dựng năm 2004 là 18.520.334 USD chiếm 64,95% cả năm. Bên cạnh hai mặt hàng có giá trị kim ngạch nhập khẩu cao ở trên thì hàng điện dân dụng và hàng xe máy, và các mặt hàng khác có giá trị nhập khẩu nhỏ. Nói chung, hoạt động kinh doanh nhập khẩu của Tổng công ty trong những năm qua tuy gặp nhiều khó khăn nhưng với sự phấn đấu nỗ lực hết mình của Ban lãnh đạo và toàn thể công nhân viên Tổng công ty nên đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ. Góp phần tạo ra sự tăng trưởng không ngừng của nền kinh tế Việt Nam đang trong thời kỳ hội nhập nền kinh tế thế giới. Chương III Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động nhập khẩu hàng hoá tại Tổng Công ty VINACONEX Kinh doanh xuất nhập khẩu là hoạt động phổ biến của mọi nền kinh tế. Đối với Việt Nam, hoạt động này chỉ thực sự khởi sắc từ khi chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà Nước. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu đã đem lại những lợi ích to lớn cho nền kinh tế. Họ là những người trung gian là cầu nối giữa người mua trong nước và người bán nước ngoài. Để làm tốt nhiệm vụ này cần có sự hoàn thiện và phối hợp giữa các chính sách với nhau. 1. Đối với Tổng Công ty 1.1 Hoàn thiện nghiệp vụ xuất nhập khẩu Đối với một doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu thì đội ngũ cán bộ phải có đủ trình độ kinh doanh ký kết thực hiện hợp đồng ngoại thương, đó không những là điều kiện giúp doanh nghiệp đứng vững trên thị trường mà còn là yêu cầu tối thiểu để doanh nghiệp được cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Đối với Tổng Công ty VINACONEX điều kiện trên là bình thường bởi vì 100% cán bộ của Công ty cổ phần kinh doanh VINACONEX đều có trình độ Đại học và được đào tạo theo đúng nghiệp vụ chuyên môn. Tuy nhiên, điều quan trọng chính là việc vận dụng những kiến thức nghiệp vụ ngoại thương vào thực tế hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Việc làm thủ tục xuất nhập khẩu là một việc thường xuyên lặp đi lặp lại, chính vì vậy nên phân công cho một bộ phận chuyên về việc lo thủ tục giấy tờ như thế họ sẽ có điều kiện quen với công việc, với các cơ quan chức năng và sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Bộ phận lo thủ tục giấy tờ cần thường xuyên trau dồi nghiệp vụ ngoại thương, kịp thời nắm bắt những văn bản chính sách mới của Chính phủ có liên quan đến hợp đồng xuất nhập khẩu. 1.2 Tăng cường kêt hợp các phương thức nhập khẩu Phương thức nhập khẩu ở Tổng Công ty chưa đa dạng, chủ yếu là nhập tự doanh và uỷ thác. Để tăng kim ngạch nhập khẩu Tổng Công ty nên kết hợp nhiều phương thức khác nhau đặc biệt là phương thức nhập khẩu liên doanh nhằm tận dụng vốn góp của các bên liên doanh để không bỏ lỡ cơ hội nhất là các hợp đồng lớn trong điều kiện Tổng Công ty đang thiếu vốn lưu động. Hoặc sử dụng phương thức nhập khẩu hàng đổi hàng để vừa xuất được hàng trong nước ra nước ngoài vừa nhập được hàng mình cần để thu lãi kép. Kim ngạch cả xuất khẩu và nhập khẩu đều tăng lên. Việc đẩy mạnh các phương thức nhập khẩu sẽ tạo cho Tổng Công ty khai thác tốt nguồn hàng đồng thời tạo ra sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước với Tổng Công ty ngày càng được củng cố và phát triển vững mạnh. 1.3 Thành lập phòng chức năng Marketing của Tổng Công ty Sự vận động của cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp tham gia phải có sự nhanh nhạy trong mọi hoạt động kinh doanh của mình. Tổng Công ty VINACONEX thiếu hẳn một bộ phận chức năng chuyên phụ trách về Marketing. Những vấn đề về thị trường đều do phòng kinh doanh xuất nhập khẩu đảm nhiệm. Điều này tỏ ra khôn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0556.doc
Tài liệu liên quan