Lời nói đầu 1
Phần I: Lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài 3
1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài 3
2. Xu hướng vận động của đầu tư trực tiếp nước ngoài hiện nay 4
3. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài 8
3.1. Đối với nước đi đầu tư 8
3.1.1. Tác động tích cực 8
3.1.2. Tác động tiêu cực 10
3.2. Đối với nước tiếp nhận đầu tư (nước sở tại) 10
3.2.1. Tác động tích cực 10
3.2.2. Tác động tiêu cực 11
4. Quan điểm của Việt Nam về tác động của FDI tới sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước 12
Phần II: Thực trạng của hoạt động FDI tại Việt Nam 16
I. Tình hình hoạt động FDI thời gian qua 16
1. Tình hình chung 16
1.1. Giai đoạn 1988 - 2001 16
1.2. Năm 2002 và 8 tháng đầu năm 2003 21
1.2.1. Năm 2002 21
1.2.2. Tám tháng đầu năm 2003 23
2. Một số đối tác có tiềm lực lớn của Việt Nam trong hoạt động FDI những năm qua 25
2.1. Đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN vào Việt Nam thời kỳ trước năm 1996 25
2.2. Đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam 27
2.3. Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam 27
3. Tình hình triển khai thực hiện dự án FDI 28
50 trang |
Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 720 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
năm 1997 là 120.75%/108.15%, năm 1998 là 116.88%/105.8%). Đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu dựa vào các lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, chiếm tỷ trọng cao cả về số dự án lẫn vốn đầu tư, tiếp đến là lĩnh vực khách sạn du lịch và các dịch vụ, ngành nông- lâm nghiệp có số dự án lớn nhưng tổng vốn đầu tư lại thấp hơn. Hiện nay, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 100% về khai thác dầu thô, sản xuất ôtô, máy giặt, tủ lạnh, điều hoà nhiệt, thiết bị văn phòng, máy tínhNgoài ra, còn chiếm khoảng 60% sản lượng thép cán, 33% về sản xuất máy móc thiết bị điện tửvà trong công nghiệp nhẹ cũng chiếm tỷ trọng khá cao. Đầu tư nước ngoài đã tạo nên nhiều ngành nghề sản phẩm mới góp phần làm tăng đáng kể năng lực các ngành công nghiệp Việt Nam. Các dự án FDI còn có tác dụng lan toả ảnh hưởng, thúc đẩy cạnh tranh, hình thành các xí nghiệp vệ tinh để tăng thêm giá trị của sản phẩm từ thị trường trong nước. Nhờ đợc trang bị công nghệ mới, kỹ thuật kinh nghiệm quản lý tiên tiến nên sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp đã nâng lên đang kể.
Thứ ba, FDI đóng góp một phần quan trọng vào tổng GDP, tạo nguồn thu ngân sách lớn cho đất nước.
Doanh nghiệp FDI đóng góp vào GDP ở mức 2% năm 1992, 7.7% năm 1996 và 9% năm 1998. Tuy phần lớn doanh nghiệp FDI đang trong thời kỳ hưởng ưu đãi về thuế, nhưng nguồn ngân sách từ khu vực này liên tục gia tăng ( năm 1994 là 128 triệu USD, năm 1995 là 195 triệu USD, năm 1996 là 263 triệu USD, năm 1997 là 340 triệu USD và năm 1998 là 370 triệu USD) chiếm khoảng 6-7% tổng thu thuế và phí của ngân sách nhà nước. Hiện nay đầu tư nước ngoài đóng góp trên 13% GDP, chiếm trên 18% tổng vốn đầu tư xã hội, trên 23% kim ngạch xuất khẩu (không kể dầu khí) đạt trên 35% giá trị sản xuất công nghiệp và khoảng 7% thu ngân sách cả nước.
Thứ tư, các doanh nghiệp FDI đã góp phần tạo ra một khối lượng lớn chỗ làm việc trực tiếp và gián tiếp, tham gia phát triển nguồn nhân lực, đem lại phương thức quản lý kinh doanh mới, tạo động lực cạnh tranh, thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước hoàn thiện năng lực sản xuất của mình để nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới.
Tính đến nay, các doanh nghiệp FDI đã tạo việc làm cho khoảng 33 vạn lao động với thu nhập bình quân 70 USD/người/tháng, ngoài ra còn tạo hàng vạn việc làm gián tiếp. Như vậy, số lao động làm việc trong các doanh nghiệp FDI và các bộ phận liên quan bằng khoảng 39% tổng số lao động bình quân hàng năm trong khu vực Nhà nước. Trong số lao động này có khoảng 6000 cán bộ quản lý và 2500 cán bộ kỹ thuật.
Thứ năm, đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần mở rộng quy mô thị trường xuất khẩu
Việc tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài hướng về xuất khẩu đã tạo thuận lợi cho việc tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế, nâng cao năng lực xuất khẩu của Việt Nam, xuất khẩu của khu vực đầu tư nước ngoài thời kỳ 1996-2000 đạt trên 16 tỷ USD, chiếm 23% kim ngạch cả nước.
Thứ sáu, tiếp thu công nghệ mới và học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến, góp phần phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt đợc thì đầu tư trực tiếp nước ngoài trong giai đoạn này còn một số hạn chế sau:
Cơ cấu vốn đầu tư nhìn chung còn bất hợp lí so với định hướng phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Thực tế hoạt động FDI trong những năm qua cho thấy vốn đầu tư vào Việt Nam chủ yếu tập trung vào những ngành dễ thu lợi nhuận, thời gian thu hồi vốn ngắn nh: ngành da công may mặc, giày dép, xe máy, điện tử dân dụng, còn các ngành thuộc lĩnh vực nông- lâm- thuỷ sản và dịch vụ có giá trị lớn nh giao thông vận tải, bu chính- viễn thông, ngân hàng, lĩnh vực công nghệ cao chiếm tỷ lệ rất thấp cả về số dự án và vốn đầu tư.
Một số dự án hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ kéo dài dẫn đến tình trạng phá sản, công nhân bị sa thải. Từ năm 1998 đến năm 2001 có xu hướng nhiều liên doanh đã phải chuyển sang hình thức 100% vốn nước ngoài để cải thiện hoạt động sản xuất kinh doanh. Một số liên doanh do vốn đầu tư của Việt Nam chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng vốn đầu tư (trung bình khoảng 30% vốn pháp định, bằng khoảng 10% tổng vốn đầu tư, chủ yếu góp bằng giá trị sử dụng đất), cộng với những yếu kém về trình độ chuyên môn, quản lý nên nhiều dự án bị các chủ đầu tư nước ngoài thao túng, tự động tăng giá thiết bị nguyên liệu đầu vào, thực hiện chuyển giá trong nội bộ công ty. Nhiều công nghệ lạc hậu quá cũ, gây ô nhiễm môi trường.
Mặt khác, đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu là do các công ty xuyên quốc gia chi phối, điều này làm cho nền kinh tế nếu không phát triển nhanh, bền vững sẽ dần phụ thuộc về vốn kỹ thuật, thị trường và mạng lới tiêu thụ phân phối của nó. Thông qua sự chi phối về kinh tế, các công ty xuyên quốc gia có khả năng ảnh hưởng đến tình hình kinh tế- xã hội tăng xu hướng phân hoá giàu nghèo trong xã hội.
1.2. Năm 2002 và 8 tháng đầu năm 2003
1.2.1. Năm 2002
Năm 2002 là một năm ảm đạm trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam. Trong năm, cả nước có 715 dự án đầu tư đợc cấp giấy phép với tổng số vốn đầu tư đăng ký gần 1432 triệu USD. So với năm 2001 thì số dự án đợc cấp giấy phép tăng 52% nhưng số vốn đầu tư đăng ký lại chỉ bằng 58.1%. Tính chung, cả số vốn đầu tư cấp mới và điều chỉnh bổ sung thêm thì cả năm 2002 cũng chỉ đạt khoảng 2351 triệu USD, giảm 23% so với năm 2001.
Cơ cấu vốn đầu tư năm 2002 vẫn tập trung vào các ngành chủ yếu nh công nghiệp, sản xuất vật chất và xuất khẩu. Cụ thể là ngành công nghiệp có 510 dự án với tổng số vốn đầu t là 997 triệu USD, ngành xây dựng có 36 dự án với tổng số vốn là 95 triệu USD, ngành thuỷ sản có 16 dự án với số vốn là 20 triệu USD. Trong khi đó các lĩnh vực như nông- lâm nghiệp, tài chính- ngân hàng, văn hóa, y tế giáo dục vẫn cha thu hút đợc nhiều vốn đầu tư (lĩnh vực tài chính ngân hàng chỉ có một dự án với tổng vốn là 5 triệu USD). Riêng các lĩnh vực khách sạn du lịch đã có 20 dự án với tổng số vốn lên tới 140 triệu USD. Các địa phơng nhận đợc nhiều dự án đầu t năm 2002 có thể kể là: Đồng Nai (96 dự án với số vốn đầu t là 279 triệu USD), Bình Dương (139 dự án với số vốn là 258 triệu USD), thành phố Hồ Chí Minh (213 dự án, số vốn là 256 triệu USD), Hà Nội (54 dự án với số vồn là 128 triệu USD). Thống kê cho thấy đầu tư nước ngoài vào Việt Nam vẫn tập trung vào các thành phố lớn, thuận lợi giao thông, cơ sở hạ tầng và điều kiện sản xuất .
Các quốc gia Đông á vẫn chiếm tỷ trọng lớn vốn đầu tư vào Việt Nam: Đài Loan (188 dự án với 286 triệu USD), Hàn Quốc (147 dự án với 269 triệu USD), Hồng Kông (55 dự án với 141 triệu USD), tiếp sau là Hoa Kỳ (31 dự án với 137 triệu USD). Đứng đầu vực Đông Nam á đầu t vào Việt Nam là Malaixia (26 dự án với 94 triệu USD) kế tiếp là Thái Lan (14 dự án với 94 triệu USD). Có một điều lưu ý là cac nước lớn của châu Âu cha có nhiều dự án đầu tư vào Việt Nam trong năm 2002.
Mặt khác, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI đạt 4.5 tỷ USD, chiếm 25% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và tốc độ gia tăng kim ngạch xuất khẩu của khu vực này là 23% so với năm 2001 (kim ngạch bình quân của cả nước tăng 12.6%). Đặc biệt, nhiều doanh nghiệp FDI mở rộng xuất khẩu sang thị trường mới với nhiều mặt hàng xuất khẩu mới.
Tuy vậy, tốc độ thu hút FDI năm 2002 không đạt đợc kế hoạch dự kiến và thấp hơn so với các nước trong khu vực, đặc biệt so với Trung Quốc. Mặt khác, số dự án đợc cấp giấy phép tạm dừng hoặc chưa triển khai còn chiếm đến 23% tổng dự án đầu tư và gần 20% tổng số vốn đăng ký. Nhiều nhà đầu tư nước ngoài cha thực sự yên tâm và tin tưởng vào môi trường đầu tư của Việt Nam vì một số cơ chế chính sách thay đổi không có lợi cho các nhà đầu tư, trong đó có chính sách thuế. Môi trường đầu tư của Việt Nam đợc cải thiện đáng kể nhưng tính cạnh tranh lại thấp hơn so với các nước trong khu vực như: chi phí dịch vụ còn cao, vẫn tồn tại cơ chế hai giá, hạ tầng cơ sở chậm cải thiện, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, một vài loại thuế vẫn còn cao hơn các nước.
1.2.2. 8 tháng đầu năm 2003.
Các thống kê cho thấy, 8 tháng đầu năm cả nước đã có 385 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép với tổng số vốn đăng ký 1.059,1 triệu USD, tuy giảm 6.8% về số dự án nhưng đã tăng 37.3% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước.
Quy mô FDI trong 8 tháng đầu năm 2003 tăng trưởng khá là nhờ mức vốn đầu tư đăng ký bình quân 1 dự án đã cao hơn cùng kỳ năm 2002 (2.751 nghìn USD so với 1867 nghìn USD). Đó là chưa kể cũng trong 8 tháng đầu năm nay đã có 243 lợt dự án được điều chỉnh tăng vốn với số vốn 554 triệu USD (tăng 8%) đa tổng số vốn đăng ký mới và tăng vốn lên 1.623,1 triệu USD , tăng 25.6% so với 8 tháng đầu năm 2002. Đó là tốc độ tăng khá cao, góp phần quan trọng để có thể hoàn thành và hoàn thành vượt mức các mục tiêu đề ra cho năm 2003 là tỷ lệ vốn đầu tư phát triển so với GDP đạt 35%, tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp đạt 14-14.5%, tăng trưởng GDP đạt 7-7.5%. Theo đối tác, trong 8 tháng đầu năm đã có 31 nước và vùng lãnh thổ đăng ký đầu tư vào Việt Nam. Có 13 nước và vùng lãnh thổ đạt trên 10 triệu USD, trong đó có 4 đối tác đạt trên 100 triệu USD là Đài Loan, Quần đảo Virgin thuộc Anh, Hàn Quốc, Australia.
Theo ngành kinh tế, vốn FDI đăng ký nh sau: Khu vực nông- lâm nghiệp thuỷ sản có 42 dự án, với 172.7 triệu USD bình quân 1,164 triệu USD /1dự án, trong đó nông- lâm nghiệp 30 dự án , 56, 6 triệu USD bình quân 1,887 triệu USD/1 dự án, thuỷ sản có 12 dự án bình quân 2,854 triệu USD/1 dự án và tổng vốn là 34.2 triệu USD. Khu vực công nghiệp xây dựng có 277 dự án với 697.7 triệu USD , bình quân 1 dự án 2,591 triệu USD, trong đó công nghiệp 256 dự án với 634.3 triệu USD bình quân 2,478 triệu USD/1 dự án, xây dựng 21 dự án với 63.4 triệu USD và bình quân 3.020 triệu USD/ 1 dự án. Khu vực dịch vụ có 66 dự án với số vốn 270.5 triệu USD và bình quân 4.099 triệu USD /1 dự án.
Như vậy, lượng vốn FDI chủ yếu đầu tư vào công nghiệp xây dựng (65.9%), tiếp đến là dịch vụ (chiếm 25.5%), còn khu vực nông- lâm- thuỷ sản vẫn thấp (chỉ có 8.6%).
Theo địa bàn thì đứng đầu là thành phố Hồ Chí Minh với 206.1 triệu USD, tiếp đến là Bà Rịa- Vũng Tàu với 147.1 triệu USD, Bình Dương 146.6 triệu USD, thứ năm là Hải Phòng với 91.6 triêu USD, tiếp theo là Hà Nội 63.9 triệu USDNhư vậy, vốn FDI vẫn tập trung vào các tỉnh thuộc vùng động lực phía Nam, tiếp đến là vùng động lực phía Bắc.
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, với lợi thế về vốn, thiết bị kỹ thuật công nghệ, trình độ quản lý, tiêu thụ đã trở thành bộ phận quan trọng và đóng góp tích cực cho tăng trởng kinh tế nước ta.
Tỷ trọng GDP của khu vực này đã tăng lên 2 lần, từ 6.3 năm 1995 lên 13.91% năm 2002 và có khả năng vợt 14% trong năm 2003, khu vực này cùng với khu vực ngoài quốc doanh ở trong nước đã chiếm 62% GDP. Trong quá trình sản xuất toàn ngành công nghiệp tính theo giá so sánh khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cũng đã tăng nhanh từ 25% trong năm 1995 lên 37% trong 8 tháng đầu năm 2003, vợt lên đứng thứ nhất, cao hơn tỷ trọng 36.6% khu vực quốc doanh ở một số địa bàn. Tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài hiện đã chiếm 50% bằng tỷ trọng của khu vực kinh tế trong nước. Đáng lưu ý là trong 8 tháng đầu năm 2003 trong khi khu vực kinh tế trong nước nhập siêu lớn lên đến 3.882 triệu USD, bằng 58.3% kim ngạch xuất khẩu thì khu vực có vốn đầu tư nước ngoài lại xuất siêu 967 triệu USD bằng 17% kim ngạch xuất khẩu. Đồng thời khu vực này cũng đã thu hút thêm khoảng 40 000 lao động, đa tổng số lao động đang trực tiếp làm việc trong khu vực này lên 640 000 người. Thu ngân sách trong 8 tháng đầu năm từ dầu thô đã đạt 85.8% dự toán cả năm và tăng 20.7% so với cùng kỳ năm 2002, thu từ doanh nghiệp có vốn đầu t nước ngoài cũng đạt 69.7% và tăng 13.1% thuộc loại tương đối cao so với tổng thu ngân sách và một số khoản thu khác .
2.Một số đối tác có tiềm lực lớn của Việt Nam trong hoạt động FDI trong thời gian qua.
2.1.Đầu tư trực tiếp của các nước ASEAN vào Việt Nam thời kỳ trước năm 1996.
Các nước ASEAN tuy xuất hiện muộn hơn trên thị trường đầu tư ở Việt Nam nhưng đã có những bước tiến khá dài về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Từ một số ít dự án mang tính chất thăm dò thị trường đầu tiên của Thái Lan, Xingapo, Philippin, Inđônêxia trong những năm đầu thập kỷ 90 tính đến hết năm 1995, 4 nước ASEAN gồm Thái Lan, Xingapo, Inđônêxia, Maliaxia đã có tới 229 dự án với số vốn đăng ký 3.038 tỷ USD. Trong đó Xingapo xếp thứ tư trong tổng số vốn FDI tại Việt Nam, Malaixia xếp thứ 7, Thái Lan xếp thứ 14 và Inđônêxia xếp thứ 17 trong tổng vốn FDI tại Việt Nam. Đầu tư của ASEAN vào Việt Nam thời kỳ này là sự thực hiện chuyển dịch các ngành sản xuất dùng nhiều lao động sang Việt Nam. Quy mô dự án đầu tư còn khiêm tốn, tập trung vào các ngành công nghiệp chế biến nông- lâm- thuỷ sản, chưa có những dự án đầu tư vốn lớn, kỹ thuật công nghệ cao.
Thời kỳ từ năm 1996 đến nay
Do mới chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN mở cửa hội nhập kinh tế và tham gia AFTA, FDI của ASEAN tại Việt Nam đã đạt được một bước chuyển biến tích cực. Theo số liệu thống kê từ năm 1996 đến tháng 6/1997 tốc độ thu hút FDI đã tăng lên nhanh chóng. Tổng số dự án đầu tư của ASEAN đã tăng lên 328 dự án với tổng vốn cam kết lên tới 7.815 triệu USD, hơn 2 lần so với thời kỳ trước 1/1/1996. Tổng mức đầu tư của toàn ASEAN đã chiếm tỷ trọng gần 30% tổng mức đầu t của tất cả các quốc gia và lãnh thổ đầu t vào Việt Nam. Ba quốc gia gồm Xngapo, Malaixia và Thái Lan chiểm giữ các vị trí lần lượt thứ 1, thứ 7 và thứ 8. Nhưng từ cuối năm 1997 trở đi do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ ở khu vực Châu á làm cho dòng chảy FDI vào Việt Nam giảm mạnh, và những năm 1998, 1998, 2000 do tiếp tục bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng nên đầu tư của ASEAN vào Việt Nam có giảm sút. Nếu như đến hết năm 1999 số dự án của ASEAN là 409 chiếm 18.5% tổng số dự án với 7.381,8 triệu USD chiếm 23.4% tổng vốn FDI tại Việt Nam thì đến năm 1999 số dự án của ASEAN là 495 chiếm 17.6% tổng số dự án FDI tại Việt Nam với số vốn đăng ký là 8622.1 triệu USD, chiếm 23.2% . Đến hết năm 2001 toàn ASEAN chỉ có 883 dự án, chiếm 21.7% tổng vốn FDI tại Việt Nam. Như vậy, lượng FDI vào Việt Nam thời gian qua liên tục giảm sút và cho đến nay mới có dấu hiệu phục hồi.
Nhìn chung, FDI của AESAN ở Việt Nam sau cam kết AFTA đã được triển khai và mang lại hiệu quả kinh tế khá cao, doanh thu đạt lớn, mang lại nhiều việc làm cho người lao động và các dự án của ASEAN có mặt ở nhiều lĩnh vực, mặc dù bắt đầu xuất hiện một số dự án có quy mô lớn nhưng nhìn tổng thể chủ yếu vẫn là các dự án có quy mô vừa và nhỏ. Hiện nay,sự thiếu vốn và trình độ công nghệ còn thấp đang là những hạn chế lớn của các nước ASEAN khi phải trực diện với các đối thủ cạnh tranh đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam có trình độ phát triển cao hơn như Nhật Bản, EU, NicsSố liệu bảng 3 chỉ tính riêng năm 2001 đã thể hiện rõ điều này.
Bảng 3: 10 Nhà đầu tư trực tiếp dẫn đầu năm 2001
Nhà đầu tư
Số dự án
Số vốn đăng ký
(triệu USD)
Tổng số
502
2.503,0
1.Hà Lan
2.Đài Loan
3.Pháp
4.Singapo
5.Nhật Bản
6.Hàn Quốc
7.Hoa Kỳ
8.Hồng Kông
9.CHND Trung Hoa
10.BV. Islands
4
144
10
22
40
79
24
19
45
29
573,8
467,3
407,2
217,2
163,0
114,1
113,2
67,2
61,2
59,5
Nguồn: Tổng cục thống kê, niêm giám thống kê 2001
Mặc dù, thực trạng trên nhưng ASEAN là một khu vực kinh tế năng động, có tiềm năng lớn, do đó chúng ta cần có chính sách hợp lí để thu hút FDI từ khu vực này.
2.2. Đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Việt Nam
Với hàng trăm công ty đa quốc gia quy mô lớn, hoạt động trên nhiều lĩnh vực, Mỹ là chủ đầu tư của nhiều nước. Đặc biệt, đối với các nước đang phát triển ở khu vực châu á- Thái Bình Dương, nhất là các nước Nics, ASEAN. Tuy nhiên, đầu tư của Mỹ thời gian qua còn ít, chưa tương xứng với tiềm năng kinh tế của một cường quốc thế giới.
So với các đối tác khác, đầu tư của Mỹ vào Việt Nam là tương đối muộn hơn. Năm 1991 Mỹ mới bắt đầu đầu tư một dự án có số vốn ít ỏi là trên 2 triệu USD, nhưng đến năm 1999 tổng số vốn đầu tư của Mỹ vào Việt Nam đạt con số 1.376 triệu USD nằm trong 89 dự án. Đầu tư của Mỹ đặc biệt tăng nhanh trong các năm 1994, 1995 sau khi Mỹ xoá bỏ lệnh cấm vận cho Việt Nam và tuyên bố bình thờng hoá quan hệ hai nước. Hai năm 1996, 1997 đầu tư của Mỹ vào Việt Nam có dấu hiệu chững lại do cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ trong khu vực. Song bước sang năm 2000 đầu tư của Mỹ vào Việt Nam đã giảm hẳn. Mỹ đầu t nhiều nhất vào các ngành nghề chế biến thực phẩm, giải khát, xe hơi, hoá mỹ phẩmCác dự án của Mỹ đầu tư vào Việt Nam đa số chỉ là các dự án nhỏ, quy mô một dự án thấp hơn cả mức bình quân chung của tất cả các đối tác. Mặc dù, bức tranh về đầu tư trực tiếp của Mỹ thời gian qua không mấy sáng sủa, song cùng với sự nỗ lực sửa đổi bổ sung Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam ngày càng thông thoáng hơn và hiệp định thơng mại Việt- Mỹ đã đợc ký kết và sau khi có hiệu lực sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư Mỹ vào làm ăn ở Việt Nam. Chúng ta cần có các biện pháp thích hợp nhằm thu hút nguồn FDI dồi dào từ Mỹ trong thời gian tới.
2.3.Đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam
Nhật Bản là một cờng quốc kinh tế thế giới, là một quốc gia có trình độ khoa học kỹ thuật phát triển, có tiềm lực lớn về kinh tế. Đây cũng là nguồn cung cấp FDI lớn cho thế giới. FDI của Nhật Bản đóng vai trò quan trọng đối với các nước châu á và đặc biệt là các nước ASEAN nhưng đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam còn rất thấp, đứng cuối bảng trong các nước ASEAN, chỉ trên Campuchia, Mianma. Trong năm 2001 Nhật Bản đứng thứ 5 về vốn FDI tại Việt Nam. Đồng thời Nhật Bản cũng là bạn hàng thương mại lớn nhất của Việt Nam và là nước cung cấp ODA lớn nhất cho Việt Nam.
3.Tình hình triển khai thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
Tình hình triển khai các dự án FDI tại Việt Nam đang gặp không ít khó khăn trở ngại làm nhiều dự án bị giải thể trước thời hạn với số vốn FDI giải thể ngày càng lớn, đã làm nản lòng nhiều nhà đầu tư. Tình hình cụ thể nh sau:
Kể từ khi luật đầu t nước ngoài được ban hành, đến hết ngày 31/12/200 đã có 3256 dự án FDI đợc cấp giấy phép đầu tư với số vốn đăng ký đạt 38.6 tỷ USD, trong đó có 2628 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đầu tư đăng ký đạt trên 36.6 tỷ USD (9 tháng đầu năm 2001, số vốn đầu tư thực hiện đạt 1.6 tỷ USD, số dự án mới được cấp giấy phép là 336 dự án với số vốn đăng ký hơn 1.9 tỷ USD). 833 dự án đang trong giai đoạn xây dựng cơ bản với số vốn 11.594 triệu USD1.292 dự án đã sản xuất kinh doanh với số vốn 18.763 triệu USD, 503 dự án đang làm thủ tục hành chính với số vốn 5.985 triệu USD, 88 dự án tạm ngừng triển khai với số vốn 5.763 triệu USD, 634 dự án giải thể với số vốn 8.168 triệu USD. Qua số liệu trên cho thấy, tốc độ tăng của các dự án và vốn đầu tư cấp mới qua các giai đoạn là trên 20%,trong khi số dự án và vốn đầu tứ còn hiệu lực chỉ tăng có 7-8%. Cụ thể so với giai đoạn 1991-1995 thì giai đoạn 1996-2000 số dự án giải thể tăng 166% và số vốn đầu tư giải thể cao hơn rất nhiều so với tốc độ tăng của dự án đã đi vào sản xuất kinh doanh. Các số liệu trên cũng cho thấy thực trạng không mấy khả quan về tình hình triển khai các dự án FDI tại Việt Nam số dự án FDI giải thể trong giai đoạn 1996- 2000 đã tăng gấp 3.5 lần so với giai đoạn trước, cho thấy môi trường đầu tư ở Việt Nam đang xấu đi rất nhanh mặc dù Chính phủ đã có nhiều cố gắng tìm ra nguyên nhân cản trở các nhà đầu tư triển khai thực hiện các dự án FDI. Có tới 23-24% số dự án và số vốn đầu tư giải thể trong tổng số dự án và vốn đầu tư đang còn hiệu lực là một tỷ lệ khá cao. Các dự án trong khối bất động sản và trong khu công nghiệp gặp nhiều khó khăn hơn trong triển khai thực hiện so với các dự án thuộc khối sản xuất và các dự án ngoài khu công nghiệp.
Tình hình thực hiện vốn đầu tư: Do nguồn vốn trong nước còn hạn chế nên những năm gần đây Chính phủ đã chủ trương ưu tiên dành nguồn vốn tín dụng cho các dự án trong nước, còn các dự án nước ngoài chủ yếu vay từ nước ngoài hoặc vay từ công ty mẹ của bên nước ngoài.Trong tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, tỷ trọng vốn nước ngoài đang chiếm phần lớn (89%) trong tổng số vốn hoạt động và ngày càng có xu hướng tăng lên trong khi đó tỷ trọng vốn của Việt Nam đã thấp lại có xu hướng giảm xuống đáng kể.
Tình hình rút giấy phép đầu tư, giải thể dự án trước thời hạn. Tính đến hết năm 2000 đã có 634 dự án giải thể trước thời hạn với số vốn đăng ký là 8.505 tỷ USD. Trong đó giai đoạn 19988-1990 có 6 dự án giải thể, giai đoạn 1991-1995 có 236 dự án giải thể, giai đoạn 1996-2000 có 392 dự án giải thể, tăng 166% và với số vốn đăng ký tăng 466% so với giai đoạn trước. Như vậy, trong những năm gần đây số dự án và số vốn đầu tư bị giải thể trước thời hạn có xu hướng tăng lên. Nguyên nhân của tình hình này, một mặt là do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ suy thoái, thị trường không ổn định, đồng tiền giảm giá nghiêm trọng và dẫn đến sự phá sản của các công ty nước chủ nhà nên không có tiềm lực tài chính để thực hiện các dự án FDI tại Việt Nam. Mặt khác, do môi trường kinh doanh ở Việt Nam còn nhiều yếu kém làm cho các dự án hoạt động khó khăn hơn, rủi ro cao hơn nên nhiều dự án không thể tiếp tục đợc và một số trường hợp có thể tính khả thi không cao nhưng vẫn đợc cấp giấy phép đầu tư do “cả nể” của các cơ quan có thẩm quyền.
Về cơ cấu hình thức đầu tư giải thể đầu tư trước thời hạn. Hình thức liên doanh chiếm tỷ trọng cao nhất về số dự án (468 dự án chiếm tỷ trọng 73.8%) và về vốn đầu tư (5.629 tỷ USD chiếm 69.4%) trong tổng số dự án được cấp giấy phép. Hình thức 100% vốn nước ngoài chỉ chiếm 9.8% dự án và 8.4% vốn đầu tư. Nhưng trong 634 dự án FDI bị giải thể trước thời hạn thì có tới 468 dự án liên doanh bị giải thể, chiếm tới 73.6% về số dự án bị giải thể và hình thức 100% vốn nước ngoài chỉ có 62 dự án, chiếm 10% số dự án bị giải thể trước thời hạn. Sở dĩ các doanh nghiệp liên doanh chiếm tỷ trọng cao như vậy là vì. Thứ nhất do khả năng góp vống của các doanh nghiệp Việt Nam rất thấp, bình quân chiếm 23% vốn pháp đinh và khoảng 10% vốn pháp định của các doanh nghiệp liên doanh. Trong đó góp vốn chủ yếu bằng quyền sử dụng đất và nhà xởng sẵn có. Thứ hai, vấn đề cán bộ Việt Nam trong các liên doanh, một bộ phận lớn cán bộ Việt Nam cha đủ năng lực chuyên môn và trình độ ngoại ngữ dẫn đến tình trạng gây mâu thuẫn cá nhân trong doanh nghiệp hoặc chỉ thu vén lợi ích cá nhân, thụ động theo sự điều hành của bên nước ngoài. Thứ ba, một số đối tác nước ngoài trong liên doanh đã khai khống các chi phí đầu t nh nâng giá thiết bị công nghệ đa vào góp vốn, tăng giá đầu vào,hạ giá đầu ra thông qua chuyển giá với công ty mẹ để thu lợi nhuận ngay từ đầu hạch toán lỗ cho các liên doanh mà Việt Nam trong liên doanh không kiểm soát đợc. Ngoài ra bên nước ngoài còn có mục tiêu là chiếm lĩnh thị phần nên họ thực hiện chính sách khuyến mại, tiếp thị, quảng cáo với chi phí rất lớn và giá bán thấp nhằm tăng khả năng cạnh tranh và thậm chí chấp nhận lỗ những năm đầu. Bên Việt Nam trong liên doanh không đủ sức theo đuổi chiến lược này của họ, trong khi Việt Nam cha có luật chống độc quyền, chống bán phá giá và cha đủ sức quản lý, kiểm soát được các hoạt động này của bên nước ngoài. Thứ tư, giữa các bên trong liên doanh nảy sinh nhiều bất đồng về hàng loạt vấn đề nh chiến lược kinh doanh, phương thức điều hành và quản lý doanh nghiệp dẫn đến mâu thuẫn khá phổ biến trong các liên doanh, làm ảnh hưởng đến việc triển khai dự án và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp liên doanh.
Về cơ cấu lĩnh vực đầu tư bị giải thể: Số dự án giải thể tập trung nhiều ở một số ngành như công nghiệp nhẹ, công nghiệp nặng, xây dựng, dầu khí, giao thông, khách sạn – du lịch..
Về cơ cấu dự án và vốn đầu tư giải thể theo đối tác: Trong số 60 quốc gia và vùng lãnh thổ thực hiện FDI vào Việt Nam thò Hàn Quốc là đối tác có nhiều dự án và vốn đầu tư triển khai chậm, tạm dừng và giải thể nhất. Đặc biệt trong các lĩnh vực văn phòng nông lâm nghiệp,xây dựng và khách sạn- du lịch. Trong ngành công nghiệp nặng có nhiều doanh nghiệp có vốn FDI sản xuất và lắp ráp ô tố, xe máy bị giải thể chuyển đổi hình thức đầu tư hoặc phải tạm ngừng một phần sản xuất, giãn bớt công nhân. Nhiều dự án trong lĩnh vực nông –lâm- ng nghiệp gặp khó khăn về cung cấp nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm, giải quyết đất đai và chịu ảnh hưởng lớn của điều kiện khí hậu thời tiết. Trong một vài năm gần đây, nhiều dự án FDI trong lĩnh vực khách sạn- du lịch gặp nhiều khó khăn, một số dự án phải ngừng hoặc giãn tiến độ triển khai, một số doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh bị thua lỗ kéo dài. Các dự án trong lĩnh vực dịch vụ chiểm tỷ trọng vốn đầu tư bị giải thể lớn nhất là 52.6% trong tổng vốn đầu tư bị giải thể, tiếp đó là công nghiệp chiếm 40% và cuối cùng là nông- lâm- ng nghiệp chiếm 7.5%. Sau đó là các đối tác ASEAN trong các dự án khách sạn- du lịch, xây dựng văn ph
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV473.doc