LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN I. CƠ SỞ LÝ LUẬN 2
1. Thương mại điện tử là gì 2
2. Những phương tiện kỹ thuật trong thương mại điện tử 2
3. Các hình thức hoạt động của thương mại điện tử 4
4. Lợi ích và thách thức của thương mại điện tử 6
PHẦN II. THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 11
I. Tình hình phát triển thương mại điện tử trên thế giới 11
II. Thực trạng ở một số doanh nghiệp ứng dụng mại điện tử 12
1. Công ty điện toán và truyền số liệu, tên giao dịch quốc tế là Viet Nam Data Communication Company (VDC) 12
2. Các ngân hàng Việt Nam 13
3. Công ty phát triển đầu tư công nghệ FPT 14
III. Mức độ chuẩn bị cho các doanh nghiệp việt nam tham gia vào thương mại điện tử 14
1.Tình hình sử dụng lao đông của doanh nghiệp việt nam 14
2.Tình hình sử dụng máy tính trong các doanh nghiệp 15
3. Thực tiễn việc ứng dụng thương mại điện tử trong cac doanh nghiệp 19
PHẦN III. GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY ỨNG DỤNG TMĐT TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM 24
I. Nâng cao nhận thức về TMĐT 24
1. Khối chủ thể chính phủ 24
2. Khối chủ thể doanh nghiệp 24
3. Khối chủ thể người tiêu dùng 25
II.Xây dựng cơ sở hạ tầng 26
1. Xây dựng cơ sở hạ tầng pháp lý 26
2. Xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ 27
KẾT LUẬN 28
30 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 3017 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp nhằm thúc đẩy ứng dụng thương mại điện tử trong các doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tử được tiến hành trên mạng nên không bị ảnh hưởng bởi khoảng cách địa lý, do đó công ty dù là nhỏ hay lớn thì điều đó cũng không ảnh hưởng gì, các công ty vẫn được nhiều người biết đến nhờ tính toàn cầu của mạng. Khách hàng cũng có nhiều sự lựa chọn hơn nhờ mạng máy tính cung cấp cho họ. Thương mại điện tử đem lại sự hiện diện trên toàn cầu cho nhà cung cấp và sự lựa chọn toàn cầu cho khách hàng.
+ Gia tăng ưu thế cạnh tranh
Giá trị của thương mại điện tử không đơn thuần là tăng doanh số, thương mại điện tử được sử dụng như một ưu thế cạnh tranh, đảm bảo thông tin cho khách hàng được đầy đủ, mở rộng khả năng lựa chọn và đối sách cho khách hàng, thiết kế dịch vụ mới, đẩy nhanh quá trình giao hàng và giảm giá thành mặt hàng.
Thương mại điện tử làm giảm chi phí trung gian, hàng hoá dịch vụ có thể đi thẳng từ nhà cung cấp tới khách hàng, đặc biệt nếu bạn là những nhà sản xuất và mặt hang của bạn phải qua quá nhiều nhà phân phối trung gian mới đến tay người tiêu dùng thì EC là một giải pháp hữu hiệu giảm bớt phần chia sẻ lợi nhuận.
Việc tham gia vào thương mại điện tử còn là một phương thức khẳng định uy tín, chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp với khách hàng.
- Đối với nhà nước
Thương mại điện tử sẽ kích thích sự phát triển của công nghệ thông tin, khai thác dữ liệu và phát triển tri thức. Lợi ích này có một ý nghĩa lớn đối với các nước đang phát triển: nếu không nhanh chóng tiếp cận nền kinh tế tri thức thì sau khoảng một thập kỷ nữa, các nước đang phát triển có thểt sẽ bị bỏ rơi hoàn toàn. Khía cạnh lợi ích này mang tính chiền lược công nghệ và tính chính sách phát triển cần cho các nước công nghiệp hoá. Một số chuyên gia kinh tế cho rằng, sớm chuyển sang kinh tế tri thức có thêt một nước phát triển tạo được một bước nhảy vọt tiến kịp các nước đi trước với thời gian ngắn hơn.
Nhanh chóng theo kịp xu hướng phát triển kinh tế thế giới. Tận cùng tiến bộ khoa học kĩ thuật trong phát triển kinh tế, thúc đẩy phát triển kinh tế khu vực trong thời đại thông tin kĩ thuật số.
Giảm chi phí quản lý hành chính, thực hiện quản lý nhà nước hiệu quả hơn, nhanh chóng hơn. Tạo mối liên hệ với các doanh nghiệp, đơn vị, cá nhân nhanh chóng, hiệu quả hơn.
Tạo môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh, công bằng cho tất cả các doanh nghiệp tham gia.
- Đối với xã hội
Hình thành một tập quán kinh doanh mới (phi giấy tờ), tạo nên một xã hội văn minh, hiện đại hơn.
Nền tảng của thương mại điện tử là mạng máy tính, trên toàn thế giới đó là mạng Internet và phương tiện truyền thông hiện đại như vệ tinh viễn thông, cáp, vô tưyến, các khí cụ điện tử khácDo phát triển của hệ thống mạng máy tính, mọi việc đều có thêt xử lý và giải quýêt trên mạng tại nhà, do vậy, ngoài phố sẽ vắng người và phương tiện giao thông, như vậy tai nạn giao thông sẽ ít hơn trước nhiều.
Một vài hàng hoá được mua và bán có thể được bán với giá thấp cho phép người giàu có mua nhiều hàng hoá hơn và gia tăng chất lượng cuộc sống.
Người dân trong các nước ở thế giới thứ 3, và các khu vực nông thôn bây giờ có thể mua các mặt hàng và dịch vụ mà trước đây họ không thể mua được.
b.Thách thức của thương mại điện tử
Có thể chia các thách thức của Thương mại điện tử thành hai nhóm, nhóm mang tính kỹ thuật và nhóm mang tính thương mại. Theo nghiên cứu của CommerceNet (commerce.net), 10 rào cản lớn nhất của TMĐT theo thứ tự là:
An toàn
Sự tin tưởng và rủi ro
Thiếu nhân lực về TMĐT
Văn hóa
Thiếu hạ tầng về chữ ký số hóa (hoạt động của các tổ chức chứng thực còn hạn chế)
Nhận thức của các tổ chức về TMĐT
Gian lận trong TMĐT (thẻ tín dụng...)
Các sàn giao dịch B2B chưa thực sự thân thiện với người dùng
Các rào cản thương mại quốc tế truyền thống
Thiếu các tiêu chuẩn quốc tế về TMĐT
- Những cản trở về mặt kĩ thuật
Bảo mật hệ thống, tính đáng tin cậy, tiêu chuẩn, và các phương thức giao tiếp vẫn còn đang tiến triển.
Ở một số nơi, độ rộng dải tần của thông tin liên lạc bằng cáp không đủ.
Công cụ phát triển phần mềm vẫn còn đang tiến triển và thay đổi nhanh chóng.
Một vài phần mềm EC có thể không thích hợp với phần cứng, hoặc nó có thể trở nên không hợp với hệ điều hành hiện tại hoặc thiết bị hiện tại.
- Những cản trở không phải về mặt kĩ thuật
Chi phí để phát triển EC trong công ty có thể rất cao và có thể gây ra lỗi do việc thiếu hiểu biết, dẫn đến việc trì hoãn công việc. Hơn nữa, để chứng minh cho hệ thống, phải chỉ ra được những lợi nhuận không thể nhìn thấy được và rất khó xác định được số lượng (chẳng hạn như việc phát triển dịch vụ khách hàng và giá trị của việc quản cáo).
Bảo mật và sự riêng tư là rất quan trọng trong mô hình doanh nghiệp đến người tiêu dùng (B2C), đặc biệt là các vấn đề về bảo mật là rất nghiêm trọng. Giới hạn của việc bảo vệ sự riêng tư đang phát triển. Đối với khách hàng, những vấn đề này rất quan trọng. Ngành công nghiệp EC có một nhiệm vụ lâu dài và khó khăn trong việc thuyết phục khách hàng rằng những giao dịch và thông tin cá nhân trên mạng rất bảo mật.
Trong vài trường hợp, khách hàng không tin tưởng vào người bán hàng mà mình không quen biết, không biết mặt, và những dịch vụ không có giấy tờ, tiền điện tử. Bởi vì những điều đó, việc thuyết phục khách hàng chuyển từ giao dịch vật lý thông thường sang giao dịch điện tử là rất khó khăn. Một vài khách hàng thì thích tiếp xúc với mặt hàng mình sẽ mua, chẳng hạn như quần áo để mà họ biết đựơc cách chính xác mặt hàng họ mua như thế nào.
Có những vấn đề thuộc về luật pháp vẫn còn chưa được giải quyết, và trong nhiều nền tài chính của chính phủ, mối quan hệ và trình độ không đủ để cải tiến được tính phức tạp của EC.
Cũng như là một ngành học, EC vẫn còn tiến triển và thay đổi một cách nhanh chóng. Nhiều người đang tìm kiếm một EC ổn định trước khi họ tham gia vào EC. EC không có đủ các dịch vụ hỗ trợ. Ở một số nơi, không đủ các điều kiện then chốt của EC để đạt được sự thành công. Trong hàu hết các ứng dụng, không có đủ người bán và người mua để thu lợi nhuận từ các tiến trình EC.
Một vài điều đáng lo ngại là EC phát huy được công dụng của việc giao tiếp trực tiếp, có thể có một vài thất bại trong mối quan hệ của họ.
Việc truy cập Internet vẫn còn đắt và tiềm năng khách hàng còn hạn chế.
PHẦN II.THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Thương mại điện tư đã hình thành và đang phát triển tại Việt Nam, tuy còn gặp một số khó khăn, như thiếu thốn môi trường pháp lý, hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông chưa đủ mạnh, nguồn nhân lực còn yếu, nhận thức của doanh nghiệp và người tiêu dùng chưa cao.
So với năm 2005 và những năm trước đó, tình hình ứng dụng thương mại điện tử trong năm 2006 của các doanh nghiệp tiến bộ trên tất cả các mặt.
I. Tình hình phát triển thương mại điện tử trên thế giới
Theo báo cáo thương mại điện tử 2005 của UNCTAD, tốc độ tăng trưởng về số lượng người sử dụng Internet toàn cầu là 15,1%, thấp hơn so với 2 năm trước đó (26%). Tuy số người sử dụng Internet ngày càng tăng nhanh ở Châu Phi (56%), Đông Nam á và SNG (74%) nhưng nhìn chung khoảng cách giữa các nước phát triển và đang phát triển vẫn rất lớn (chỉ 1,1% người dân Châu Phi truy cập được Internet năm 2003 so với 55,7% của dân cư Bắc Mỹ). Nhằm tận dụng triệt để tính năng của Internet, người sử dụng không chỉ cần có kết nối mà họ còn cần kết nối nhanh với chất lượng tốt. Trong một số ứng dụng kinh doanh điện tử, băng thông rộng đã trở thành một điều kiện không thể thiếu. Nếu các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước đang phát triển không thể truy cập Internet băng rộng, họ khó có thể triển khai các chiến lược ICT nhằm cải thiện năng suất lao động trong những mảng tìm kiếm và duy trì khách hàng, kho vận và quản lý hàng tồn. Hiện nay, Mỹ chiếm hơn 80% tỷ lệ TMĐT toàn cầu, và tuy dung lượng này sẽ giảm dần, song Mỹ vẫn có khả năng lớn cho việc chiếm tới trên 70% tỷ lệ TMĐT toàn cầu trong 10-15 năm tới. Mặc dù một số nước châu Á như Singapore và Hong Kong (Trung Quốc) đã phát triển rất nhanh và rất hiệu quả, nhưng thương mại điện tử các nước khác ở châu lục này đều còn phát triển chậm.
Thương mại điện tử không chỉ giải quyết những yêu cầu thiết yếu, cấp bách trên các lĩnh vực như hệ thống giao dịch hàng hoá, điện tử hoá tiền tệ và phương án an toàn thông tin..., mà hoạt động thực tế của nó còn tạo ra những hiệu quả và lợi ích mà mô hình phát triển của thương mại truyền thống không thể sánh kịp (ví dụ, trường hợp hiệu sách Amazon, trang web đấu giá eBay). Chính vì tiềm lực hết sức to lớn của thương mại điện tử nên chính phủ các nước đều hết sức chú trọng vấn đề này. Nhiều nước đang có chính sách và kế hoạch hành động để đẩy mạnh sự phát triển của thương mại điện tử ở nước mình, nhằm nắm bắt cơ hội của tiến bộ công nghệ thông tin nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước, giành lấy vị trí thuận lợi trong xã hội thông tin tương lai.
Khoảng cách ứng dụng thương mại điện tử giữa các nước phát triển và đang phát triển vẫn còn rất lớn. Các nước phát triển chiếm hơn 90% tổng giá trị giao dịch thương mại điện tử toàn cầu, trong đó riêng phần của Bắc Mỹ và châu âu đã lên tới trên 80%. Phương thức kinh doanh B2B đang và sẽ chiếm ưu thế nổi trội so với B2C trong các giao dịch thương mại điện tử toàn cầu. Trong phương thức B2C, loại hình bán lẻ tổng hợp (siêu thị thương mại điện tử) dù chiếm tỷ lệ không cao trong tổng số cửa hàng bán lẻ trực tuyến nhưng lại nắm giữ phần lớn giá trị giao dịch B2C trên thị trường ảo. Việc kết hợp cửa hàng bán lẻ trực tuyến với các kênh phân phối truyền thống hiện vẫn là phương thức được nhiều nhà kinh doanh lựa chọn.
II. Thực trạng ở một số doanh nghiệp ứng dụng mại điện tử
1. Công ty điện toán và truyền số liệu, tên giao dịch quốc tế là Viet Nam Data Communication Company (VDC)
Là một doanh nghiệp nhà nước thuộc Tổng công ty Bưu chính- Viễn thông Việt Nam (VNPT) hoạt động theo luật pháp Việt Nam và theo điều lệ tổ chức hoạt động của VNPT được quy định tại nghị định 51/CP ngày 1 tháng 8 năm 1995 của chính phủ. Các sản phẩm dịch vụ chủ yếu của VDC:
Dịch vụ VNN Internet: Chính thức triển khai tháng 12/1997, là mạng Internet mạnh nhất Việt Nam, chiếm 70% thị phần với doanh thu luôn luôn tăng.
Dịch vụ thư điện tử (Vnmail): Mail offline, Fmail, Mail Plus, Wedmail.
Dịch vụ truyền số liệu Vietpac: Dịch vụ chuyển mạnh gói trên X25, kết nối mạng toàn cầu với hơn 30 nước, môi trường, truyền dẫn nhanh, an toàn là mạng truyền số liệu hoàn chỉnh nhất tại Việt Nam.
Leased IP, Frame relay, VPN
Dịch vụ truyền báo, viễn ấn, chế bản điện tử
Dịch vụ Void, Internet roaming.
Nghiên cứu và phát triển các sản phẩm tin học: phần mềm kế toán VNPT, phần mềm tính cước và quản lý thuê bao, quản lý mạng cáp, phần mềm quản lý được chứng nhận của ORACLE
Chiến lược phát triển của công ty trong tương lai là triển khai mạng TMĐT, đây là chiến lược đứng đắn, đầy triển vọng phát huy được những lợi thế của công ty. Hiện nay, VDC là công ty duy nhất ở Việt Nam được cấp phép IAP. VNN/Internet của VDC chiếm hơn 70% thị phần Việt Nam. Hơn nữa trong thời kỳ 2001- 2006 công ty nào có thể phát huy những nguồn tài chính mạnh hơn bất cứ ISP Việt Nam nào khác để đầu tư vào phát triển Internet/Web và mọi công nghệ xung quang Internet/Web. Tuy nhiên, đi vào TMĐT đòi hỏi các tiêu chuẩn cao hơn là các tiêu chuẩn của mọi công ty công nghệ cao: Đó là các yêu cầu và tiêu chuẩn của doanh nghiệp tri thức, trong đó công nghệ là quan trọng nhưng không mang tính quyết định, mà vai trò quyết định là trí tuệ và sức mạnh của tổ chức mới, của lãnh đạo, của chuyên gia và cả của khách hàng của nhà cung cấp và đối tác chiến lược của công ty.
VDC có 3 dự án thử nghiệm TMĐT:
*Dự án thanh toán tại VDC3
Dự án thanh toán VDC-VDC1/ VCB
Dự án Payment Gateway VDC2.
Phương hướng trong thời gian tới của công ty là: triển khai TMĐT trong nội bộ trước đây là hướng thực tiễn hơn, và có thể đơn giản hơn, hiệu quả có thể thấy rõ hơn là khi đem ra thị trường, bao gồm:
-Hoàn thiện một bước hệ thống cước và mọi hệ thống cơ sở dữ liệu khách của VDC thành một cơ cấu kho dữ liệu thống nhất toàn công ty.
-Trong kho dữ liệu của công ty, xây dựng một Data Mart làm nền cho hệ thống quản lý khách hàng theo hai phương pháp luận và thực hành thích hợp là CMR (Custommer Relationship Managerment: Quản lý hệ thống khách hàng) và ERP(Enterprise Resourees Planning)
-Triển khai một hệ thống phần mềm tổng hợp để củng cố VNN/Internet.
Xây dựng một cơ chế xử lý thông tin sâu, nhằm hỗ trợ lãnh đạo chi tiết mọi luồng thông tin quản lý và tác nghiệp tạo tính minh bạch tổ chức, hỗ trợ ra quyết định lãnh đạo
Xây dựng hệ thống trả lương cho nhân viên công ty và các dịch vụ thanh toán tiền mặt, thanh toán chuyển khoản giữa VDC và VNPT trên cơ sở hợp tác với một ngân hàng thương mại hoặc tạo ra một máy chủ thanh toán, thuê một vài máy Teller công suất nhỏ, đặt trong nhà để tự làm dịch vụ này cho nội bộ VDC và VNPT.
Như vậy, VDC vừa trực tiếp kinh doanh điện tử trực tiếp, vừa cung cấp các dịch vụ xung quanh kinh doanh điện tử.
2. Các ngân hàng Việt Nam
Hệ thống ngân hàng Việt Nam cho tới năm 1995 bao gồm Ngân hàng Nhà nước, bốn ngân hàng thương mại quốc doanh (Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Đầu tư phát triển, Ngân hàng Công thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), bốn ngân hàng liên doanh, 50 ngân hàng cổ phần 21 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 62 văn phòng đại diện ngân hàng nước ngoài. Bốn ngân hàng thương mại quốc doanh lớn chiếm 80% tổng khối lượng giao dịch và có tới 70% tổng số tài khoản khách hàng trong đó có nhiều khách hàng lớn là các tổng công ty 90/91. Phương tiện thanh toán bằng tiền mặt đã giảm dưới 12% tổng khối lượng thanh toán và không còn giữ vai trò là phương tiện thanh toán được uỷ quyềnChiếm vị trí chủ yếu 85% trong khối lượng thanh toán qua các hệ thống ngân hàng. Đến nay ngân hàng nhà nước và bốn ngân hàng thương mại quốc doanh đều có hệ thống thanh toán điện tử riêng để đáp ứng các nhu cầu thanh toán của khách hàng trong nội bộ hệ thống và đi ra ngoài qua hệ thống bù trừ và thanh toán liên ngân hàng của ngân hàng nhà nước. Ngoài ra, các ngân hàng còn tham gia hệ thống thanh toán Swift với hàng ngàn bức điện thanh toán đi đến. Mặc dù vậy các ngân hàng lớn trong nước chưa chuyển đổi được mô hình giao dịch cũ sang mô hình ngân hàng có các sản phẩm TMĐT được cung cấp trên Internet, đến từng khách hàng và cho phép các khách hàng có thể đặt hàng và thanh toán qua mạng đáp ứng nhu cầu của nhiều khách hàng đòi hỏi các khoản thanh toán phải được thực hiện ngay lập tức. Mặt khác còn phải chịu sức ép cạnh tranh tranh từ phía các ngân hàng nước ngoài với cách thức hoạt động chuyên nghiệp. Trước sức ép gay gắt của quá trình hội nhập toàn cầu hoá, trong lĩnh vực ngân hàng không có bất cứ một hàng rào nào bảo vệ cho các ngân hàng trong nước. Tất cả sẽ có cùng một sân chơi bình đẳng. Do đó các ngân hàng Việt Nam phải nhanh chóng đưa ra các sản phẩm dịch vụ, nghiệp vụ trên cơ sở công nghệ mới để trước hết cạnh tranh thắng lợi trong nước sau đó vươn ra ngoài khu vực và thế giới.
Hiện nay, ngân hàng công thương đang tham gia thực nghiệm dự án “Hạ tầng cơ sở thanh toán điện tử trong TMĐT” Theo đó khách hàng có thể truy cập đến địa chỉ Website của ngân hàng công thương Việt Nam và sử dụng dịch vụ ngân hàng trực tuyến Internet (Online banking) sau khi được kiểm tra các yếu tố truy xuất như tên chủ tài khoản, mã bảo mật khách hàng có thể xem thông tin về tài khoản của mình, kiểm tra số dư tài khoản, tìm chi tiết các giao dịch gần nhất, chỉ số mới nhất như tỷ số hối đoái, lãi xuất tiền gửi, tư vấn về một số lĩnh vực
3. Công ty phát triển đầu tư công nghệ FPT
Công ty phát triển đầu tư công nghệ FPT được thành lập theo quyết định số 80-88TC/VNC năm 1988 với tên gọi ban đầu là “Công ty Công nghệ thực phẩm” trực thuộc Viện nghiên cứu công nghệ quốc gia. Trong quá trình hoạt động, công ty đã nhiều lần đổi tên, tách nhập cho phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ thực tế. Ngày 25 tháng 6 năm 1993, theo quyết định số 85-93 QĐTC/VNC công ty có tên gọi chính thức được sử dụng cho tới ngày nay là công ty phát triển đầu tư công nghệ FPT trực thuộc Bộ khoa học công nghệ và môi trường.
Các hoạt động kinh doanh chủ đạo của công ty FPT thể hiện chủ yếu thông qua trung tâm Internet FPT. Cơ sở vật chất kỹ thuật của trung tâm trang bị khá hiện đại. Được hỗ trợ bởi các đối tác, phần lớn thiết bị mạng dùng tại trung tâm Internet FPT là sản phẩm của hãng công nghệ thông tin hàng đầu thế giới như: Compaq, 3com, IBM, Packard Bell. Toàn hệ thống vận hành trên nền tảng hệ điều hành Windows NT 4.0 của Microsoft. Trong quá trình kinh doanh của mình, trung tâm Internet FPT đã đóng góp vào việc thúc đẩy TMĐT phát triển tại Việt Nam thông qua các hoạt động sau:
*Phát triển số lượng khách hàng nối mạng Internet
*Cung cấp các thông tin về các doanh nghiệp Việt Nam lên mạng Internet.
*Cung cấp các dịch vụ hỗ trợ TMĐT (Có thể lấy hai dịch vụ sau làm ví dụ: Dịch vụ Web hosting -Văn phòng ảo giao dịch trên toàn cầu; Dịch vụ đặt tên miền cho địa chỉ website của doanh nghiệp trên Internet- Mail- Offline)
*Phổ cập kiến thức và tuyên truyền về lợi ích sử dụng Internet (Cung cấp các sản phẩm phần mềm phục vụ thương mại và hỗ trợ kỹ thuật)
III. Mức độ chuẩn bị cho các doanh nghiệp việt nam tham gia vào thương mại điện tử
1.Tình hình sử dụng lao đông của doanh nghiệp việt nam
Trước hết, có thể thấy đa số các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay vẫn là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tiến hành điều tra 1.300 doanh nghiệp trên toàn quốc có tới 60% các doanh nghiệp tham gia khảo sát có số lao động nhỏ hơn 20, con số tương ứng cho các doanh nghiệp có từ 21-50 lao động là 17%. Tỷ lệ doanh nghiệp có trên 500 lao động chiếm chưa tới 5% số doanh nghiệp tham gia khảo sát.
Hình 1 Quy mô lao động của các doanh nghiệp được điều tra
Số lượng lao động (người)
Tỷ lệ doanh nghiệp (%)
Tuy nhiên, quy mô doanh nghiệp theo lao động có sự khác biệt nhất định giữa các ngành. Chẳng hạn, tỷ lệ doanh nghiệp có dưới 50 lao động trong ngành công nghệ thông tin là 91% và ngành thủ công mỹ nghệ là 94%. Trong khi đó, chỉ 28% các doanh nghiệp ngành dệt may tham gia khảo sát có số lao động dưới 50 và tỷ lệ doanh nghiệp dệt may có trên 500 lao động chiếm tới 40%.
2.Tình hình sử dụng máy tính trong các doanh nghiệp
Tình hình đầu tư cho mua sắm máy tính tại các doanh nghiệp rất khả quan.
Trong khi phần lớn doanh nghiệp tham gia khảo sát có quy mô nhỏ thì số máy tính trung bình tại mỗi doanh nghiệp lên tới 17,6 và trung bình chung cứ 6,3 người có một máy tính.
Phân tích kỹ hơn có thể thấy chỉ có 0,1% doanh nghiệp được điều tra là chưa có máy tính, do đó có thể coi như mọi doanh nghiệp đã có ít nhất một máy tính. Tương ứng với việc phần lớn doanh nghiệp ở quy mô nhỏ và vừa (78% doanh nghiệp có dưới 50 lao động), phần lớn các doanh nghiệp (82%) có dưới 20 máy tính. Tỷ lệ doanh nghiệp có trên 50 máy tính chỉ chiếm khoảng 5%.
Hình 2 Phân bổ máy tính trong các doanh nghiệp
Số lượng máy tính (chiếc)
Tỷ lệ doanh nghiệp(%)
Xét về số máy tính trung bình tại mỗi doanh nghiệp và tỷ lệ máy tính trên nhân viên phân theo ngành thì kết quả điều tra cho thấy ngành công nghệ thông tin, tư vấn và luật có tỷ lệ ứng dụng CNTT cao nhất. Trung bình mỗi doanh nghiệp trong ngành CNTT có 32 máy tính và mỗi người sử dụng một máy tính. Trong ngành tư vấn và luật, trung bình mỗi doanh nghiệp có tới 51,4 máy tính và chưa đầy 2 người đã có 1 máy tính. Các doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực du lịch có mức độ ứng dụng CNTT cao, trung bình cứ 1,4 lao động trong ngành này sử dụng 1 máy tính.
Ngành dệt may có mức ứng dụng CNTT khá thấp, trung bình mỗi doanh nghiệp có chưa đầy 10 máy tính và trung bình 22 lao động mới có 1 máy tính. Điều này phản ánh thực tế là các doanh nghiệp ngành dệt may chủ yếu sử dụng lao động đơn giản trong sản xuất, chỉ có bộ phận quản lý và văn phòng mới sử dụng máy tính. Tương tự, ngành cơ khí có mức độ ứng dụng CNTT thấp, khoảng 10 lao động mới có 1 máy tính để phục vụ công việc. Ngành thủ công mỹ nghệ cũng là ngành có tỷ lệ máy tính trên đầu người thấp (6 người/1 máy tính). Tính chung các ngành, tỷ lệ máy tính trên nhân viên trung bình của doanh nghiệp là 6,5 người/1 máy tính.
Bảng 1: Mức trung bình máy tính trong doanh nghiệp phân theo ngành
Ngành
Số máy tính trung bình
Số nhân viên/máy tính
Cơ khí
14,43
9,99
Công nghệ thông tin
32,00
1,10
Dệt may
9,82
22,32
Điện tử viễn thông
17,16
1,36
Du lịch
17,16
1,36
Tài chính ngân hàng
16,65
3,07
Thủ công mỹ nghệ
10,25
6,31
Tư vấn, luật
51,39
1,85
Vận tải
24,31
6,72
Khác
13,44
6,49
Trung bình chung
17,66
6,25
(Nguồn: Điều tra của Vụ thương mại điện tử)
a. Đào tạo công nghệ thông tin và thương mại điện tử
DN đã chú ý hơn tới đào tạo nguồn nhân lực cho TMĐT. Mức độ chuẩn bị nguồn nhân lực cho TMĐT cho thấy hình thức đào tạo tại chỗ theo nhu cầu công việc là phổ biến hơn cả, được 62,9% DN lựa chọn. Một tỷ lệ thấp hơn DN kết hợp thêm hình thức gửi nhân viên đi học hoặc mở lớp tập huấn ngắn hạn. Số DN không đào tạo gì về công nghệ thông tin và TMĐT cho nhân viên còn chiếm 21,1% đối tượng điều tra.
Bảng 2: Các hình thức đào tạo nhân viên của doanh nghiệp
Hình thức đào tạo
Có
Không
Mở lớp đào tạo
8,16%
91,84%
Gửi nhân viên đi học
30,21%
69,79%
Đào tạo tại chỗ theo nhu cầu công việc
62,91%
37,09%
Không đào tạo
21,06%
(Nguồn: Điều tra của Vụ thương mại điện tử)
Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ chuyên trách về TMĐT tại các tổ chức, DN hoàn toàn chưa có hoặc rất ít. Trong khi đó, các khóa ngắn hạn lại không thể đem lại kiến thức và kỹ năng đầy đủ, cần thiết bởi đặc thù của lĩnh vực TMĐT đòi hỏi người tham gia phải có cả ba khối kiến thức về thương mại, công nghệ thông tin và ngoại ngữ. Do đó, nguồn nhân lực về TMĐT trong các tổ chức, DN Việt Nam đang được coi là vấn đề cấp thiết.
b. Hạ tầng viễn thông và Internet
Về hạ tầng viễn thông và Internet, kết quả điều tra cho thấy 100% doanh nghiệp có điện thoại, 100% doanh nghiệp có máy fax và tỉ lệ doanh nghiệp đã kết nối Internet là 92%. Trong số doanh nghiệp đã kết nối Internet, hình thức truy cập bằng ADSL chiếm 81,5%, đường truyền riêng chiếm 5,4% và hình thức truy cập bằng quay số chỉ còn 5,2%. Trong số 8% doanh nghiệp chưa kết nối Internet, 3,5% cho biết đã có kế hoạch kết nối trong năm tới.
Như vậy có thể khẳng định điều kiện hạ tầng tối thiểu cho ứng dụng thương mại điện tử đã được xác lập ở hầu hết các doanh nghiệp tại khu vực đô thị trên cả nước.
Hình 3 Hình thức truy cập Internet của doanh nghiệp
3
1: ADSL
2: Đường truyền riêng
3: Quay số
4: Không kết nối
5: Sẽ kết nối trong năm tới
5
4
2
1
c. Mục đích của việc sử dụng Internet trong doanh nghiệp
Về mục đích sử dụng Internet của doanh nghiệp, điều tra cho kết quả 82,9% doanh nghiệp dùng Internet để tìm kiếm thông tin, 64,3% doanh nghiệp dùng Internet cho mục đích trao đổi thư điện tử, 62,8% doanh nghiệp có mục đích truyền và nhận dữ liệu, 40,9% doanh nghiệp với mục đích mua bán hàng hóa và dịch vụ, 39,8% doanh nghiệp dùng để duy trì và cập nhật website. Đáng chú ý là chỉ có 22,1% doanh nghiệp dùng Internet như một kênh liên lạc với các cơ quan nhà nước. Ngoài ra, không ít doanh nghiệp đã kết nối Internet cho các mục đích khác như gọi điện thoại VoIP.
Kết quả điều tra này cho thấy các doanh nghiệp đã khai thác nhiều lợi thế của Internet. Kết nối Internet giúp doanh nghiệp tìm kiếm thông tin về các đối tác qua mạng, tìm hiểu thông tin thị trường về ngành hàng, tìm các thông tin quảng cáo hoặc chủ động quảng bá hình ảnh doanh nghiệp. Với những doanh nghiệp đã có website, kết nối Internet là điều bắt buộc để doanh nghiệp cập nhật các thông tin trên trang web của mình. Kết nối Internet cũng là cách dễ dàng và rẻ nhất để doanh nghiệp liên lạc với khách hàng, với đối tác thông qua thư điện tử hoặc các công cụ truyền và nhận dữ liệu khác.
Tỷ lệ khá thấp các doanh nghiệp sử dụng Internet như một phương tiện trao đổi với các cơ quan quản lý nhà nước phản ánh thực tế các dịch vụ công trực tuyến chưa phong phú.
d. Mức độ xây dựng và sử dụng mạng nội bộ
Theo kết quả điều tra, có 73,8% doanh nghiệp đã lắp đặt mạng LAN và 4,0% doanh nghiệp có sử dụng mạng WAN. Những con số này phần nào phản ánh mức độ sẵn sàng cho thương mại điện tử trong doanh nghiệp khá cao. Thương mại điện tử ở mức cao phải được xuất phát từ mức độ tin học hoá cao trong nội bộ doanh nghiệp
Bảng 3: Mức độ sử dụng mạng trong doanh nghiệp
Mạng được sử dụng
Tỉ lệ doanh nghiệp sử dụng
Mạng LAN
73,78%
Mạng WAN
4,03%
Mạng Intranet
8,01%
Mạng Extranet
1,21%
Ghi chú: một doanh nghiệp có thể dùng nhiều hơn một mạng
Nguồn: Điều tra của Vụ thương mại điện tử
e. Trở ngại đối với việc sử dụng Internet của doanh nghiệp
Đánh giá các trở ngại đối với việc sử dụng Internet trong công việc kinh doanh, 36,5% doanh nghiệp coi vấn đề an toàn và bảo mật thông tin là trở ngại cao nhất. Tiếp theo, 19,4% coi việc kết nối Internet chậm và không ổn định là trở ngại lớn nhất, 5,1% doanh nghiệp cho rằng chi phí đầu tư thiết bị là trở ngại lớn, và 5,8% doanh nghiệp cho rằng Internet chưa đem lại hiệu quả rõ rệt.
Hình 4 Trở ngại an toàn bảo mật trong sử dụng Internet
Tỉ lệ doanh nghiệp(%)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6145.doc