MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.1
CHƯƠNGI:TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN NGÀNH DU LỊCH LÀ TẤT YẾU
KHÁCH QUAN TRONG NỀN KINH TẾTHỊTRUỜNG.2
1) Khái niệm vềtăng trưởng và phát triển kinh tế. 2
1.1) Tăng trưởng kinh tế. 2
1.2) Phát triển kinh tế. 2
2) Các chỉtiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế. 4
2.1) Tổng sản phẩm trong nước (GDP) và tổng sản phẩm quốc dân
(GNP). 4
2.2) Các chỉtiêu tăng trưởng kinh tế. 5
2.3) Các chỉtiêu phát triển kinh tế. 5
3) Khái niệm vềdu lịch và các loại hình du lịch . 6
3.1) Khái niệm vềdu lịch. 7
3.2) Các loại hình du lịch. 8
4) Vịtrí, vai trò của ngành du lịch và hệthống các ngành của nền kinh
tếquốc dân. 10
5) Vai trò của ngành du lịch đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
của đất nước . 11
6) Kinh nghiệm phát triển du lịch ởmột sốnước và của Việt Nam . 13
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH DU LỊCH ỞNƯỚC TA.16
TRONG THỜI GIAN QUA.16
1) Sựcần thiết phát triển du lịch ởnước ta. 16
2) Tiềm năng phát triển du lịch ởnước ta. 19
3) Thành tựu ngành du lịch nước ta đạt được trong thời gian qua. 21
4) Hạn chếcủa ngành du lịch Việt Nam trong thời gian qua. 23
5) Nguyên nhân của những thành tựu, hạn chếcủa ngành du lịch Việt
Nam . 26
5.1) Nguyên nhân của những thành tựu. 26
5.2) Nguyên nhân của những tồn tại. 28
CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP CƠBẢN PHÁT TRIỂNNGÀNH DU LỊCH Ở
VIỆT NAM .29
1) Mục tiêu, định hướng phát triển du lịch ởnước ta. 29
1.1) Mục tiêu. 29
1.2) Định hướng phát triển du lịch. 31
2) Các giải pháp cơbản phát triển du lịch nước ta . 32
2.1) Các giải pháp kinh tế. 32
2.2) Giải pháp tài chính. 37
2.3) Giải Pháp điều kiện. 39
KẾT LUẬN.41
TÀI LIỆU THAM KHẢO.42
45 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 3930 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp phát triển du lịch ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thiên nhiên, khí
hậu, giá trị của di tích lịch sử, văn hoá…
Quy luật có tính phổ biến của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trên thế giới hiện nay cũng như ở Việt Nam là giá trị ngành dịch vụ ngày càng
chiếm tỷ trọng cao trong tổng sản phẩm xã hội và trong số người có việc làm.
Để đi tìm hiệu quả của đồng vốn thì du lịch là một lĩnh vực kinh doanh hấp
dẫn so với nhiều ngành kinh tế khác. Du lịch đem lại tỷ xuất lợi nhuận cao, vì
vốn đầu tư vào du lịch tương đối ít so với ngành công nghiệp nặng, giao
thông vận tải mà khả năng thu hồi vốn lại nhanh, kỹ thuật không phức tạp.
Chính đặc điểm này rất phù hợp với tình hình nước ta- một nước còn nghèo
nàn, lạc hậu, thiếu vốn đầu tư, sự cần thiết hiện đại hoá nền kinh tế Việt Nam
điều đó có ý nghĩa to lớn. Du lịch là cầu nói giao lưu kinh tế có quan hệ chặt
chẽ với chính sách mở cửu của đảng và nhà nước do đó phát triển du lịch là
việc cần thiết đối với nước ta.
Ngoài những lợi ích về mặt kinh tế mà du lịch đem lại, du lịch còn có
ý nghĩa về mặt xã hội. Du lịch có vai trò giữ gìn, phục hồi sức khoẻ và tăng
cường sức sống cho người dân. Trong một chừng mực nào đó du lịch có tác
dụng hạn chế bệnh tật, kéo dài tuổi thọ và khả năng lao động của con người.
Mặt khác qua những chuyến du lịch mọi người có điều kiện tiếp xúc với nhau,
gần gũi nhau hơn nhờ đó mọi người hiểu nhau hơn và làm tăng thêm tình
đoàn kết trong cộng đồng.
Bên cạnh đó do tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật thì
hàng loạt máy móc đã được tạo ra thay thế con người trong quá trình lao động
sản xuất do đó dẫn đến một lượng người bị thất nghiệp và gây sức ép lên nền
kinh tế của đất nước. Nhưng nhờ có sự phát triển của du lịch và dịch vụ mà
một lượng lớn những người này đã có công ăn việc làm, có thu nhập ổn định.
Chính du lịch đã góp phần làm giảm gánh nặng cho nền kinh tế của dất nước,
góp phần đưa nền kinh tế của nước nhà phát triển ổn định và nhanh chóng.
Ảnh hưởng của du lịch đến văn hoá: một trong những chức năng của
du lịch là giao lưu văn hoá giữa các cộng đồng. Khi đi du lịch, du khách luôn
muốn được xâm nhập vào các hoạt động văn hoá của địa phương qua đó du
khách có thêm những hiểu biết mới. Du lịch còn góp phần cho việc phục hồi
và phát triển văn hóa dân tộc. Nhu cầu về nâng cao nhận thức văn hoá trong
chuyến đi của du khách thúc đẩy các nhà cung ứng chú ý, yểm trợ cho việc
khôi phục, duy trì, các di tích, lễ hội, sản phẩm làng nghề… Du lịch đã góp
phần đưa hình ảnh đất nước ta đến với bạn bè quốc tế đồng thời giúp chúng ta
có cái nhìn rộng hơn bên ngoài mà qua đó ta làm cho cuộc sống tinh thần trở
nên phong phú và đầy đủ hơn.
Ảnh hưởng của du lịch đến môi trường: mục đích chủ yếu của du
khách khi đi du lịch là được tiếp xúc, đắm mình trong thiên nhiên, được cảm
nhận một cách trực giác sự hùng vĩ, trong lành, tươi mát và nên thơ của các
cảnh quan thiên nhiên. Nó tạo điều kiện cho họ hiểu biết sâu sắc hơn về tự
nhiên, thấy được giá trị của thiên nhiên đối với đời sống con người. Điều này
có nghĩa là bằng thực tiễn phong phú, du lịch sẽ góp phần rất tích cực vào sự
nghiệp giáo dục môi trường, một vấn đề toàn thế giới đang hết sức quan tâm.
Nhu cầu du lịch nghỉ ngơi tại những khu vực có nhiều cảnh quan thiên
nhiên đã kích thích việc tôn tạo, bảo vệ môi trường. Để đáp ứng nhu cầu du
lịch phải dành những khoảng đất đai có môi trường ít bị xâm phạm, xây dựng
các công viên bao quanh thành phố, thi hành các biện pháp bảo vệ môi
trường, bảo vệ nguồn nước, không khí nhằm tạo nên môi trường sống phù
hợp với nhu cầu của du khách. Để gia tăng thu nhập từ du khách phải có
chính sách maketing, chính sách tu bổ bảo vệ tự nhiên để điểm du lịch ngày
càng hấp dẫn.
Ảnh hưởng của du lịch đến an ninh, chính trị: trước hết cần khẳng
định du lịch là chiếc cầu nối hoà bình giữa các dân tộc trên thế giới. Hoạt
động du lịch giúp cho các dân tộc xích lại gần nhau hơn, hiểu hơn về giá trị
văn hoá của đất nước bạn.
Ngoài những mặt tích cực mà du lịch đem lại thì còn có những tác
động tiêu cực từ du lịch. Do đó chúng ta cần phải nhận thức rõ để có hướng
phát triển đúng đắn. Với những gì du lịch đem lại cho kinh tế, xã hôi, văn hoá,
môi trường… thì việc phát triển du lịch ở nước ta là điều rất cần thiết để phục
vụ cho sự xây dựng và phát triển đất nước trở thành một nước “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
2) Tiềm năng phát triển du lịch ở nước ta
Việt Nam nằm trên bán đảo Đông Dương, gần trung tâm Đông Nam
Á, vừa có biên giới lục địa, vừa có hải giới rộng lớn, là cửa ngõ đi ra Thái
Bình Dương của một số nước và của vùng Đông Nam Á. Nước ta nằm ở vành
đai nhiệt đới bắc bán cầu, đúng vào khu vực gió mùa Đông Nam Á, do đó,
mang lại đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa Châu Á. Nhờ đó mà Việt Nam
có hệ thống động thực vật phong phú, đa dạng. Việt Nam còn có những danh
thắng đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới như vịnh Hạ
Long, phố cổ Hội An, cố đô Huế, thánh địa Mỹ Sơn, vườn quốc gia Phong
Nha- Kẻ Bảng ngoài ra còn có di sản văn hoá thế giới phi vật thể là nhã nhạc
Huế. Chúng ta còn thu hút du khách nước ngoài bằng hàng loạt các điểm du
lịch sinh thái kéo dài khắp ba miền tổ quốc: Bản Gốc, Mẫu Sơn, Sa Pa, Thác
Mơ, hồ Ba Bể, vườn quốc gia Ba Vì, Mai Châu, Tam Cốc- Bích Động, Cát
Tiên, khu ngập nước Văn Long, Bà Nà, Đồng Tháp Mười, địa đạo Củ Chi, U
Minh… Hiện nay, du lịch sinh thái đang được nhiều du khách quan tâm nên
đây là điều kiện tốt để du lịch Việt Nam khai thác tiềm năng sẵn có. Mặt khác
lãnh thổ nước ta kéo dài từ Bắc vào Nam tiếp giáp với biển cũng tạo cho
chúng ta những bãi biển cát mịn và đẹp như Trà Cổ, Bãi Cháy, Đồ Sơn, Sầm
Sơn, Nha Trang, Vũng Tàu…
Ngoài những thắnh cảnh tươi đẹp, Việt Nam còn có rất nhiều các làng
nghề, lễ hội truyên thống. Tiềm năng phát triển du lịch làng nghề truyền thống
của nước ta rất lớn, mỗi làng nghề gắn với một vùng văn hoá, hệ thống di tích
và truyền thống riêng, với cung cách sáng tạo sản phẩm riêng của mình. Du
khảo hết các làng nghề truyền thống, du khách có thể thấy rõ bản sắc cũng
như đặc trưng của bộ mặt nông thôn Việt Nam. Hiện nay, cả nước đã có hơn
2000 làng nghề thủ công thuộc 11 nhóm nghề chính như: cói, sơn mài, mây
tre đan, gốm sứ, thêu ren, dệt, gỗ, đá, giấy, tranh dân gian. Đi dọc Việt Nam
du khách có thể thấy nhiều vùng quê mà mật độ làng nghề truyền thống dày
đặc rải từ bắc vào nam. Những cái nôi của làng nghề là Hà Nôi, Hà Tây, Hải
Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Thừa Thiên Huế… Thực tế, hiện nay du khách
muốn đến tận làng nghề nhìn cảnh cây đa, bến nước, sân đình, thăm các di
tích của một làng nghề truyền thống Việt Nam, tìm hiểu các vị tổ làng nghề
hoặc các danh nhân văn hoá. Làng nghề truyền thống Việt Nam chứa đựng
tiềm năng dồi dào về du lịch còn bởi vì du khách muốn đến tận nơi xem các
công đoạn nghệ nhân làm ra sản phẩm và cũng muốn tận tay tham gia làm sản
phẩm theo trí tưởng tượng của riêng mình. Tìm hiểu về văn hoá và truyền
thống làng nghề là điều mà du khách trong và ngoài nước quan tâm.
Việt Nam còn có các tài nguyên có giá trị lịch sử, các tài nguyên có
giá trị văn hoá thu hút khách du lịch với mục đích tham quan, nghiên cứu. Với
lịch sử hơn 4000 năm dựng nước và giữ nước, Việt Nam đã tạo dựng được
một nền văn hoá phong phú và độc đáo. Không những vậy 54 dân tộc anh em
cùng chung sống trên một mảnh đất, lại có bao phong tục, tập quán, lễ hội
khác nhau tạo nên sự đa dạng cho sản phẩm du lịch Việt Nam.
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã và đang xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng, không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ. Đặc
biệt con người Việt Nam thân thiện, hiếu khách đã tạo sự thoải mái cho du
khách.
Chính tất cả những tiềm năng trên là một nền tảng để du lịch Việt
Nam phát triển, hội nhập với các nước trên thế giới. Nhưng vấn đề là chúng ta
tận dụng những tiềm năng đó như thế nào nó phụ thuộc vào cách làm của
chúng ta.
3) Thành tựu ngành du lịch nước ta đạt được trong thời gian
qua
Nhận thức được vai trò của ngành du lịch đối với sự phát triển của nền
kinh tế quốc dân và việc đánh giá đúng các tiềm năng để phát triển du lịch,
Đảng và nhà nước ta trong thời gian qua đã đưa ra những chính sách hỗ trợ
cho sự phát triển của ngành du lịch. Trong thời gian qua du lịch Việt Nam đã
có những thành tựu và những tiến bộ vững chắc.
Ngay từ những năm mới thành lập, trong điều kiện chiến tranh, cơ sở
vật chất còn thiếu thốn, đội ngũ cán bộ còn ít, trình độ nghiệp vụ hạn chế,
ngành du lịch đã có nhiều cố gắng, đáp ứng nhu cầu phục vụ các đoàn khách
của đảng, nhà nước và các đoàn khách quốc tế.
Sau ngày thống nhất đất nước năm 1975, phạm vi mở rộng trên toàn
quốc, tăng cường phát triển nhân lực, cơ sở vật chất kĩ thuật dần được cải
thiện, đa dạng hoá hình thức hoạt động, từng bước du lịch khẳng định được vị
trí, vai trò của một ngành kinh tế tổng hợp. Nhờ vậy mà ngành du lịch có thể
nhanh chóng thích nghi được và phát triển một cách năng động trong quá
trình chuyển đổi cơ chế của thời kỳ mới. Đảng và nhà nước đã có sự quan tâm
và quyết tâm đưa ngành du lịch Việt Nam phát triển thành ngành kinh tế mũi
nhọn. Từ những đề xuất của ngành, ban chỉ đạo nhà nước về du lịch được
thành lập do một phó thủ tướng làm trưởng ban. Đồng thời thủ tướng chính
phủ cũng phê duyệt “chương trình hành động quốc gia về du lịch” và triển
khai khá hiệu quả từ năm 2000 đến nay. Một loạt các văn bản pháp lý như:
pháp lệnh du lịch, các nghị định hướng dẫn thi hành và gần đây nhất là luật du
lịch được thông qua và đưa vào thực hiện. Bên cạnh đó ngành còn tiến hành
nghiên cứu, xây dựng chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển du lịch đất
nước, các vùng du lịch trọng điểm, và hơn 50 tỉnh, thành phố. Nhờ vào sự
đồng bộ về cơ chế chính sách, môi trường pháp luật đã tăng cường nguồn lực
đầu tư phát triển du lịch, cơ sở hạ tầng, nhân lực và nâng cao nhận thức xã hội
đối với du lịch.
Những thành tựu của ngành du lịch trong thời gian qua đã được phản
ánh phần nào qua những con số. Số lượng khách du lịch vào Việt Nam ngày
càng tăng, doanh thu về du lịch, thu nhập xã hội từ du lịch và nộp vào ngân
sách nhà nước có mức tăng trưởng cao, không thua kém các ngành kinh tế
hàng đầu đất nước. Từ năm 1996 đến 2005, lượt khách quốc tế đã tăng hơn
500 ngàn lượt người lên 3,33 triệu lượt người, tăng 7,8 lần. Khách du lịch nội
địa tăng từ 1,5 triệu lượt người lên 11,7 triệu lượt người, tăng gấp 8 lần. Thu
nhập xã hội từ du lịch tăng nhanh, năm 2001 đạt 20500 tỷ đồng, so với năm
1991 gấp khoảng 9,4 lần. Hoạt dộng du lịch đã tạo 22 vạn lao động trực tiếp
và hàng vạn lao động gián tiếp giải quyết được phần nào nạn thất nghiệp ở
nước ta. Theo số liệu mới nhất, trong sáu tháng đầu năm 2006 ngành du lịch
Việt Nam đã đón nhận hơn 1,8 triệu lượt khách du lịch quốc tế. Ngành du lịch
Việt Nam đang rất tin tưởng vào mục tiêu đón 3,5 triệu lượt khách quốc tế
trong năm nay trở thành hiện thực.
Trong 5 năm qua, với nguồn vốn từ ngân sách nhà nước hỗ trợ phát
triển cơ sở hạ tầng lên tới 2141 tỷ đồng đã góp phần không nhỏ khuyến khích
các địa phương thu hút đầu tư du lịch dựa trên lợi thế từng vùng. Nhìn chung,
cơ sở hạ tầng có bước chuyển mạnh mẽ. Hiện nay, cả nước có hơn 5900 cơ sở
lưu trú với hơn 120 nghìn phòng. Phương tiện vận chuyển như đường bộ,
đường thuỷ, đường sắt, đường không được hiện đại hoá. Nhiều khu du lịch,
sân gôn, công viên chuyên đề và cơ sở vui chơi được đưa vào hoạt động và đủ
điều kiện đón hàng triệu khách mỗi năm. Tốc độ tăng trưởng của du lịch đạt
bình quân hơn 11%/năm cả về cơ sở hạ tầng, số lượng du khách.
Bên cạnh việc sử dụng một cách có hiệu quả nguồn vốn từ ngân sách
nhà nước, ngành du lịch còn tận dụng các nguồn vốn nước ngoài nhằm huy
động thêm nguồn lực cho sự phát triển của ngành. Năm 2006, nước ta đã có
thêm hai dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực khách sạn với tổng
số vốn đầu tư khoảng hơn 2 triệu USD, dự án bằng nguồn vốn ODA do EU
tài trợ là 11,8 triệu USD cũng là tín hiệu hứa hẹn cải thiện cơ sở hạ tầng và
nâng cao năng lực của ngành du lịch trong thời gian tới. Do nguồn vốn có hạn
nên ngành du lịch ưu tiên đầu tư phát triển các khu du lịch tổng hợp quốc gia
và khu du lịch chuyên đề. Đồng thời ngành có kế hoạch đẩy mạnh phát triển
du lịch đối với các địa bàn du lịch trọng điểm như: Hà Nội, Quảng Ninh,
Nghệ An, Huế…và các tuyến du lịch quốc gia, đầu tư phát triển bền vững
một số địa điểm: Hạ Long, Nha Trang, Đà Lạt, Hội An, Sa Pa…Việc đầu tư
của ngành trong thời gian qua đã có chiều sâu, có trọng điểm. Hệ thống tổ
chức được kiện toàn một bước, đội ngũ cán bộ tăng về số lượng và chất
lượng. Công tác đào tạo và bồi dưỡng nhân lực được đổi mới về cơ sở, trường
lớp, giảng dạy, thực hành, đội ngũ giáo viên, chương trình, giáo trình và
phương pháp đào tạo cùng với việc chú trọng nghiên cứu, ứng dụng khoa học.
Nhiều đề tài khoa học cấp nhà nước, cấp ngành được triển khai, tập trung vào
những vấn đề cấp thiết của ngành mang tính thực tiễn cao. Những tiến bộ trên
lĩnh vực này đã giúp đào tạo cho ngành 230 nghìn lao động trực tiếp có trình
độ chuyên môn và khoảng 500 nghìn lao động gián tiếp trên các lĩnh vực.
Đồng thời ngành du lịch không ngừng mở mang giao lưu với các nước
trên thế giới nhằm tăng tình đoàn kết, hợp tác, hữu nghị, xúc tiến thương
mại… nâng cao vị trí của nước ta trên trường quốc tế. Hiện nay, du lịch Việt
Nam quan hệ bạn hàng với hơn 1000 hãng du lịch. Trong đó có những hãng
lớn của hơn 60 nước, hiệp hội du lịch Châu Á- Thái Bình Dương. Nước ta
cũng đã ký hiệp định hợp tác du lịch với nhiều nước, chủ động tham gia hợp
tác du lịch tiểu vùng, liên khu vực…
Mặc dù những thành tựu mà ngành du lịch Việt Nam đã đạt được là
đáng kể, song nó đã thực sự tương xứng với tiềm năng du lịch của nước ta
chưa? Ngành du lịch cần phải có những bước đi, cách làm phù hợp để khắc
phục những hạn chế, để du lịch thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
4) Hạn chế của ngành du lịch Việt Nam trong thời gian qua
Một vấn đề đặt ra làm đau đầu các nhà lãnh đạo không chỉ ở trong
ngành du lịch là hoàn thiện hệ thống pháp luật. Có lẽ đây là một rào cản lớn
cho sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành du lịch Việt
Nam nói riêng. Chúng ta chưa có một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
hoàn chỉnh, thống nhất điều chỉnh việc tổ chức, kinh doanh, trách nhiệm,
quyền hạn, nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, địa phương, cá nhân tham gia
kinh doanh du lịch cũng như khách du lịch.
Bên cạnh đó, nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng quyết định đến
sự phát triển thì cho đến nay, chúng ta vẫn chưa đào tạo được đội ngũ nhân
viên du lịch (lái xe, tiếp viên, hướng dẫn viên…) có nghiệp vụ, có văn hoá,
biết ngoại ngữ đủ để đáp ứng yêu cầu của thị trường đang ngày càng tăng.
Hoạt động du lịch ngày càng đa dạng hoá về sản phẩm du lịch, loại hình du
lịch và chất lượng các sản phẩm du lịch. Điều này đòi hỏi đội ngũ lao động
phải không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ. Những người làm công tác
quản lý trong ngành du lịch có trình độ không đồng đều, một số chưa qua đào
tạo về quản lý doanh nghiệp du lịch. Tuy tiềm năng du lịch rất lớn nhưng hệ
thống cơ sở đào tạo du lịch còn quá ít. Điển hình như ở Hà Nội- một trung
tâm văn hoá- chính trị lớn của cả nước cũng chỉ có vài trường đào tạo du lịch
là trung học nghiệp vụ du lịch, khoa du lịch trường đại học khoa học xã hội và
nhân văn, khoa du lịch trường đại học văn hoá, khoa du lịch viện đại học mở
Hà Nội.
Trong khi nguồn nhân lực có chuyên môn, nghiệp vụ còn thiếu thì sự
sắp xếp bộ máy cán bộ không hợp lý, rườm rà gây ra lãng phí rất nhiều nhân
lực. Do đó, kiện toàn sắp xếp lại đội ngũ cán bộ là một đòi hỏi cần phải giải
quyết ngay.
So với các nước trên thế giới và các nước trong khu vực như Thái
Lan, Indonesia thì chúng ta đi sau các nước này đến gần hai thập kỷ về lĩnh
vực du lịch. Đầu tư về du lịch của chính phủ tuy đang cải thiện nhưng chưa
tương xứng với tiềm năng du lịch của nước ta. Một năm, chính phủ Thái Lan
bỏ ra gần 100 triệu USD để quảng bá du lịch quốc gia với trên 20 văn phòng
đại diện du lịch quốc gia ở nước ngoài. Còn chúng ta chưa có một văn phòng
đại diện nào cả. Chúng ta thiếu vốn để có thể đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng
một cách nhanh chóng. Chúng ta thiếu xe tốt, xe mới, thiếu khách sạn vào
những tháng cao điểm, chất lượng đường xá thấp, liên tục xảy ra ách tắc giao
thông, lề đường dành cho khách dạo bộ bị chiếm dụng.
Mặc dù tiềm năng du lịch ở Việt Nam là rất lớn song nếu chúng ta chỉ
biết dừng lại ở việc khai thác các tiềm năng tự nhiên hoặc có sẵn thì ngành du
lịch khó có thể phát triển ngang tầm với các nước trong khu vực và trên thế
giới. Nhưng đó lại chính là thực trạng của du lịch Việt Nam trong thời gian
qua. Chúng ta chưa tạo ra được các dịch vụ du lịch đi kèm. Do đó, chúng ta
chỉ giữ được khách trong một thời gian ngắn. Điển hình như ở Hạ Long- một
thắng cảnh được thế giới công nhận cũng chỉ giữ được chân khách trong 1
hoặc 2 ngày. Chúng ta có lợi thế là giá sinh hoạt rất rẻ nên việc Việt Nam trở
thành “thiên đường mua sắm” là điều chúng ta có thể làm được. Nhưng những
sản phẩm du lịch của Việt Nam chưa đa dạng, chất lượng chưa cao, chưa có
sự quản lý hệ thống các cửa hàng phục vụ khách quốc tế. Do đó, chúng ta
chưa thu được một lượng lớn ngoại tệ từ dịch vụ này.
Hiện nay, lượng khách du lịch quốc tế vào Việt Nam ngày càng tăng
và đây là điều đáng mừng của du lịch Việt Nam.
Song lượng khách quốc tế quay lại Việt Nam du lịch lại rất ít. Câu hỏi
đặt ra cho ngành du lịch Việt Nam là tại sao lại như vậy? Và làm thế nào để
khách du lịch quốc tế trở lại Việt Nam? Để là được điều này cần phải có sự
giúp sức của các ngành, để du lịch khắc phục được những hạn chế. Chúng ta
phải xây dựng một xã hội văn minh, lịch sự tránh tình trạng ăn xin bám lấy
khách, tranh giành khách, móc túi, lừa đảo, gây mất thiện cảm đối với du
khách. Ngành du lịch Việt Nam cũng cần phải có những biện pháp phù hợp
để giải quyết vấn đề này, để nó không trở thành vết đen của du lịch Việt Nam.
Trong khi một lượng lớn khách không quay trở lại Việt Nam lần thứ
hai, công tác quảng bá du lịch Việt Nam còn nhiều hạn chế nên chưa thực sự
đưa được hình ảnh Việt Nam đến được với bạn bè trên thế giới. Chúng ta chỉ
tập trung khai thác những thị trường cũ như khu vực Đông Á, Âu- Mỹ. Để du
lịch Việt Nam phát triển nhanh hơn nữa thì Việt Nam cần phải có một chiến
dịch quảng bá có chiều sâu, dài hơn vào thị trường khách trọng điểm. Nhưng
cho đến nay những việc mà ngành du lịch làm được chỉ đơn giản là đăng ký
hội trợ, kêu gọi các doanh nghiệp đăng ký rồi sau đó cử đoàn đi roadshow và
trưng bày tại hội chợ. Nên chú trọng thị trường nào thì cử tăng số lượng hội
chợ. Đơn cử như tại hội chợ ITB được tổ chức thường niên tại Đức, mặc dù
ngành du lịch Việt Nam tham gia khá đều đăn nhưng lượng khách Đức đến
Việt Nam trong thời gian qua cũng chẳng tăng được là bao nhiêu. Nếu so sánh
với các nước khác thì chiến lược của ta từ logo, đến cách phát động lễ hội, hội
chợ…còn thiếu sự sáng tạo, chiều sâu. Trước thực trạng này chúng ta cần
phải có sự học tập sáng tạo công nghệ quảng bá của nước ngoài, sử dụng loại
hình quảng bá mới…để mọi người biết đến Việt Nam như một điểm đến an
toàn, thân thiện, hấp dẫn.
Giải quyết được những hạn chế trên không chỉ là công việc của riêng
ngành du lịch mà đòi hỏi phải có sự giúp sức của các ngành, các cấp. Nó đòi
hỏi nhiều thời gian, tiền của nhưng chúng ta phải làm bởi lợi ích mà du lịch
mang lại còn lớn hơn nhiều. Trong những năm gần đây, Đảng và nhà nước đã
quan tâm để phát triển du lịch bền vững và trở thành ngành kinh tế mũi nhọn
của đất nước.
5) Nguyên nhân của những thành tựu, hạn chế của ngành du lịch
Việt Nam
5.1) Nguyên nhân của những thành tựu
Trong thế kỷ XXI, tình hình thế giới có những biến đổi sâu sắc với
những bước nhảy vọt chưa từng thấy về khoa học và công nghệ. Kinh tế tri
thức sẽ có vai trò ngày càng nổi bật trong phát triển lực lượng sản xuất. Toàn
cầu hoá là một xu thế khách quan, ngày càng có nhiều nước tham gia, hoà
bình, hợp tác và phát triển vẫn là một xu thế lớn phản ánh nguyện vọng và đòi
hỏi của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Trong bối cảnh đó, nhu cầu du lịch tăng
mạnh, du lịch thế giới phát triển nhanh với xu thế chuyển dần sang khu vực
Đông Á- Thái Bình Dương, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á. Đây thực sự là
cơ hội tốt cho du lịch Việt Nam phát triển.
Chính sách đổi mới, mở cửa và hội nhập của Đảng và nhà nước đã tạo
điều kiện thuận lợi cho kinh tế đối ngoại, trong đó có du lịch, phát triển. Đảng
và nhà nước quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo sát sao sự nghiệp phát triển du lịch
của đất nước. Du lịch được xác định là ngành kinh tế mũi nhọn trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Bên cạnh đó, Việt Nam là đất nước có tiềm năng lớn về du lịch, ngoài
những danh thắng đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới như
vịnh Hạ Long, cố đô Huế, phố cổ Hội An, thánh địa Mỹ Sơn, vườn quốc gia
Phong Nha- Kẻ Bảng, chúng ta còn thu hút khách du lịch nước ngoài bằng
hàng loạt địa điểm du lịch sinh thái kéo dài khắp ba miền tổ quốc với những
bờ biển đẹp. Ngoài những thắng cảnh đẹp, Việt Nam còn có rất nhiều các làng
nghề với các lễ hội mang đậm truyền thống văn hoá dân tộc.
Cùng với đó, Việt Nam ngày càng thu hút nhiều du khách nước ngoài
do giá cả sinh hoạt rẻ, do chính sách đối ngoại mở cửa của nhà nước, do kết
quả của hoạt động tuyên truyền quảng bá sản phẩm du lịch Việt Nam tới bạn
bè thế giới. Đặc biệt, nước ta có tình hình chính trị ổn định và an ninh trật tự
đảm bảo nên đã tạo được sự an tâm cho du khách khi đến với Việt Nam. Sau
hàng loạt các sự kiện quốc tế như sự kiện 11-9 ở Mỹ, vụ đánh bom ở khu du
lịch Bali (Indonesia), và hàng loạt các vụ đánh bom khủng bố ở nhiều nước
trên thế giới…gây hoang mang cho du khách nên những điểm đến an toàn là
lựa chọn số một của khách du lịch. Trong khi đó Việt Nam vẫn tiếp tục được
nhiều cơ quan nghiên cứu du lịch và thông tấn phương tây thừa nhận là “điểm
du lịch an toàn và thân thiện nhất khu vực Châu Á- Thái Bình Dương”. Đảng
và nhà nước ta đã không ngừng giữ vững an ninh, ổn định chính trị, có những
chính sách đúng đắn để phát triển nền kinh tế nói chung và ngành du lịch nói
riêng.
5.2) Nguyên nhân của những tồn tại
Nguyên nhân khách quan: Việt Nam vẫn là một nước nghèo đang từ
từ khôi phục nền kinh tế sau chiến tranh. Kinh tế Việt Nam gặp rất nhiều khó
khăn và tụt hậu rất xa so với các nước trên thế giới. Ngành du lịch Việt Nam
lúc bấy giờ còn non kém, trong thời điểm đó du lịch thế giới đã phát triển ở
một trình độ cao về nhiều mặt. Nhiều du khách đến những nơi của các nước
có nền du lịch phát triển cao bởi ở đó nhiều nhu cầu của khách được đáp ứng.
Ngành du lịch Việt Nam- một ngành còn non trẻ lại mở ra vào lúc thế giới có
nhiều biến động như nguồn viện trợ cho Việt Nam giảm, lượng du khách từ
thị trường Liên Xô cũ ít đi, Việt Nam còn chịu sự bao vây cấm vận…Dẫu biết
tiềm năng du lịch của Việt Nam là lớn nhưng trong điều kiện một nền kinh tế
chưa phát triển nên điều kiện để chuyển hoá tiềm năng đó thành sản phẩm du
lịch đa dạng, phong phú còn gặp nhiều khó khăn. Nó đòi hỏi phải có thời gian
để khắc phục.
Nguyên nhân chủ quan: công tác tổ chức và quản lý du lịch trong mọtt
thời gian dài không ổn định. Đội ngũ cán bộ ngành du lịch có mặt bằng kiến
thức chưa cao, vừa làm, vừa học, do đó không tránh được những sai sót. Kinh
nghiệm về quản lý, tổ chức trong du lịch kém. Cơ sở vật chất cho du lịch còn
thiếu, khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế không nhiều, thiếu đồng bộ không tạo
được sự thoải mái cho du khách.
CHƯƠNG III
NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN
NGÀNH DU LỊCH Ở VIỆT NAM
1) Mục tiêu, định hướng phát triển du lịch ở nước ta
1.1) Mục tiêu
Ngày nay, du lịch được nhiều nước coi là ngành kinh tế mũi nhọn.
Ngành du lịch đóng góp lớn vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân, giải
quyết được phần nào vấn đề thất nghiệp ở các nước. Theo nhận định của tổ
chức du lịch thế giới: Viễn cảnh du lịch khả quan, mục tiêu 2010 khách du
lịch quốc tế trên thế giới đạt 1 tỷ lượt người, thu nhập xã hội du lịch đạt
khoảng 900 tỷ USD, tạo ra 150 triệu chỗ làm việc trực tiếp, chủ yếu ở Châu
Á- Thái Bình Dương trong đó Đông Nam Á có vị trí quan trọng chiếm 34%
lượt khách và 38% du lịch của toàn khu vực.
Nhận thức được xu thế phát triển của ngành du lịch trong bối cảnh
trong nước và quốc tế, Đảng và nhà nước ta đã có những chủ trương chính
sách phù hợp. Ngày 11/11/1998, bộ chính trị có kết luận số 179/TB-TƯ về
phát triển du lịch trong tình hình mới. Nghị quyết đại hội IX của Đảng xác
định: phát triển du lịch thực sự trở thành
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng và giải pháp phát triển du lịch Việt Nam.pdf