Đề tài Thực trạng và giải pháp phát triển sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu của cây cà phê Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế

Mục lục

Chương I:Lời mở đầu. 1

Chương II. Nội dung đề tài. 2

II. Thực trạng của cây và hạt cà phê của Việt Nam. 2

1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ cà phê thế giới. 2

2. Thực trạng sản xuất- xuất khẩu cà phê của Việt Nam 4

3. Kết và thách thức với xuất khẩu cà phê Việt Nam. 12

II. Các nhân tố ảnh hưởng tới sản xuất- xuất khẩu cà phê của Việt Nam. 13

4. Các điều kiện tự nhiên. 13

5. Điều kiện về kinh tế xã hội. 14

IV. Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh sản xuất,xuất khẩu cà phê của Việt Nam. 15

1.Phương hướng 15

2. Nâng cao khả năng cạnh tranh. 17

3. Giải pháp thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu cà phê Việt Nam. 17

4. Đa dạng hoá sản phẩm, mẫu mã, bao bì, tăng cường các hoạt động tiếp thị. 27

5. Xây dựng các doanh nghiệp cà phê đạt tiêu chuẩn ISO về quản lý chất lượng sản phẩm. 28

6. Tăng cường tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu. Coi trọng thị trường trong nước, đáp ứng nhu cầu của khách du lịch. 30

7. Hoàn thiện hệ thống chính sách khuyến khích xuất khẩu cà phê trong những năm đầu hội nhập. 30

 

 

docx38 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4235 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp phát triển sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu của cây cà phê Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Rõ ràng như thế chúng ta nhượng lợi ích xuất khẩu cho người khác hứng. Kết và thách thức với xuất khẩu cà phê Việt Nam. Kết quả : Xuất khẩu cà phê đạt mức kỷ lục Theo bộ thương mại, xuất khẩu cà phê năm nay có cả nước có thể đạt tới 900000 tấn với kim ngạnh xuất khẩu 590 triệu $. Đây là mức xuất khẩu cao với kỷ lục trong vòng 30 năm trở lại đây ( tình từ 1975-> nay). Tính đế tháng 12, cả nước đã xuất khẩu được khoảng 800000 tấn cà phê, đạt kim ngạch 550 triệu $, tăng 44% so với cùng kỳ năm trước, giá xuất khẩu giảm trong khi đó giá thành sản xuất tăng do giá phân bón, giá điện tăng cao làm nhiều người trồng cà phê thua lỗ và nhiều doanh nghiệp cũng tạm ngừng mua hàng và xuất khẩu tiếp sẽ thua lỗ. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu cà phê 950 triệu $. Trung tâm thông tin thương mại cho biết, sau khi giảm nhẹ vào tháng 10, từ đầu tháng 11 đến nay, giá xuất khẩu đã tăng, loại 2 được giao dịch ở mức 1425-1430 $/tấn. Như vây, giá xuất khẩu cà phê của nước ta đã bám rất sát thế giới. So với mức chênh lệch có lúc lên đến trên 1400$/tấn hồi tháng 8, trên thị trường nội địa, giá mua cà phê nhìn chung vẫn ổn định. Theo dự báo, xuất khẩu cà phê Việt Nam năm 2006 sẽ đạt mức kim ngạch 950 triệu$, tăng trên 50% so với năm 2005. Đây là năm giá cà phê trở lại thời kì hoàng kim. Với mức tăng giá bình quân cao thứ 2 sau cao su, tăng tới 46,8%( tương ứng khoảng 370$/tấn) so với cùng kỳ năm trước Thách thức với xuất khẩu cà phê của Việt Nam. Trong vòng 20 năm trở lại đây, ngành cà phê đã có bước phát triển nhanh tróng. Đưa lượng cà phê tăng lên hàng trăm lần. Nguyên nhân chính dẫn đến thành tựu đó trước hết là nhờ những chính sách đổi mới của nhà nước phù hợp với nguyện vọng của nông dân là làm giàu trên mảnh đất của mình. Nguyên nhân khách quan: Đó là giá cà phê trên thị trường thế giới những năm gần đây diễn biến theo chiều hướng có lợi cho người sản xuất. Mặt trái của tác dụng đó là dẫn đến sự phát triển vượt quá các mục tiêu kế hoạch, ngoài tầm kiểm soát của ngành cà phê. Cả nước đã lên đến 520000 ha với sản lượng 850000 tấn. Đây là con số gây bất ngờ. Nó góp phần đáng kế vào cung cấp dư thừa cà phê trên thị trường, đẩy giá cà phê xuống thấp. Trong đó, ngành cà phê Việt Nam chịu nhiều thiệt thòi vì sản lượng càng lớn càng thua lỗ nhiều. Vậy thách thức với ngành cà phê đó là làm sao cân đối giữa lượng cung và lượng cầu, bình ổn giá cả, phát triển cây cà phê trở thành thế mạnh của Việt Nam, tạo niềm tin cho người trồng cà phê Việt Nam. II. Các nhân tố ảnh hưởng tới sản xuất- xuất khẩu cà phê của Việt Nam. Các điều kiện tự nhiên. Khí hậu. Nước ta có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, lượng mưa nhiều, độ ẩm không khí cao… thuộc vùng rất thích hợp với việc trồng cà phê. Vì vậy, phải biết cách tận dụng triệt để lới thế này. Môi trường sinh thái của Việt Nam khá phù hợp với việc phát triển của cây cà phê. Điều kiện tự nhiên của các vùng Tây Nguyên, Đông Nam Bộ cho phép phát triển cây cà phê một cách tập trung, chuyên môn hoá, tạo ra một vùng cà phê đảm bảo số lượng và chất lượng phục vụ tốt sản xuât và xuất khẩu. Đất đai. Đất nông nghiệp nước ta tuy hạn chế về diện tích ( khoảng 7,3 triệu ha đất nông nghiệp đang sử dụng), nhưng lại tương đối với về chất lượng, phong phú về chủng loại, thích hợp cho cây công nghiệp dài ngày nói chung và cà phê nói riêng. Điều kiện về kinh tế xã hội. Ngoài các điều kiện tự nhiên thuận lợi ra, chúng ta còn có những tiềm năng thế mạnh về kinh tế xã hội khá thuận lợi cho sản xuất và xuất khẩu cà phê. Mặc dù so với lịch sử phát triển ngành cà phê của thế giới thì ngành cà phê thuộc dạng trẻ xong do chú trong phát triển lên ngành cà phê Việt Nam đã đạt được những thành công nhất định. Việt Nam là nước với trên 70 % lao động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Đây là lợi thế trong sản xuất và xuất khẩu cà phê của Việt Nam. Hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực tạo ra thuận lợi và khó khăn Nhận thức được điều này, Chính phủ Việt Nam không ngừng cố gắng để gia nhập các tổ chức quốc tế nhằm tạo ra thuận lợi cho các mặt hàng xuất khẩu. Nhất là trong điều kiện hiện nay, khi mà Việt Nam đã trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO. Điều đó tạo ra thuận lợi khi tham gia vào thị trường quốc tế, tạo điều kiện cho xuất khẩu cà phê được thuận lợi từ đó có thể phát triển ngành cà phê đem lại thu nhập lớn cho nền kinh tế quốc dân. Bên cạnh thuận lợi đó thì thách thức và khó khăn của ngành cà phê Việt Nam cũng không nhỏ đó là những mặt hàng còn yếu khi tham gia vào thị trường thế giới như : chất lượng chưa cao, chưa có thương hiệu, marketing, quảng cáo còn kém. Đó gây ra thiệt hại không nhỏ cho ngành cà phê. Vấn đề đạt ra là chúng ta phải phát huy những thế mạnh của mình, từng bước khắc phục những hạn chế, nếu làm được điều đó chúng ta có thể tin tưởng rằng cà phê Việt Nam sẽ là một ngành phát triển mạnh với thương hiệu lớn trong thị trường quốc tế. IV. Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh sản xuất,xuất khẩu cà phê của Việt Nam. Phương hướng. Phát triển sản xuất phù hợp với điều kiện vùng và chất lượng ổn định. Trong điều kiện hiện nay, phương thức sản xuất và các sản xuất, chế biến với ngành cà phê là hết sức quan trọng và đây là vấn đền bức thiết hiện nay, nó có ý nghĩa quyết định đến chất lượng và sản lượng cà phê, giá trị xuất khẩu. Vì vậy, phương thức sản xuất phù hợp là rất quan trọng với ngành sản xuất nói chung và cà phê nói riêng. Chất lượng cũng vậy, nó có vai trò vô cùng to lớn trong tiêu thụ, xuất khẩu. nâng cao giá trị sản phẩm. Chất lượng được coi là yếu tố hàng đầu của cạnh tranh và là chìa khoá của thành công. Vì vậy, muốn nâng cao năng lực cạnh tranh của cà phê Việt Nam có nghĩa là chúng ta phải nâng cao chất lượng sản phẩm, từ đó tạo lòng tin, thương hiệu ở khách hàng từ đó chúng ta có thể đưa cà phê Việt Nam ta thị trường quốc tế với uy tín và chất lượng cao. 2. Nâng cao khả năng cạnh tranh. Mặc dù chi phí lao động của ngành cà phê Việt Nam tương đối thấp so với nhiều nơi khác vì GDP bình quân trên đầu người cũng thấp và năng suất cà phê Việt Nam cũng thuộc loại cao trên thế giới nhưng giá thành cà phê Việt Nam cũng chưa phải là thấp để tạo ra ưu thế cạnh tranh. Nguyên nhân chủ yếu là do người nông dân Việt Nam với mong muốn năng suất cao nhất đã đầu tư thêm phân bón, nước tưới lêm mức cao làm giảm hiệu quả của đầu tư và nâng cao giá thành sản xuất. Việc cần làm là tìm sự hiệu quả cao nhất trong đầu tư. Đổi mới công nghệ chế biến cà phê nâng cao chất lượng phừ hợp hơn với đòi hỏi của thị trường. Đồng thời chúng ta cũng phải chuyển sang áp dụng tiêu chuẩn Việt Nam về yêu cầu kĩ thuật đối với cà phê nhân xuất khẩu mà nội dung của nó là áp dụng bảng tính lỗi cho cà phê xuất khẩu. Đa dạng hoá sản phẩm cà phê khắc phục tình trạng đơn điệu chỉ có một loại cà phê vơi nhân sống mà chúng ta có thế đưa ra thị trường nhiều chủng loại cà phê. Mở rộng chủng loại cà phê không chỉ là nhân sống. 2.3. Đa dạng hoá thị trường tiêu thụ. Hiện nay cà phê Việt Nam được xuất sang trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ. Những bạn hàng lâu năm, đáng tin cậy còn chưa nhiều. Ngành cà phê Việt Nam còn chưa tham gia các thị trường kỳ hạn. Đó là các mặt còn non yếu của ngành cà phê Việt Nam. Vì vậy, đã đến lúc các nhà sản xuất cà phê Việt Nam cần có những biện pháp tuyên truyền, quảng bá cà phê Việt Nam trên thị trường quốc tế, để chúng ta có thể ký hợp đồng trực tiếp. 2.4. Coi trọng trường trong nước. Nước ta là một nước có truyền thống uống trà lâu đời, song ngày càng có nhiều người uống cà phê hơn vào những năm gần đây. Điều đó cho thấy, thị trường trong nước là một thị trường tiềm năng to lớn, cần được khai thác. Cùng với sự phát triển của xã hội thị nhu cầu giao lưu, du lịch ngày càng nhiều. Hàng năm có hàng triệu lượt du khách du lịch vào nước ta. Đây là cơ hội lớn cho chúng ta quảng bá sản phẩm của mình. Đây cũng là cơ hội để chúng ta tăng lượng tiêu thụ trong nước. Chính vì lẽ đó mà trong giai đoạn hiện nay, ngành cà phê cần phối hợp vơi các ngành có liên quan nhằm nâng cao uy tín, tạo cơ hội để ngành cà phê có thể tiếp cận với khách hàng quốc tế một cách dễ dàng hơn. 2.6. Xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế (ISO) để phù hợp với xuất khẩu, xu thế hội nhập, nâng cao năng lực cạnh trạnh. Trong điều kiện hiện nay, Việt Nam đã là một thành viên của nhiều tổ chức lớn như : APEC, WTO, ASEAN…, Đó cũng là cơ hội và cũng là thách thức với nhiều ngành hàng Việt Nam khi tham gia vào thị trường và ngành cà phê cũng không nằm ngoài số đó. Đối với việc gia nhập thị trường đó thì chất lượng được coi là yếu tố hàng đầu trong năng lực cạnh tranh. Vì vậy, chúng ta cần chú trọng tới chất lượng, như xây dựng các tiêu chuẩn chất lượng quốc tế, quảng bá sản phẩm để cà phê Việt Nam có đủ sức đứng vững trong thị trường đầy tiềm năng. 3. Giải pháp thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu cà phê Việt Nam. 3.1. Áp dụng những biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm trong sản xuất. + Củng cố và cải tạo giống cà phê hiện có. Chất lượng cà phê trước hết phụ thuộc vào giống cây cà phê, vì vậy muốn nâng cao chất lượng cà phê xuất khẩu thì công tác giống là biện pháp quan trọng hàng đầu. Trong thời gian do quá chú trọng vào việc nâng cao năng xuất và sản lượng người sản xuất đã không chọn lọc kĩ giống trước khi đem trồng. Kết quả cho thấy hiện nay chúng đang có những vườn cà phê có năng suất cao, song chất lượng lại thấp không đủ tiêu chuẩn xuất khẩu. Để làm tốt công tác giống nhằm nâng cao chất lượng cà phê chúng ta cần có những biện pháp và hướng đi sau: Trước hết ngành cà phê cần tiến hành quy hoạch và ra soát kỹ các giống cà phê hiện có, phân loại cà phê phù hợp với điều kiện tự nhiên và điều kiện chăm sóc của từng vùng, đưa thêm những giống mới có chất lượng tốt dù năng suất không cao hơn giống hiện có. Tiếp tục đầu tư và nâng cấp Viện nghiên cứu cây nhiệt đới, các trạm nghiên cứu thực nghiệm ở những vùng trồng cà phê. Tăng cường công tác đào tạo cán bộ kỹ thuật, phổ cập rộng rãi các hình thức khuyến nông tới người nông dân. Hiện nay miền Bắc đang tiến hành trồng cà phê ở giai đoạn đầu, ngay từ bây giờ ngành cà phê cần tiến hành kiểm tra chất lượng giống trước khi đưa vào trồng, để tránh cho sau nay cho sản phẩm vừa kém chất lượng và chống chịu sâu bệnh kém. Đầu tư công tác tìm kiếm, lai tạo và nhập nội những giống có chất lượng cao. Cũng như các loại cây công nghiệp lâu năm khác, việc chọn giống cà phê đòi hỏi phải có thời gian dài, có khi đến chục năm. Do đó nến không có biện pháp ngay từ đầu thì sẽ tốn rất nhiều công sức và tiền của đồng thời ảnh hưởng đến chất lượng cà phê xuất khẩu. Việc đầu tư và chọn giống cà phê mở ra một triển vọng lớn trong việc trồng cà phê góp phẩn nâng cao năng suất và chất lượng cà phê. Trong những năm gần đây có một số công trình lai tạo và chọn giống mới của một số nước cho kết quả khả quan tạo điều kiện tiền đề cho việc đổi mới giống cà phê ở một số quốc gia. Hiện nay, viện nghiên cứu cà phê Eakmat đã tuyển chọn và nâng cao chất lượng của một số loại cây Catimor có khả năng kháng hầu hết các chứng sinh lý và bệnh rỉ sắt ở cà phê Việt Nam. Với kỹ thuật trồng dầy, chu kỳ kinh doanh ngắn, giống cà phê có thể hạn chế được sâu đục thân phá hoại. Như vậy, chọn và lai tạo giống là một trong những biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng cà phê. Có thể coi đây là khâu quan trọng đầu tiên trong nâng cao tổng sản lượng và chất lượng cà phê xuất khẩu. Hiện nay có tới 29 loại cà phê kháng bệnh cao đã và đang được theo dõi và lựa chọn đưa vào sản xuất. Việc tuyển chọn và lai tạo giống không những đòi hỏi khắt khe về năng xuất và sản lượng, chất lượng mà còn đòi hỏi giống phải mang những đặc tính di truyền tốt. Vì vậy cần phải tăng cường đầu tư và phối hợp với viện nghiên cứu Eakmat, với các trung tâm nghiên cứu tốt trong điều kiện khí hậu nước ta góp phần tăng sản lượng cà phê trong thời gian tới. + Đẩy mạnh thâm canh với diện tích cà phê hiện có. Trong thập kỉ 80 và đầu thập niên 90 việc mở rộng diện tích cây cà phê diễn ra ồ ạt. Cũng có lúc chúng ta phải mở rộng diện tích gieo trồng lại lo lắng đầu tư thâm canh trong điều kiện hạn chế về vốn. Vì vậy trình độ thâm canh còn thấp. Năng suất cà phê không đồng đều và chưa cao so với khả năng thực tế. Chính vì vậy, phải đánh giá lại chất lượng vườn cây hiện có, thanh lý những diện tích vườn cây kém hiệu quả, tập trung đầu tư vào vườn cây có hiệu quả cao để nâng cao năng suât và chất lượng sản phẩm. Về hướng đầu tư thâm canh trong thời gian tới cần tập trung vào những vấn đề cơ bản sau: + Tập trung giải quyết vấn đề phân bón cho thâm canh, phải kết hợp trồng trọt với chăn nuôi để bổ xung thêm nguồn phân xanh, tăng cường sản xuất và nhập khầu phân vô cơ, chú ý mở rộng hệ thống dịnh vụ kịp thời đáp ứng yêu cầu phân bón cho thâm canh cà phê, sử dụng kỹ thuật tiên tiến bảo đảm cho cây cà phê phát triển tốt, tiết kiệm và sử dụng phân bón hóa học thuốc trừ sâu. + Tập trung giải quyết vấn đề nước tưới cho cây cà phê. Đảm bảo biện pháp tưới nước vừa tiết kiệm nguồn nước sạch, bảo vệ môi trường vừa tiết kiệm được chi phí tưới. Đây là một trong khó khăn của hai vùng cà phê lớn nhất nước ta hiện nay là Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Thực tế cho thấy việc đầu tư vào hai vùng này là rất lớn, song chưa đáp ứng được yêu cầu của cây cà phê và hiệu quả còn khiên tốn. Nguồn nước hiện nay còn đang thiếu nghiêm trọng, do thiên nhiên cũng như do bàn tay con người huỷ hoại. Nguồn nước ngầm cũng dần bị cạn kiệt bởi nguyên nhân này. Bên cạnh đó các thiết bị phục vụ như máy tưới, ống dẫn…. còn thiếu nên ảnh hưởng rất lớn tới năng suất cà phê. + Tập trung phòng trừ sâu bệnh cho cây cà phê. Thực tế cho thấy sự phá hoại của sâu bệnh có tác hại lớn năng suất và sản lượng cũng như chất lượng cà phê. Đặc biệt khi quy mô sản xuất được mở rộng thị càng phải có sự quan tâm đúng mức về sâu bệnh và cỏ dại. Nếu vấn đề này được giải quyết triệt để sẽ nâng cao được năng suất và chất lượng cà phê xuất khẩu. Hỗ trợ và khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đẩy mạnh thâm canh sản xuất vì hiện nay cà phê ngoài quốc doanh đã chiếm trên 80% diện tích cà phê của cả nước. Năm 1975 toàn quốc mới có 14000 ha cà phê, sản lượng dưới 5000 tấn, năng suất 4 tạ/ha thì niên vụ 1999 – 2000 diện tích cà phê kinh doanh đã tớn hơn 400 nghìn ha, năng suất bình quân 1,5 tấn/ha, sản lượng hơn 680 nghìn tấn. Hầu hết cà phê được trồng trong các hộ gia đình quy mô vườn từ 0,5 đến 1 ha đang ở độ tuổi sung sức, có năng suất khá cao, tập trung thành các vùng lớn ở Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ và một số tỉnh trung du miền núi phía Bắc. Trong điều kiện khí hậu nhiệt đới, nóng ẩm mưa nhiều, môi trường sinh thái có sự thay đổi lớn, sâu bệnh dễ phát triển và dễ dàng trở thành dịch. Mấy năm nay sâu bệnh đã phát triển gây hại ở một số nơi cần tập trung chữa trị dứt điểm để tránh thành dịch lan rộng gây thành nạn lớn gây hại như ở một số nước. Mặt khác cũng cần ngăn chặn những khuynh hướng bóc lột vườn cây như sử dụng phân hoá học quá nhiền, lạm dụng chất kích thích, bón phân quá nhiều… để thúc đẩy ra hoa quả nhiều để có năng suất cao tromg một vài năm nhưng sau đó vườn cây lại tróng lụy tàn cho hiệu quả kinh tế kém. Vài năm gần đây khi giá cà phê còn ở mức cao cộng với giá vật tư ở mức thấp nên việc bón phân, chất kích thích nhiều hầu như đã trở thành lệ với các hộ trồng cà phê ở một số vùng. Đây là tiền lệ rất nguy hiểm bởi khi giá cà phê xuống thấp mà vẫn bón phân như vậy thì tất yếu làm giá thành sản phẩm cà phê nâng cao một cách tương đối so với thị trường. + Tích cực phát triển cà phê chè, ổn định cà phê vối. Nước ta có điều kiện thuận lợi để phát triển cà phê vối và cà phê chè có năng suất và chất lượng cao. Những điều kiện đó đã tạo cho Việt Nam một lợi thế so sánh: có thể sản xuất cà phê hàng hoá có chất lượng cao và giá thành hạ để cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Mặt khác cũng phải thấy rằng thị trường cà phê quốc tế không phải đã ổn định. Nhu cầu tiêu dùng cà phê vẫn tăng lên hàng năm, nhiều thị trường mới được khôi phục và mở rộng. Tuy giá cà phê đã giảm xuống trong 2 năm trở lại đây song giá cà phê chè lại không có xu hướng giảm mạnh như cà phê vối, còn các nước sản xuất cà phê thì điều kiện thời tíêt khí hậu không bình thường và nhiều nguyên nhân khác cũng gây lên khó khăn trong cung ứng cà phê chè. Vì vậy nước ta có thể và cần phải mở rộng thêm diện tích cà phê chè. Năm 2001 nước ta có khoảng 550000 ha cà phê trong đó có khoảng 100000 ha cà phê chè, tổng sản lượng là 850000 tấn và kim ngạch xuất khẩu khoảng 1,2 tỉ $. Theo hướng này công tác quy hoạch khảo sát thiết kế các vùng trồng mới phải được tiến hành trước một bước và bố trí các mô hình sản xuất thực nghiệm nhằm xác đinhj cơ cấu phù hợp. Thực hành khuyến nông giúp cho nông dân làm quen dần tiến tới nắm chắc các vấn đề kinh tế và kĩ thuật sản xuất cà phê chè. Đối với cà phê vối, cần ổn định diện tích hiện có ở Tây Nguyên, không mở rộng diện tích trồng mới trong thập niên đầu thế kỉ 21 và cần lấy thâm canh tăng năng suất làm định hướng chính. 3.2. Nâng cao năng lực chế biến cà phê. Do nhiều hạn chế về trình độ khoa học công nghệ, thiếu vốn đầu tư, so thiếu sự nhanh nhạy và linh hoạt trong tư duy dẫn đến công nghệ chế biến cà phê nước ta còn thấp. Nguyên nhân này cũng đã trực tiếp gây ra tình trạng chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam không cao làm thất thoát một giá trị rất lớn của cà phê xuất khẩu nước ta. Nhằm nâng cao chất lượng cà phê xuất khẩu cần tới ngành cà phê cần có những biện pháp: Tạo điều kiện để các dây chuyền sản xuất hiện tại có hoạt động hết công suất, mặc dù giá thành cao nhưng vấn đề là cần phải đặt chất lượng lên hàng đầu. Trong tương lai chất lượng cà phê mới chính là nhân tố quan trọng nhất quyết định sự thành công của ngành cà phê. Ngành cà phê cần phối hợp với các cơ quan khoa học tiến nhanh nghiên cứu chế tạo dây chuyền công nghệ chế biến sản phẩm cà phê trong nước đề làm hạ giá thành cà phê chế biến, nâng cao năng lực chế biến cà phê xuất khẩu của Việt Nam, vì hiện nay các dây chuyền chế biến có giá rất cao. Nhà nước cần hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp đầu tư công nghệ chế biến. Các doanh nghiệp cố gắng khắc phục tình trạng khó khăn sử dụng nguồn vốn vay và tự đầu tư sâu hơn vào công tác chế biến, đa dạng các sản phẩm có sử dụng nguyên liệu cà phê như: bánh kẹo, rượu, sữa và các dạng cà phê khác. Nâng cao tỷ lệ cà phê xuất khẩu đã qua chế biến. Công nghệ chế biến phát triển sẽ làm tăng chất lượng cà phê xuất khẩu từ đó tạo điều kiện nâng cao kim ngạnh xuất khẩu. Cải thiện và nâng cao chất lượng từ các khâu sản xuất - chế biến - bảo quản đến tiêu thụ sản phẩm. Nó có liên quan mật thiết đến nguyên liêuh thiết bị chế biến cũng như tổ chức bộ máy chỉ đạo và quản lý chất lượng sản phẩm. Vì vậy cần đẩy mạnh công nghệ chế biến nâng cao chất lượng cà phê xuất khẩu cần phải có sự phối hợp nghiên cứu và thực hiện đồng thời các yếu tố liên quan ở trên. Nguyên liệu chế biến: Để nguyên liệu đạt tiêu chuẩn cần có những biện pháp sau: Quy hoạch vùng nguyên liệu tập trung, có điều kiện phù hợp với sinh trưởng của cây cà phê. Vùng nguyên liệu phải được thâm canh cao, chọn lọc giống tốt, chất lượng đồng đều để đáp ứng nhu cầu của thị trường và công nghiệp chế biến. Hướng dẫn nông dân kỹ thuật thu hái và sơ chế bảo quan và phương thức vận chuyển để giảm thiểu tổn thất về số lượng cũng như chất lượng sản phẩm dành cho chế biến. Tạo mối liên kết giữa người nông dân và công nhân, quá trình trồng và chế biến cà phê trong các tổ chức hợp tác nhằm điều hoà loại ích các bên. Từ đó tạo vùng nguyên liệu vững chắc phát triển ổn định lâu dài đảm bảo cho nhà máy chạy hết công suất và hiệu quả cao nhất trong sản xuất kinh doanh. Thiết bị chế biến: Xuất khẩu cà phê trong những năm quan đem lại nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước. Tuy nhiên theo các chuyên gia cho rằng do thiếu vốn đầu tư trong khâu chế biến nên cà phê Việt Nam chưa đạt được vị trí của nó trên thị trường thế giới. Có thể nói trong những năm qua, diện tích và sản lượng cà phê có sự gia tăng mạnh mẽ, nhưng trình độ chế biến sản phẩm cà phê không cao một cách tương ứng. Trong những năm qua, do bị tác động trước sự bùng nổ về sản lượng cà phê nên trang bị kĩ thuật thường gặp tình trạng chắp vá, không đồng bộ lên ảnh hưởng xấu đến chất lượng cà phê. Cà phê chế biến trong các hộ gia đình với công nghệ đơn giản là xấy khô, xát vỏ bằng những thiết bị thủ công, không đúng quy cách tiêu chuẩn. Để đảm bảo yêu cầu tối thiểu trong chế biến theo phương pháp phơi khô tự nhiên, phải có 3 ha sân phơi khô cho 100 ha cà phê, song bình quân cho một vùng chế biến chỉ có từ 0,5 đến 0,8 ha/100 ha. Người trồng cà phê đôi khi hái quả xanh và quả chín lẫn lộn nhau, đa số các hộ không có sân phơi dẫn đến họ phải phơi cà phê trên cả đất, đường đi khiến những tạp chất lẫn trong cà phê. Để đáp ứng liên hoàn công nghệ chế biến sản phẩm, chúng ta cần xây dựng đồng bộ cơ sở vật chất kĩ thuật chế biến. Hiện nay, đại bộ phận cà phê được chế biến khô, ướt bằng các thiết bị có khí sản xuất trong nước trang bị đến tận các nông trường, hộ nông dân như máy xát ướt tươi khô và ướt liên hoàn kiêm đánh nhớt lò sấy. Theo thông tin mới nhất từ hiệu hội Cà phê – Ca cao Việt Nam, việc đầu tư cho công nghệ chế biến cà phê sẽ được nhận một phần vốn đầu tư ưu đãi 42 triệu $ của cơ quan phát triển Pháp (AFD) trọng việc trồng mới 40000 ha cà phê chè. Theo số liệu từ tổng công ty cà phê ( Vinacafe), đến nay cả nước có 7 dây truyền chế biến cà phê được coi là hiện đại, sử dụng thiết bị của hãng Pinhanelse ( Brazil) có công xuất từ 1,8 đến 2,5 tấn /giờ. Những dây truyền này được lắp đặt ở 7 nông trường cà phê Việt Đức của tỉnh Đắc Lắc, được mua từ vốn tài trợ của Đức với số tiền đầu tư là 1,2 triệu $. Được biết Vinacafe cũng đang tiến hành đàm phán ký kết hợp đồng với hãng Pinhanelse ( Brazil) lắp đặt 3 dây truyền xát tươi và hệ thống sấy với giá trị 0,5 triệu $ cho một số đơn vị này tại Tây Nguyên. Cà phê hoà tan chế biến duy nhất lại Biên Hoà (Đồng Nai) với dây truyền chế biến cà phê hoà tan nhất là 800 tấn/năm của tổng công ty cà phê Việt Nam vay vốn cũng như nhập thiết bị của Đan Mạch. Trong chế biến sản phẩm cà phê, nên lựa chọn những dây truyền có quy mô vừa và nhỏ nhưng công nghệ thiết bị hiện đại. Kinh nghiệm cho thấy thị trường tiêu thụ cà phê là các nước công nghiệp phát triển. Do đó nên nhập công nghệ chế biến của chính nước sở tại. Việc nhập đó có thể thông qua các hợp đồng liên doanh do các đối tác đầu tư thiết bị đồng thời họ chịu trách nhiệm bao tiêu sản phẩm. Đây cũng là phương thức thu hút đầu tư nước ngoài. Đồng thời chính bản thân ngành cơ khí nước ta cũng nên dựa vào các tiêu chuẩn cụ thể của quy trình chế biến của từng loại cà phê đòi hỏi mà nghiên cứu chế tạo và cải tiến các loại máy móc thiết bị sản xuất quy mô nhỏ để cung cấp cho các hộ nông dân do cà phê ở nước ta được trồng nhiều theo quy mô hộ gia đình thì giải quyết máy xay sát đúng quy cách. Hiện nay nhiều nơi đã chế tạo và cải tiến các máy xát cà phê nhưng máy không đủ tiêu chuẩn nên cà phê vỡ hạt nhiều. Do đó các nhà chế tạo máy Việt Nam cần quan tâm hơn đến chế tạo máy tốt, bền, rẻ và hợp với khả năng sử dụng của người nông dân. Với cà phê chè chế biến ướt cần nghiên cứu máy say xát tươi để tránh khâu lên men, có thể sử dụng máy liên hoàn và vừa xát tươi vừa đánh sạch nhớt. Đối với những vùng quy hoạch hay có mưa, khó phơi khô thì cần trang bị máy sấy nhỏ sử dụng than hoặc dầu. Tuy nhiên cần loại bỏ triệt để những nhiên liệu ám khói ảnh hưởng đến chất lượng cà phê. Các nhà nghiên cứu cũng cần nghiên cứu những mẫu máy có chất lượng tốt, phù hợp và giá rẻ để nhập một số về làm mẫu bắt chước sản xuất. Do nhu cầu về máy nhỏ là khá lớn nên khuyến khích các nhà chế tạo trong nước đầu tư sản xuất để giảm chi phi ngoại tệ cho việc nhập khẩu máy móc thiết bị. Xây dựng những mô hình chế biến phù hợp. Xây dựng những nhà máy lớn, hoàn chỉnh với công suất phù hợp ở những vùng cà phê trọng điểm. Theo tình hình sản xuất cà phê hiện nay thì máy có công suất 5000 – 10000 tấn cà phê nhân/năm là tương đối phù hợp. Những tỉnh trọng điểm cần trang bị nhà máy chế biến là Sơn La, Quảng Trị, Yên Bái. Trong một vài năm tới cần trang bị nhà máy chế biến lớn ở các địa phương khác như Nghệ An, Tuyên Quang, Lạng Sơn… Với các công ty xuất khẩu lớn như Vinacafe, Inexin Đắc Lắc… Cần trang bị những máy móc hoàn chỉnh để bảo đảm chất lượng cà phê xuất khẩu. Với một số tỉnh có diện tích khoảng 5000 ha thì cần có một nhà máy hoàn chính khâu phân loại, sản xuất, đóng bao. Nhà máy cần có tổ chức kiểm tra chất lượng sản phẩm để đảm bảo chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn nhà nước ban hành. Nhà máy của tỉnh chủ yếu đảm nhận khâu xay xát khô cà phê vỏ hoặc cà phê thóc khô. Nếu có trang bị xát tươi phải đảm bảo cà phê quả tươi thu hái vận chuyển được ngay trong ngày, không được ủ đống gây thối ủng. Với những diện tíc cà phê tương đối lớn ( khoảng 100 ha) của một làng, một xã, một vùng nào đó có thế tổ chức thành trạm chế biến với các thiết bị xát tươi liên hoàn kiêm đánh nhớt, lò sấy, sân phơi. Phương án tốt nhất là nên tổ chức các hợp tác xã chế biến. Ngoài những doanh nghiệp có trang bị tốt như tổng công ty cà phê Việt Nam ( Vinacafe) cần quan tâm cung cấp công ng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxThực trạng và giải pháp phát triển sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu của cây cà phê Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế.docx
Tài liệu liên quan