Đề tài Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu lao động sang Đài Loan của Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại

Lời mở đầu.1

Chương I: Lý luận chung về xuất khẩu lao động.3

 I. Nội dung của xuất khẩu lao động.3

 1. Một số khái niệm cơ bản.3

 2. Các hình thức xuất khẩu lao động.6

 2.1. Thông qua doanh nghiệp Việt Nam được phép cung

 ứng lao động theo hợp đồng ký kết với bên nước ngoài.6

 2.2. Thông qua doanh nghiệp Việt Nam nhận thầu, nhận

khoán công trình hoặc đầu tư ở nước ngoài.6

2.3. Theo hợp đồng lao động do cá nhân người lao động

ký kết với người sử dụng lao động ở nước ngoài.7

 3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của xuất khẩu lao động 7

 3.1. Lợi ích kinh tế đạt được 8

 3.2. Chi phí bỏ ra 11

 II. Vai trò của xuất khẩu lao động đối với sự phát triển kinh tế.12

 1. Xét trên góc độ vĩ mô.12 1.1. Đối với nước xuất khẩu lao động.12

 1.2. Đối với nước nhập khẩu lao động.13

 2. Xét trên góc độ vi mô.14

 2.1. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu lao động.14

 2.2. Đối với bản thân người lao động.14

 III. Một số kinh nghiệm của Phillipine về xuất khẩu lao động.14

 1. Khuôn khổ pháp luật trong lĩnh vực xuất khẩu lao động.14

 2. Việc cấp giấy phép kinh doanh.15

 3. Hệ thống thưởng phạt.16

 4. Các dịch vụ cung cấp cho người lao động làm việc ở nước ngoài.16

 5. Vấn đề tạo uy tín về chất lượng lao động.17

 6. Hiệp hội các doanh nghiệp và phương thức hoạt động.18

 

Chương II: Thực trạng xuất khẩu lao động ở

Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại.19

 I. Thị trường lao động Đài Loan.19

 1. Giới thiệu đất nước Đài Loan.19

 2. Thực trạng lao động nước ngoài tại Đài Loan.20

 3. Chính sách của Đài Loan đối với lao động nước ngoài.22

 3.1. Thời hạn hợp đồng.22

 3.2. Tiền lương.22

 3.3. Chi phí ăn ở của lao động nước ngoài làm việc tại Đài Loan.22

 3.4. Bảo hiểm.22

 3.5. Thuế thu nhập.23

 3.6. Giờ làm việc.23

 3.7. Quan hệ giữa người lao động và chủ sử dụng lao động.23

 3.8. Nghỉ phép, nghỉ lễ và nghỉ việc.23

3.9. Những trường hợp không được cấp giấy phép lao động và

cho thôi việc.24

3.10. Đổi nơi làm việc.24

 II. Thực trạng xuất khẩu lao động của Việt Nam.25

 1. Số lượng và cơ cấu xuất khẩu lao động.25

 1.1. Số lượng lao động xuất khẩu.25

 1.2. Cơ cấu lao động xuất khẩu.28

 1.2.1. Cơ cấu lao động xuất khẩu theo giới tính.28

 1.2.2. Cơ cấu lao động xuất khẩu theo ngành nghề.29

 2. Chất lượng lao động xuất khẩu.30

 2.1. Về sức khoẻ.30

 2.2. Về tác phong.30

 2.3. Về trình độ, tay nghề.30

 3. Hình thức và các tổ chức tham gia xuất khẩu lao động.30

 3.1. Hình thức xuất khẩu lao động.30

 3.2. Các tổ chức tham gia xuất khẩu lao động.31

 III. Thực trạng xuất khẩu lao động của

 Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại.32

 1. Kết quả hoạt động xuất khẩu lao động.33

 2. Về số lượng, cơ cấu và thị trường xuất khẩu lao động.35

 3. Những thuận lợi và khó khăn trong hội nhập và cạnh tranh trên

thị trường lao động quốc tế.40

 3.1. Thị trường lao động thế giới và yêu cầu của nước tiếp

nhận lao động.40

3.2. Khả năng cạnh tranh của lao động Việt Nam so với các

nước xuất khẩu lao động khác.41

 

Chương III: Phương hướng và giải pháp chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu lao động ở

 Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại.43

 I. Đánh giá chung tình hình xuất khẩu lao động của Việt Nam.43

 1. Về phát triển thị trường .43

 1.1. Malaysia 44

 1.2. Đài Loan 45

 1.3. Hàn Quốc 45

 

doc88 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1757 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp thúc đẩy xuất khẩu lao động sang Đài Loan của Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đối tác: Có trường hợp đối tác khó khăn về vốn, thiếu việc làm, chậm trả lương cho người lao động, thiếu am hiểu hoặc không tuân thủ luật pháp, ỷ thế " ông chủ" để gây sưc sép trong việc thực hiện hợp đồng lao động, làm khó dễ cho người lao động...Điều này đã dẫn đến việc bên cung ứng lao động phải tốn kém rất nhiều để giải quyết các vụ việc đó. Hai là, rủi ro từ phía người lao động: Thực tế cho thấy bên cung ứng lao động đã từng bị thất thu nặng nề do một bộ phận không nhỏ lao ddộng ra nước ngoài làm việc không thực hiện đúng thoả thuận và cam kết, đã tự ý bỏ hợp đồng trước thời hạn, tìm nơi làm việc cho chủ khác. Bên cung ứng lao động vừa bị đối tác phạt tiền, vừa mất đi khoản phái dịch vụ được thu theo quy định của Nhà nước. 3. Những thuận lợi, khó khăn trong hội nhập và cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế: 3.1. Thị trường lao động thế giới và yêu cầu của các nước tiếp nhận lao động: Hiện nay hoạt động xuất khẩu lao đông hay còn gọi là di cư lao động quốc tế ngày càng trở nên phổ biến tại mọi quốc gia trên thế giới. Theo Tổ chức Lao động quốc tế hiện có khoảng 60 nước có di cư và xuất khẩu lao động, làm việc ở nước ngoài với tổng số gần 120 triệu người trong đó các nước Châu á chiếm khoảng 50%. Tất cả các quốc gia xuất khẩu lao động đều nhận thức được vai trò của xuất khẩu lao động trong chiến lược phát triển của mình, do đó đều có đặc điểm chung là xây dựng một hệ thống chính sách, luật lệ, quản lý Nhà nước nhằm tăng cường xuất khẩu lao động trên quy mô lớn. Bên cạnh đó, để cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường lao động quốc tế, các nước đều cố gắng phát huy lợi thế của mình, khiến cho hình thức và cách tiến hành xuất khẩu lao động hết sức phong phú và đa dạng. Nếu như dịch vụ giúp việc gia đình là thế mạnh của lao động Phillipine ( chiếm gần 1/2 trên tổng số lao động ở nước ngoài) thì xuất khẩu lao động theo công trình trúng thầu là thế mạnh của Trung Quốc. Một số nước lại cùng một lúc vừa xuất khẩu vừa nhập khẩu lao động như Thái Lan, ấn Độ mỗi năm đưa khoảng 50.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài, trong đó khuyến khích xuất khẩu lao động có trí thức, tay nghề cao (30% lực lượng lao động ở khu vực công nghệ cao - thung lũng Silicon của Mỹ là người có quốc tịch hoặc gốc ấn Độ), nhưng ấn Độ cũng nhập cư hàng chục nghìn lao động người Nepal, Bangladesh. Nhiều sinh viên thanh niên Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan sang Mỹ, Tây Âu, australia, New Zealand để du học và tìm việc trong khi đất nước họ lại tiếp nhận lao động từ các nước Châu á khác đến làm việc. Hầu hết các nước nhập khẩu lao động đều yêu cầu lao động giản đơn, tay nghề thấp là chủ yếu ( chiếm khoảng 80% tổng số lao động). Ngoài các tiêu chuẩn như tuổi đời phải còn trẻ ( thường không quá 35 tuổi), có sức khoẻ tốt người lao động phải chấp nhận mức thu nhập thấp. Lương cho người lao động ở nước ngoài được xác định theo cơ chế thở thuận trong hợp đồng, vì vậy thường thấp hơn mức lương tối thiểu và mức lương trả cho người bản địa với cùng một công việc, nhiều nước như Pakistan, Banladesh, Indonexia nhờ chấp nhận giá nhân công rất thấp, chỉ khoảng 150 USD/tháng hoặc Philipine chỉ quy định mức lương tối thiểu trong nước là 135 USD/tháng nên hành năm đưa được số lao động lớn và ổn định ra nước ngoài làm việc. Trong các loại hình lao động giản đơn thì lao động có tay nghề cơ khí, điện, lắp ráp điện tử, may mặc, y tá, giúp việc gia đình, thuyền viên...có nhu cầu khá cao đòi hỏi người lao động phải có trình độ tay nghề và ngoại ngữ nhất định. Đối với các ngành đỏi hỏi trình độ cao như tin học, vi sinh học... lao động của các nước đang phát triển ít có điều kiện thâm nhập vào thị trường các nước phát triển, nếu có thì thường là con đường nhập cư, du học rồi ở lại làm việc, ấn Độ là nước có kinh nghiệm và thành tích khá trong lĩnh vực này. 3.2. Khả năng cạnh tranh của lao động Việt Nam so với các nước xuất khẩu lao động khác: Chính phủ nhiều nước coi xuất khẩu lao động là chiến lược quốc sách lâu dài nên đều có chương trình quốc gia về xuất khẩu lao động. Thực hiện xã hội hoá triệ để, coi đây là công việc thường xuyên của xã hội. Thiết lập bộ máy quản lý Nhà nước hoàn chỉnh, bao gồm các cơ quan hữu trách, đại diện các công ty xuất khẩu lao động tại nước sở tại, một số nước cũng có tuỳ viên lao động ở các cơ quan đại diện ở nước ngoài. Hệ thống luật lệ và quy định minh bạch, chặt chẽ, nhưng cũng rất thông thoáng tạo chủ động cho người lao động và các doanh nghiệp. Chính phủ khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu lao động kể cả hình thức di cư, thăm thân nhân, tự tìm kiếm việc làm ở nước ngoài. Việc xã hội hoá xuất khẩu lao động ở Việt Nam còn hạn chế, thể hiện các khía cạnh: ít về số lượng và địa bàn chủ lực, nghèo về loại hình lao động, chưa triển khai mạnh mẽ và phổ cập các yêu cầu về kiến thức chuyên môn, tay nghề, ngoại ngữ, văn hoá, lối sống ở nước sở tại cho người lao động trước khi họ đi làm việc ở nước ngoài, chủ yếu là xuất khẩu thô, chưa khai thác, đầu tư cho xuất khẩu lao động có tay nghề cao như chuyên gia, kỹ sư máy tính, hoặc đi theo các công trình thầu... So với các nước khác, bộ máy tuyển dụng đưa lao động đi của Việt Nam còn nhiều phiền hà, chi phí để đi lao động ở nước ngoài còn quá cao, rất tón kém, đặc biệt đối với người nghèo, bao gồm nhiều khâu chi phí khác nhau như tiền làm thủ tục giấy tờ ( hộ chiếu, khám sức khoẻ, giấy tờ tư pháp...), tiền đặt cọc, chi phí đào tạo, thường lên tới hàng chục triệu đồng, do đó đã tạo ra gánh nặng vật chất, sức ép lên người đi lao động, phải tìm cách hoàn bù lại nhanh số tiền đã chi phí. Vì vậy, đã dẫn đến nhiều tiêu cực, vượt rào, vi phạm pháp luật nước sở tại của lao động. Trong khi đó, ngoài việc hỗ trợ đào tạo qua hệ thống các trung tâm đào tạo định hướng về ngoại ngữ, tay nghề trước khi đi, các nước xuất khẩu lao động khác còn có những hình thức hỗ trợ thiết thực cho người lao động như cung cấp thông tin miễn phí, cấp giấy phép nhanh với chi phí thấp (khoảng 100 USD cho cả thời kỳ lao động), không đánh thuế thu nhập đối với người lao động ở nước ngoài, miễn thuế chuyển tiền về nước, quy định giới hạn số tiền người lao động phải đặt cọc ở mức hợp lý, lập quỹ phúc lợi xã hội để hỗ trợ tư pháp, trợ giúp vật chất cho người lao động bị tai nạn, trả tiền vé về nước, phụ cấp cho gia đình họ khi gặp khó khăn...Việc áp dụng các chính sách khuyến khích xuất khẩu lao động rất linh hoạt trong từng hoàn cảnh, điều kiện cụ thể. Trên đây là những thuận lợi và khó khăn trong việc hội nhập và cạnh tranh trên thị trường lao động quốc tế của hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam nói chung và của Công ty cổ phần Đầu tư và Thương mại nói riêng. Chương III Phương hướng và giải pháp chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu lao động ở Công ty cổ phần đầu tư và thương mại I. Đánh giá chung tình hình xuất khẩu lao động của Việt Nam: 1. Về phát triển thị trường: Từ chủ yếu là thị trường Đông Âu, nước ta đã tập trung nghiên cứu, mở rộng hợp tác lao động và chuyên gia với các nước khu vực, nhất là từ năm 1995 đến nay. Với tinh thần hợp tác và hợp tác toàn diện, vì lợi ích của mỗi nước, vì ổn định và phát triển trong khu vực, Đảng và Nhà nước đã chỉ đạo các Bộ, ngành phối hợp triển khai khá đồng bộ từ mở rộng quan hệ đối ngoại về kinh tế, thương mại đến hợp tác lao động và chuyên gia, coi hợp tác lao động và chuyên gia là một trong những lĩnh vực kinh tế đối ngoại quan trọng. Chính phủ đã ban hành Nghị định số 08/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 2 năm 2003, trong đó xác định nhiệm vụ của các cơ quan đại diện trong việc mở thị trường lao động và chuyên gia. Quốc hội đã sửa đổi Bộ luật Lao động, trong đó có 6 Điều về xuất khẩu lao động và chuyên gia. Chính phủ và các Bộ đã ban hành các văn bản hướng dẫn thể chế hoá các Nghị quyết của Đảng về đẩy mạnh xuất khẩu lao động và chuyên gia. Nhiều văn bản thoả thuận, thông báo chung của các đoàn cao cấp giữa nước ta và các nước trong khu vực đều được khẳng định về hợp tác lao động và chuyên gia. Đến nay chúng ta đã ký các thoả thuận và Hiệp định về hợp tác lao động với Liên bang Nga, Cộng hoà Séc, Cộng hoà Dân chủ nhân dân Lào, Đài Loan, Malaysia; chuẩn bị ký Hiệp định mới về Hợp tác chuyên gia với Lào, với Liên bang Nga, gia hạn Hiệp định hợp tác Lao động với Cộng hoà Séc; đang vận động để ký kết thoả thuận với Hàn Quốc nhằm đưa lao động sang Hàn Quốc theo đạo luật cấp phép cho lao động nước ngoài sẽ được nước này thực hiện từ tháng 8 năm 2004. Chúng ta đã xây dựng và thực hiện các đề án cụ thể cho từng thị trường như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Malaysia, Trung Đông, Châu Phi, lao động trên biển... Các Bộ ngành, địa phương và doanh nghiệp đã thường xuyên tổ chức các đoàn doanh nghiệp đi khảo sát, tìm hiểu thị trường xuất khẩu lao động và chuyên gia tại Châu Phi, Trung Đông và Châu á; tổ chức các hội nghị khách hàng tại Nhật Bản, Đài Loan và hội nghị, hội thảo để cung cấp thông tin thị trường, đặc biệt là về các thị trường mới và thị trường trọng điểm, hỗ trợ doanh nghiệp để tăng thị phần ở các thị trường hiện có, mở thị trường mới. Kế thừa và phát huy kinh nghiệm trên 20 năm về hợp tác, xuất khẩu lao động và chuyên gia; đồng thời quán triệt quan điểm của Đảng về kinh tế đối ngoại, đến nay Nhà nước đã ban hành hàng loạt văn bản tạo hành lang pháp lý cho hoạt động mở rộng thị trường xuất khẩu lao động và chuyên gia. 1.1 Malaysia Sau nhiều năm trao đổi nghiên cứu, cuối tháng 2 năm 2002, Chính phủ ta và Chính phủ Malaysia đã đạt được sự thống nhất về chủ trương tiếp nhận lao động Việt Nam vào làm việc trong 4 lĩnh vực: xây dựng, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ của Malaysia. Ngay sau đó, Bộ Lao động – Thương binh và xã hội đã đàm phán và thống nhất cho phép các Doanh nghiệp thực hiện hợp đồng đưa lao động Việt Nam sang Malaysia theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ là tổ chức thực hiện chặt chẽ, mở rộng dần theo nhu cầu thị trường. Đồng thời, thành lập Ban Quản lý lao động và quy định trách nhiệm của công tác cung ứng lao động và chuyên gia. Hiện nay, có 70 doanh nghiệp được đưa lao động sang Malaysia. Từ tháng 5 năm 2002 đến nay, đã đưa được gần 70.000 lao động. Chỉ trong vòng hơn một năm, Malaysia đã trở thành thị trường xuất khẩu lao động lớn của ta. Với yêu cầu về ngành nghề phù hợp với ta, tạo cơ hội cho một số lượng lớn lao động nông thôn, người thuộc đối tượng chính sách, người nghèo đi làm việc ở nước ngoài, góp phần tích cực vào công tác xoá đói giảm nghèo. Ngày 1 tháng 12 năm 2003 vừa qua tại Hà Nội, Bộ trưởng Bộ Lao động – Thương binh và xã hội và Bộ trưởng Nguồn nhân lực Malaysia đã thay mặt hai Chính phủ ký kết thoả thuận về hợp tác lao động giữa hai nước. 1.2 Đài Loan Từ khi mở rộng thị trường Đài Loan cuối năm 1999 đến nay, ta đã đưa hơn 73.000 lao động. Riêng trong 3 năm 2001- 2003, đã đưa khoảng 65.000 lao động. Đặc biệt là từ cuối năm 2002 đến nay, tốc độ đưa lao động sang Đài Loan tăng mạnh. Gần đây, số lượng lao động bỏ hợp đồng ra ngoài sống và làm việc bất hợp pháp ở Đài Loan gia tăng ( khoảng 6,55%). Ngoài việc phối hợp với Văn phòng Kinh tế và Văn hoá Việt Nam tại Đài Bắc vận động phía Đài Loan, Bộ Lao động – Thương binh và xã hội đã thực hiện các biện pháp giảm tỷ lệ lao động bỏ hợp đồng: - Chỉ đạo các doanh nghiệp chấn chỉnh công tác tuyển chọn, đào tạo – giáo dục định hướng cho người lao động trước khi đi; - Đề nghị các địa phương có biện pháp tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện đúng các quy định của Nhà nước, vận động con em đang bỏ hợp đồng về nước; - Xử lý nghiêm những doanh nghiệp có tỷ lệ lao động bỏ trốn cao. Đã đình chỉ có thời hạn 38 doanh nghiệp, tạm dừng hoạt động cung ứng thuyền viên tàu cá đối với 8 doanh nghiệp; - Trước mắt yêu cầu các doanh nghiệp hạn chế tuyển lao động ở những địa phương có số lượng lao động bỏ hợp đồng cao. 1.3 Hàn Quốc Từ năm 1993 đến nay, có 8 doanh nghiệp xuất khẩu lao động của Việt Nam đã đưa trên 30.000 lượt người lao động Việt Nam sang tu nghiệp tại Hàn Quốc. Hiện nay co 18.771 lao động Việt Nam đang làm việc và tu nghiệp tại Hàn Quốc, trong đó số lao động trong hợp đồng là 5.520 người và ngoài hợp đồng là 13.251 người. Ngoài ra, Hàn Quốc còn tiếp nhận một số lượng lớn sĩ quan, thuỷ thủ tàu vận tải biển và thuyền viên đánh cá Việt Nam. Trong 3 năm 2001 – 2003, ta đưa sang Hàn Quốc gần 11.000 lao động và tu nghiệp sinh. Tháng 8 năm 2003, Quốc hội Hàn Quốc thông qua Luật cấp phép cho lao động nước ngoài, có hiệu lực từ tháng 8 năm 2004. Để chuẩn bị thực hiện đạo luật này, vừa qua Hàn Quốc đã có chính sách gia hạn cư trú tại Hàn Quốc cho số lao động đã làm việc dưới 4 năm. Bộ Ngoại giao và Bộ Lao động – Thương binh và xã hội đã phối hợp vận động, khuyến khích người lao động thực hiện đúng quy định của Bạn, đã có 7.300 lao động Việt Nam ( chiếm 83 % số lao động bất hợp pháp) đăng ký tiếp tục ở lại làm việc. Phía Hàn Quốc đánh giá cao các giải pháp cũng như sự phối hợp của Việt Nam trong việc thông tin và động viên lao động Việt Nam ra đăng ký. Các giải pháp kiên quyết trên của Nhà nước ta sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp tục tăng cường hợp tác với Hàn Quốc về tu nghiệp sinh và lao động. 1.4 Nhật Bản Nhật Bản chỉ nhận tu nghiệp sinh. Trong 3 năm 2001 – 2003, ta đã đưa hơn 6.400 lao động sang tu nghiệp tại Nhật Bản ( bình quân mỗi năm đạt hơn 2.100 người). Ngoài ra, cũng đã đưa một số lượng lớn thuyền viên sang làm việc trên các tàu biển Nhật Bản. Tổng số lao động và tu nghiệp sinh đưa sang Nhật Bản trong 3 năm qua là hơn 8.100 người. ở thị trường Nhật Bản, điều kiện làm việc và thu nhập của người lao động thuận lợi và thu nhập tương đối cao, nên đa số lao động muốn kéo dài thời hạn hợp đồng. Song do chính sách và pháp luật của Bạn chưa thay đổi như Hàn Quốc, nên tỷ lệ bỏ hợp đồng, cư trú bất hợp pháp cao. Các Bộ, ngành liên quan đang nghiên cứu để có những giải pháp thích hợp. Đồng thời chỉ đạo các doanh nghiệp tăng cường chất lượng tuyển, chọn và quản lý tu nghiệp sinh ở nước ngoài. 2. Về chuẩn bị nguồn lao động: 2.1 Về công tác tuyển chọn lao động Điểm mới trong hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia từ đầu năm 2002 đến nay là đã tổ chức và thực hiện thành công mô hình liên kết trách nhiệm giữa chính quyền cơ sở với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động trong việc triển khai hoạt động xuất khẩu lao động tại địa phương. Mô hình này được thí điểm ở 2 tỉnh Hải Dương và Phú Thọ từ giữa năm 2002 đến nay đã được mở rộng ra trên 40 tỉnh, thành phố trong cả nước. Các địa phương đã tổ chức quán triệt và triển khai các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về xuất khẩu lao động và chuyên gia; ban hành các Chỉ thị, Nghị quyết, phê duyệt các đề án, thành lập Ban chỉ đạo về xuất khẩu lao động; chỉ đạo các Ban ngành về cho lao động vay vốn từ ngân hàng, từ quỹ tín dụng nhân dân để đi xuất khẩu lao động; về cải tiến thủ tục hành chính, khám sức khỏe, cấp hộ chiếu, tạo thuận lợi cho người lao động. Một số địa phương còn ban hành cơ chế, chính sách cụ thể hỗ trợ tài chính về đào tạo và về lãi suất ưu đãi đối với người lao động nghèo, diện chính sách. Qua công tác tuyên truyền vận động sâu rộng trong triển khai mô hình đã tạo được sự nhất trí cao về nhận thức trong các cấp uỷ Đảng, Chính quyền, đoàn thể về xuất khẩu lao động và chuyên gia, coi việc triển khai thực hiện là trách nhiệm của cấp uỷ, nhiệm vụ chính trị của các cấp các ngành, các đoàn thể. Mô hình liên kết đã đạt được những kết quả rõ rệt là: Làm rõ và tăng cường vai trò quản lý Nhà nước tại địa phương đối với xuất khẩu lao động, khắc phục được các hiện tượng tiêu cực như cò mồi, môi giới, lừa đảo người lao động. Người lao động được tạo điều kiện dễ dàng hơn trong việc làm thủ tục hành chính và vay vốn; giảm được chi phí. Địa bàn tham gia xuất khẩu lao động mở rộng trên 45 tỉnh, thành phố và đến được các tỉnh miền núi phía bắc ( Yên Bái, Bắc Cạn, Hoà Bình), Tây Nguyên ( Gia Lai, Đăc Lắc) và các tỉnh miền tây Nam Bộ. Lao động thuộc diện nghèo, đối tượng chính sách, bộ đội xuất ngũ có cơ hội tham gia xuất khẩu lao động và chuyên gia đã tham gia trực tiếp và có hiệu quả vào công tác xoá đói giảm nghèo. Qua triển khai mô hình liên kết, đã xây dựng được các điển hình tốt về công tác quản lý, chỉ đạo và tổ chức xuất khẩu lao động tại địa phương, đặc biệt là các xã Thái Mỹ, xã Trung Lập Thượng ( huyện Củ Chi – Tp Hồ Chí Minh), phường Nghi Hải (Thị xã Cửa Lò – Nghệ An), xã Tân Hội (huyện Đan Phượng – Hà Tây), xã Đồng Lạc (huyện Chí Linh – Hải Dương), xã Vĩnh Lạc (Lâm Thao – Phú Thọ), tỉnh Đồng Tháp... 2.2 Đào tạo, giáo dục định hướng cho lao động xuất khẩu - Bộ Lao động – Thương binh và xã hội đã ban hành quy chế về đào tạo – giáo dục định hướng cho người lao động trước khi đi; các quy định cụ thể về đào tạo – giáo dục định hướng và giáo trình đối với từng thị trường trọng điểm; chỉ đạo kiểm tra các doanh nghiệp thực hiện đúng quy trình đào tạo – giáo dục định hướng theo quy định. - Các địa phương đã quan tâm phối hợp cùng với các doanh nghiệp trong công tác đào tạo – giáo dục định hướng, chỉ đạo các cơ sở đào tạo ở địa phương tổ chức đào tạo tại chỗ để tạo thuận lợi cho người lao động. Một số địa phương như Hải Dương, Phú Thọ ... đã có chính sách hỗ trợ kinh phí đào tạo cho người lao động. - Các doanh nghiệp đã thực hiện tương đối tốt việc đào tạo – giáo dục định hướng. Hầu hết các doanh nghiệp đã có cơ sở đào tạo, bố trí ăn ở cho người lao động trong thời gian học tập. Nhiều doanh nghiệp đã bổ sung thêm các nội dung cụ thể vào chương trình đào tạo cho phù hợp với yêu cầu của từng thị trường, góp phần chuẩn bị tốt hành trang kiến thức cho người lao động. 2.3 Chính sách hỗ trợ người lao động - Ngân hàng Nhà nước đã có Quyết định số 440/2001/QĐ-NHNN ngày 17/4/2001 quy định việc cho vay đối với người đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài; Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thông và Ngân hàng Chính sách xã hội đều đã ban hành các quy định cụ thể cho người lao động vay tín dụng và đã triển khai rộng khắp trên toàn quốc ở một số tỉnh như Hải Dương, Phú Thọ, Nghệ An, Thái Bình..., hầu hết lao động đi làm việc ở nước ngoài có nhu cầu đều đã được vay tín dụng. - Sửa đổi chính sách Bảo hiểm xã hội. Khi đi làm việc ở nước ngoài, người lao động được tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Trường hợp đã tham gia bảo hiểm xã hội trước khi đi và không muốn tham gia bảo hiểm xã hội tiếp thì được giải quyết trợ cấp một lần hoặc bảo lưu thời gian đã đóng. - Đơn giản hoá các thủ tục hành chính: Bộ Công an đã quy định rõ ràng, minh bạch về thủ tục và thời hạn cấp hộ chiếu. 2.4 Về bảo vệ quyền lợi cho người lao động - Đã hình thành một hệ thống tổ chức quản lý lao động làm việc ở nước ngoài từ Đại sứ quán Việt Nam tại các nước sở tại đến đại diện các doanh nghiệp. ở các nước sở tại có nhiều lao động như Đài Loan, Malaysia, Hàn Quốc ... đều đã thành lập Ban Quản lý lao động; đã xúc tiến thành lập Ban Quản lý lao động tại Nhật Bản và Lào. Phần lớn các vấn đề phát sinh với người lao động trong thời gian làm việc ở nước ngoài đều được phát hiện và xử lý kịp thời, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người lao động theo Pháp luật Việt Nam và Pháp luật nước nhận lao động; đồng thời có cơ chế xử lý đối với người lao động vi phạm. - Đã ký kết thoả thuận với một số nước, tạo ra khung pháp lý để bảo vệ quyền lợi người lao động. Đối với các nước chưa có thoả thuận lao động, cũng đã thiết lập được quan hệ với các cơ quan quản lý của bạn để giải quyết kịp thời vấn đề phát sinh. - Nghị định 81/2003/NĐ-CP ngày 17/7/2003 của Chính phủ đã có quy định về thành lập Quỹ hỗ trợ xuất khẩu lao động để giải quyết rủi ro đối với người lao động. 3. Củng cố và đổi mới doanh nghiệp xuất khẩu lao động Doanh nghiệp xuất khẩu lao động và chuyên gia đã được hình thành từ năm 1991 khi chuyển đổi cơ chế. Kết quả xuất khẩu lao động và chuyên gia phụ thuộc vào hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp. Thực hiện kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại Hội nghị toàn quốc về xuất khẩu lao động và chuyên gia năm 2000 và 2001, ba năm vừa qua, đã thực hiện nhiều giải pháp nhằm đổi mới và phát triển doanh nghiệp trên các lĩnh vực: Xây dựng và ban hành tiêu chí nhằm tăng cường đầu tư về: vốn, cơ sở vật chất, cơ sở đào tạo và cán bộ có trình độ. Các Bộ, ngành, địa phương chủ quan đã sắp xếp lại một bước và đầu tư nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bộ Lao động-Thương binh và xã hội thường xuyên cung cấp thông tin thị trường và bồi dưỡng cán bộ cho doanh nghiệp như: + Tổ chức giao ban với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động định kỳ 6 tháng và 1 năm để sơ kết, tổng kết đánh giá, rút kinh nghiệm hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia. + Tổ chức các hội nghị chuyên đề về từng lĩnh vực của xuất khẩu lao động như thị trường, công tác chuẩn bị nguồn lao động, tuyển chọn lao động, chính sách xuất khẩu lao động. + Tổ chức tập huấn, nâng cao trình độ nghiệp vụ xuất khẩu lao động và chuyên gia cho gần 300 cán bộ của các doanh nghiệp Qua quá trình sắp xếp lại một bước các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, hiện nay có 154 doanh nghiệp có giấy phép xây dựng lao động, trong đó 16 doanh nghiệp chuyên doanh xuất khẩu lao động, 134 doanh nghiệp được bổ sung chức năng xuất khẩu lao động và 4 doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Trong 3 năm 2001- 2003 có 145/153 doanh nghiệp đã ký kết được hợp đồng và đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài. Một số doanh nghiệp đã hoạt động có hiệu quả cao, có uy tín đối với đối tác nước ngoài và với người lao động, đưa được nhiều lao động đi làm việc ở nước ngoài: 1 doanh nghiệp đưa được trên 10.000 lao động; 4 doanh nghiệp đưa được trên 5.000 lao động; 37 doanh nghiệp đưa được trên 1.000 lao động; Phần lớn các doanh nghiệp đã tích cực đầu tư mở rộng thị trường, chủ động khảo sát, tìm kiếm và khai thác hợp đồng; tăng cường thiết lập các mối quan hệ với các tổ chức trong và ngoài nước; áp dụng các công nghệ tiên tiến để tìm kiếm thông tin, mở rộng quan hệ ... nhằm mở ra các thị trường lao động mới. Các doanh nghiệp chú trọng công tác tuyển chọn, thực hiện chỉ đạo của Nhà nước về việc phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương với các cơ sở đào tạo trong hoạt động tuyển chọn người lao động. Hầu hết các doanh nghiệp đã có trung tâm đào tạo – giáo dục định hướng cho người lao động trước khi đi. Một số doanh nghiệp đã thành lập mới các trường đào tạo hoặc đưa các trường đào tạo hiện có vào đào tạo xuất khẩu (Công ty Hợp tác lao động nước ngoài – LOD, Công ty Dịch vụ Xuất khẩu lao động và chuyên gia – SULECO, Công ty Xuất khẩu lao động, Thương mại và Du lịch – SOVILACO, Tổng Công ty Xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam – VINACONEX, Tổng Công ty Xây dựng Sông Đà...) Các doanh nghiệp đã có biện pháp hữu hiệu quản lý, bảo vệ quyền lợi người lao động làm việc ở nước ngoài, kịp thời phát hiện và xử lý các vấn đề phát sinh. ở các nước có những quy định khắt khe đối với việc nhập cảnh của cán bộ doanh nghiệp sang quản lý lao động như Malaysia, Đài Loan, ..., các doanh nghiệp đã có nhiều biện pháp tích cực để thực hiện tốt công tác quản lý. 4. Kết quả đạt được và nguyên nhân đạt được kết quả trên 4.1. Kết quả đạt được Trong vài năm gần đây, nhất là từ sau khi có Nghị định 81 (81/2003/NĐ-CP), công tác xuất khẩu lao động và chuyên gia đã có nhiều tiến bộ rõ rệt, bước đầu đã đạt những kết quả khả quan tạo được đà cho sự phát triển trong thời kỳ tới. Thị trường xuất khẩu lao động và chuyên gia đang dần được mở rộng ra nhiều nước, từ 12 nước năm 1992 lên 38 nước năm 1999 và đến nay đã là gần 50 quốc gia. Số lượng lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài đang từng bước gia tăng, từ 1,3 vạn lao động năm 1996 tăng lên 2,2 vạn lao động năm 1999, đến cuối năm 2004 đã đưa đi được 24,6 vạn lao động, số ngoại tệ do người lao động chuyển về ngày càng nhiều, chỉ tính riêng năm 2004 số lao động và chuyên gia làm việc ở nước ngoài đã gửi về nước 1,65 tỷ USD. Công tác đào tạo nguồn lao động và chuyên gia để đi làm việc ở nước ngoài bắt đầu được đặt ra và tổ chức thực hiện. Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp quy để điều chỉnh hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia, phân biệt ngày càng rõ hơn công tác quản lý nhà nước và hoạt động dịch vụ của doanh nghiệp xuất khẩu lao động, tạo ra cơ chế đã tương đối thông thoáng, đơn giản thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động xuất khẩu lao động. 4.2. Nguyên nhân đạt được kết quả trên - Đã xây dựng được hệ thống chính sách, pháp luật về xuất khẩu lao động và chuyên gia tương đối đồng bộ, phù hợp với cơ chế chung của đất nước và của các nước nhận lao động. Quốc hội đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Lao động, trong đó bổ sung 6 điều quy định cụ thể về xuất khẩu lao động và chuyên gia; Chính phủ đã ban hành Nghị định 81/2003/NĐ-CP ngày 17/7/2003 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Bộ luật Lao động về người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài; Bộ Lao động – Thương binh và xã hội đã ban hành và cùng Bộ Tài chính ban hành theo thẩm quyền các thông tư hướng dẫn thực hiện. Bộ Công an, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Ngoại giao, Bộ Y tế ... đã sửa đổi cơ chế, thủ tục tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người lao động. - Các cơ quan thuộc Quốc hội và Chính phủ đã thường xuyên chỉ đạo, giám sát việc hoạt động xuất khẩu lao động

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0083.doc
Tài liệu liên quan