Đề tài Thực trạng và giải pháp về cân bằng sinh thái với tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững

Việt Nam, cũng nh− nhiều n−ớc khác trên thế giới đang đứng tr−ớc những thách thức lớn về vấn đề môi tr−ờng. Để nuôi sống hơn 80 triệu dân và chắc chắn sẽ còn nhiều hơn nữa trong những năm sắp tới, và để phát triển, chúng ta đã và đang phải khai thác một cách ồ ạt các loại tài nguyên thiên nhiên: đất, n−ớc, rừng, biển, động vật, thực vật làm cho các loại tài nguyên quý giá này bị cạn kiệt một cách nhanh chóng.

Để đảm bảo sự phát triển bền vững, đối với đa dạng sinh học, nói cách

khác là các loại tài nguyên sinh học, dạng tài nguyên có khả năng tái tạo đ−ợc, điều quan trọng là tạo đ−ợc sản l−ợng ổn định tối đa mà không làm cạn

kiệt nguồn tài nguyên cơ sở. Sản l−ợng này hoàn toàn có hạn và không thể khai thác quá khả năng chịu đựng, nếu không muốn làm giảm năng suất trong t−ơng lai. Vấn đề là phải biết kiềm chế, biết cách sử dụng khôn khéo, và làm ổn định nhu cầu trong giới hạn cho phép, bằng cách sớm ổn định dân số, nâng cao nhận thức của mọi ng−ời về ĐDSH đối với cuộc sống của họ, xoá đói giảm nghèo và tăng quyền chủ động của họ trong việc quản lý, sử dụng và bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên mà cuộc sống của họ phụ thuộc vào đó.

 

doc33 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2939 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp về cân bằng sinh thái với tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng y tế của Trung Quốc đã làm tổn thất lượng giờ làm việc tương đương với 7,4 triệu lao động một năm . Rất nhiều nghiên cứu ở Trung Quốc và rất nhiều nơi khác cho thấy trẻ em có hàm lượng chì trong máu có nguy bị suy dinh dưỡng rối loạn chức năng và giảm chỉ số thông minh . Mưa axit là một số sản phẩm phụ nguy hại nữa của ô nhiễm không khí ở Trung Quốc . Khí sunfua đi ôxit nitơrat thải ra sẽ tạo phản ứng với nước vào trong không khí thành axit sunfuric và axit nitơric có thể rơi xuống những vùng lân cận hoặc những vùng cách xa nơi gây ô nhiễm hàng ngàn dặm . Mưa axit phá huỷ mùa màng , tàn phá những cánh rừng , phá hoại cấu trúc các toà nhà và gây thiệt hại cho sức khoẻ con người . Những hậu quả này đặc biệt mghiêm trọng ở miền nam Trung Quốc, nơi hàng ngày có khối lượng lớn than và hàm lượnh sunfat cao . Một nghiên cứu của cơ quan bảo vệ môi trường Trùng Khánh cho thấy trong năm 1993 có gần 1/4 vụ thu hoạch rau ở đây bị mưa axit tàn phá. Ô nhiễm nước : Chất thải công nghiệp , chất thải đô thị , nước thải ra từ các cánh đồng bón phân hoá học phân hữu cơ là nguyên nhân chính gây ra ô nhiễm nước ở Trung Quốc . Theo báo cáo , lượng chất thải tăng vừa phải từ đầu những năm 1980, trong đó chất thải đô thị ngày càng tăng. Mặc dù ô nhiễm nước liên quan tới rất nhiều bệnh , nhưng ảnh hưởngcủa nó tới sức khỏe của người dân nhìn chung chưa được hạn chế bởi việc sử dụng rộng rãi nước uống sạch và các biện pháp vệ sinh . Các bệnh liên quan tới nước nói chung chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng số bệnh dịch. Nhưng tình trạng ô nhiễm ngày càng trầm trọng đã làm tăng chi phí cho việc cấp nước sạch. Ví dụ tình trạng ô nhiễm do chất thải chưa qua sử lý đổ vào sông Hoàng Phố đã buộc chính quyền Thượng Hải chuyển vị trí nguồn cấp nước sạch lên thượng nguồn với chi 300 triệh USD , ở nhiều thành phố , các hộ gia đình phải đun nước sôi để uống , gây tốn kém hơn nhiều so với việc sử dụng bằng clorin . Trung Quốc là một trong những nước ô nhiễm nhất thế giới . Nếu tình hình không được cảt thiện thì tương lai môi trường ở Trung Quốc sẽ rất tối tăm. SongTrung Quốc có thể có một môi trường trong sạch hơn . Các chính sách khuyên khích nâng cao hiệu suất và bảo tồn sử dụng nguồn năng lượng kết hợp với giải pháp thay thế cho than , việc áp dụng rộng rãi những công nghệ xử lý ô nhiễm nước và không khí , việc sử dụng những phương tiện giao thông công cộng thay vì ô tô riêng có thể đem lại cho Trung Quốc những cải thiện môi trường đáng kể. Có hai khía cạnh của tăng trưởng kinh tế sẽ tiếp tục ảnh đến triển vọng môi trường ở Trung Quốc . Thứ nhất là nhu cầu năng lượng . Mặc dù mức sử dụng năng lượng tiêu dùng cho một đơn vị GDP có thể giảm so với mức rất cao hiện nay , song tổng tiêu dùng năng lượng sẽ tăng trong 25 năm tới . Do thiếu các giải pháp thay thế khả dĩ nên phần lớn nhu cầu năng lượng này vẫn sẽ được đáp ứng bằng than . Bởi vì than là nguyên nhân chính gây ô nhiễm đô thị nên đây sẽ là một thách thức lớn đối với môi trường. Thứ hai nếu theo kinh nghiệm của các nước khác và của cả Trung Quốc , thì thu nhập gia tăng sẽ đẩy nhanh quá trình đô thị hoá và việc sử dụng ô tô . Điều này sẽ tác động mạnh tới môi trường Trung Quốc trong 25 năm tới. Trước tình hình này có thể xem xét hai phương án thay thế sau: Giải pháp thứ nhất không tính tới sự thay đổi lớn trong chính sách môi trường hiện hành và việc thi hành chúng. Đây không phải là phương án hợp lý nhất . Những bước tiến của Trung Quốc trước đây trong việc vạch ra và tiến hành các cuộc cải cách chính sách môi trường đã hình thành nên một phương án mà trong đó không có bất kì một sự cải tiến nào là chắc chắn cả . Nhưng nó cũng nhấn mạnh đến chi phí rất lớn có thể phát sinh ra nếu động lực của các cuộc cải cách môi trường chững lại, theo giải pháp này cả hàm lượng năng lượng lẫn hàm lượng khí thải tính theo GDP đều sẽ giảm .Và cho dù không có những khuyến khích mới , thì tăng trưởng nhanh cũng đảm bảo rằng các công nghệ lạc hậu và gây ô nhiễm sẽ nhanh chóng được thay thế . Đến năm 2020 chưa đầy 10% máy công cụ hiện nay của Trung Quốc sẽ còn tiếp tục hoạt động . Tuy nhiên mặc dù hàm lượng khí thải có giảm song tổng ô nhiễm lại tăng mạnh. Do vậy lượng khí thải vào không khí sẽ tăng 30% gây ra những hậu quả nghiêm trọng làm giảm chất lượng không khí và gây ra mưa axit. Số người chết do ô nhiễm không khí ngoài trời sẽ tăng mạnh . Tuy nhiên những cải thiện chất lượng tư liệu sản xuất sẽ giúp làm giảm lượng chất thải gây ô nhiễm nguồn nước theo nghĩa tuyệt đối . Phương án thứ hai đề xuất việc cải cách mạnh công cuộc cải cách dần dần , nhiều chính sách có thể giúp nâng cao hiệu xuất sử dụng năng lượng và giảm lượng chất thải xuống bằng mức của Mỹ hay Châu âu vào những năm 80 . Trung Quốc có thể tăng trưởng đồng thời trở nên sạch đẹp hơn .Theo phương án” đẩy mạnh cải cách ” này lượng khí thải sẽ giảm một nửa, làm giảm tỷ lệ tử vong do ô nhiễm . Hoạch định các chính sách về một ngày mai tươi đẹp hơn : Ta đã thấy rõ những thách thức môi trường to lớn ở Trung Quốc . Hơn nữa chi phí cho chính sách môi trường rất lớn . Nhưng Trung Quốc đang là nước phát triển nghèo với vô vàn yêu cầu cấp bách đối với nguồn lực công cộng và tư nhân . Điều hoà những yêu cầu này và dành ưu tiên cho các chính sách môi trường cần phân tích cẩn thận chi phí kinh tế do việc xuống cấp môi trường gây nên. Đòi hỏi này được phản ánh trong cam kết của nhà nước về việc sẽ tăng ngân sách quốc gia cho môi trường. Trước mắt phân tích chi phí sơ bộ do môi trường gây nên có thể đưa ra lời chỉ dẫn hữu ích cho chính sách . Những phân tích sử dụng cho bản báo cáo này cho thấy chi phí hàng năm cho môi trường là rất lớn. Chương trình hành động cho 25 năm tới dựa trên ba trụ cột chính sau : thúc đẩy các lực lượng thị trường , khuyến khích đầu tư vào công nghệ sản xuất sạch và phát triển các điều tiết hiệu quả. Thúc đẩy các thị trường: Các lượng thị trường đã tạo nền tảng cho sợ tăng trưởng kinh tế ở Trung Quốc trong suốt 18 năm qua . Nếu thúc đẩy một cách đúng đắn, chúng có thể trở thành một đồng minh quan trọng cho cuộc chiến vì một tương lai sạch đẹp hơn . Phụ thuộc hơn nữa vào các lực lượng thị trường đồng nghĩa với việc giá cả được sửa đổi để phản ánh chi phí xã hội đã trở thành những công cụ mạnh mẽ để thay đổi hành vi của nhà sản xuất và người tiêu dùng theo cách có lợi cho môi trường .Tuy nhiên bất chấp các cuộc cải cách gần đẩy việc định giá và đánh thuế đối với các tài nguyên thiên nhiên , các công cụ này vẫn chưa được sử dụng triệt để . Hầu hết giá cả hiện nay đã phản ánh được chi phi sản xuất nhưng chưa phản ánh được chi phí xã hội . Ta lấy than làm ví dụ : Trong thập kỷ qua , giá than ở các vùng duyên hải đã tăng lên gần với mức giá thế giới nhưng giá ấn định không phản ánh đầy đủ sự chênh lệch về hàm lượng sunfua và bụi trong than nội địa , cho dù chi phí do ô nhiễm của than chưa rửa và than có hàm lượng sunfua cao và lớn hơn rất nhiều. Giá than ở các tỉnh sâu trong nội địa nhìn chung là thấp hơn rất nhiều nhờ chi phí vận chuyển thấp hơn mà chi phí này chiếm 70% giá than phân phối ở các vùng duyên hải .Song sự chênh lệch này còn cho thấy các tỉnh ở sâu trong nội địa ít có động cơ khuyến khích áp dụng các biện pháp bảo tồn hay các công nghệ làm sạch than bởi vì chúng chỉ kinh tế khi áp dụng mức giá cao hơn . Mặc dù khuyếnkhích dựa trên giá cả có thể rất hiệu quả song chúng lại không mang tính lựa chọn: chúng không thấy rằng chi phí cho việc bảo tồn và giảm ô nhiễm giữa các công ty là khác nhau . Chi phí cận biên cho việc giảm bớt khí thải ở các công ty nhỏ lớn gấp 20 lần so với ở các công ty lớn . Những mâu thuẫn này các nhấn mạnh thêm tầm quan trọng của các biện pháp có chủ đích như đánh thuế đối với chất thải. Bên cạnh việc đưa ra các khuyến khích có sức thuyết phục , thuế được ấn định sao cho có thể phản ánh được sự khác biệt giữa các ngành , các công ty , các vùng và điều quan trọng là tốc độ giảm ô nhiễm . Giữ vững nguyên tắc” người gây ô nhiễm phải trả giá “ có thể đưa ra những lợi ích rất lớn . Hậu quả tiềm tàng của các khuyên khích đựa trên giá cả phụ thuộc vào thành công của nhà nước trong việc đẩy mạnh công cuộc cải cách thị trường . Tự do hoá thương mại và cải cách doanh nghiệp nhà nước đặc biệt thích hợp. Xoá bỏ các trở ngại đối với thương mại trong nước và quốc tế sẽ thúc đẩy việc chuyên môn hoá , cho phép đạt tới tính kinh tế nhờ quy mô trong sản xuất lẫn trong ô nhiễm môi trường . Tự do hoá thương mại quốc tế còn mở của cho việc nhập khẩu tư liệu sản xuất loại tốt có hiệu suất sử dụng năng lượng và tiêu chuẩn đối với việc gây ô nhiễm cao hơn so với loại sản phẩm sản xuất trong nội địa . Cuối cùng , thúc đẩy cải cách làm cho các khuyên khích dựa trên thị trường trở nên có hiệu lực hơn . Nếu không hạn chế ngân sách thì các doanh nghiệp này sẽ ít để đến các khuyên khích có lợi cho môi trường mà để ý đến các dấu hiệu giá cả khác. Đầu tư vào những giả pháp thay thế : Đầu tư vào những nguồn năng lượng thay thế cũng là một yếu tố bổ xung quan trọng cho hệ thống ấn định giá cả trong việc phản ánh chi phi xã hội do ô nhiễm . Thiếu sự đầu tư như vậy , người tiêu dùng sẽ bị kẹt giữa điều tồi tệ nhất của cả hai mặt giá cao và ô nhiễm nặng nề . Đương nhiên tự các chính sách dựa trên giá cả sẽ tạo ra những khuyến khích mạnh thúc đẩy đầu tư vào các công nghệ tiết kiệm năng lượng và giảm lượng khí thải đem lại những lợi ích to lớn cho cả xã hội lẫn cá nhân. Đầu tư cho cơ sở hạ tầng công cộng và tăng cường sử dụng khí đốt ga ở các hộ gia đình sẽ đưa lại lợi ích to lớn về môi trường. Quy hoạch và điều tiết có hiệu quả: Điều tiết cụ thể và lâu dài cũng có thể đem lại một tương lai sạch đẹp hơn cho Trung Quốc. Nhiệm vụ điều tiết đầu tiên là giảm lượng chì trong dầu . Ngoài ra tiêu chuẩn về khí thải từ xe hơi cũng thấp hơn so với các nước công nghiệp. Quy hoạch đô thị dài hạn cũng có thể đóng góp nhiều để làm sạch , làm đẹp các thành phố ở Trung Quốc . Tăng mật độ đô thị và giảm lượng ô tô riêng là cơ hội duy nhất để phát triển các thành phố đồng thời vẫn bảo vệ mô trường . Để đạt được các mục tiêu này các nhà quy hoạch đô thị sẽ phải vận dụng đến mọi công cụ , từ thuế đỗ xe ban ngày đến hạn chế bớt các khu đỗ xe . Những lỗ lực này có thể được bổ xung bằng một chính sách dịch chuyển các ngành công nghiệp đóng tại các khu đô thị sang các khu công nghiệp đóng ở ngoại thành , giảm sức ép đối với các khu trung tâm đô thị . Hiệu quả dài hạn của xu hướng này được thể hiện rõ qua trường hợp của Curitiba thuộc Braxin là nơi đã bắt đầu việc quy hoạch đô thị hiệu qủa của mình từ cách đây 20 năm . Hiện nay tiêu dùng dầu hoả của thành phố này thấp hơn 30% so với các thành phố khác ở Braxin . Ưu tiên thứ ba là mở rộng khuôn khổ điều tiết và quản lý . Hiện nay cục Bảo vệ môi trường quốc gia chỉ ra vấn đề chất thải của 70000 công ty , nghĩa là chỉ một phần rất nhỏ trong số hàng triệu doanh nghiệp đang hoạt động ở Trung Quốc . Các cấp chính quyền khó có thể quản lý hiệu quả hàng triệu xí nghiệp .Quyết định gần đây của Quốc vụ viên về việc đóng cửa 60000 xí nghiệp nhỏ gây ô nhiễm là một bước đi đầy hứa hẹn. Ưu tiên cuối cùng là xem xét lại hệ thống kế toán đầu tư , gần đây hệ thống này đã vô ý gây ra một số tác hại cho môi trường . Hiện tại các tỉnh tự ấn định quy mô cho dự án đầu tư mà không cần sự phê duyệt của chính quyền địa phương , bởi vậy các tỉnh có xu hướng đầu tư vào các nhà máy năng lượng nhỏ kém hiệu quả . Khoảng 805 nhà máy năng lượng ở Trung Quốc có công suất dưới 100MW mà hiệu suất sử dụng nhiên liệu của các nhà máy nhỏ luôn thấp hơn còm chi phí giảm ô nhiễm lại cao hơn so với ở các nhà máy lớn. Sự tham gia của cộng đồng cũng giúp cải thiện quá trình điều tiết và giảm bớt ô nhiễm . Kinh nghiệm quốc tế cho thấy áp dụng cộng đồng có thể có tác động mạnh tới vấn đề giảm ô nhiễm , kể cả khi thiếu sự điều tiết môi trường chính thức . Tuy nhiên , sự tham gia của cộng đồng cũng có hai điểm yếu . Sức ép của cộng đồng có xu hướng tăng theo chiều tăng của thu nhập , điều này có thể thúc đẩy các ngành gây ô nhiễm chuyển dịch đến các vùng nghèo và có ít sự phản đối . Sức ép của cộng đồng có xu hướng tập trung vào các trường hợp gây ô nhiễm tõ nét ,dễ thấy và có thể bỏ qua các trường hợp gây ô nhiễm ít thấy hơn nhưng có tác hại không kém. Tóm lại , một tương lai sạch đẹp hơn nằm trong tầm với của Trung Quốc .Các chíng sách được hoạch định tốt nhằm thúc đẩy các lực lượng thị trường , khuyến khích đầu tư vào các giải pháp thay thế và tận dụng năng lực hành chính , điều tiết mạnh của Trung Quốc sẽ mang lại một tương lai sạch đẹp hơn cho các thế hệ sau. Cũng như tất cả các cuộc cải cách trước mắt , những lỗ lực này sẽ kéo theo chi phí điều chỉnh của cả nhà nước lẫn tư nhân . Song những chi phí này thật mờ nhạt so với cả chi phí phải bỏ ra do thờ ơ lẫn so với những cải thiện trong chất lượng cuộc sống nhờ một môi trường sạch hơn. Phần II ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu vấn đề quan hệ giữa cân bằng sinh thái với tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững ở việt nam 1-Thực trạng về vấn đề môi trường sinh thái và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam: Tháng sáu năm 1991 , Chính phủ đã thông qua kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển bền vững 1991-2000. Đây là văn bản có tính chiến lược đầu tiên đề cập đến tất cả các lĩnh vực môi trường và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước. Kế hoạch này đã được các bộ ngành , các địa phương triển khai thực hiện và đạt được những kết quả quan trọng . Tuy vậy một số nội dung của kế hoạch 1991 –2000 vẫn chưa được làm hoặc làm chưa tốt , như vấn đề quy hoạch môi trường lồng ghép với phát triển tài nguyên , vấn đề chiến lược phát triển bền vững cấp ngành , vấn đề giáo dục đào tạo nâng cao nhận thức môi trường, vấn đề quy hoạch phát triển đô thị vấn đề bảo tồn đa dạng sinh học, v.v…Hệ thống tổ chức quản lý môi trường còn nhỏ bé , không tương xứng với nhiệm vụ , đầu tư cho bảo vệ môi trường còn quá hạn chế v.v… Những yếu kém này là những nguyên nhân góp phần làm cho môi trường nước ta tiếp tục xuống cấp , đặt ra những thách thức nghiêm trọng cho giai đoạn tới. 1.1-Môi trường tiếp tục xuống cấp Suy thoái rừng: Mặc dù trong những năm gần đây, tỷ lệ che phủ rừng ở nước ta đã đạt mức 30%diện tích tự nhiên ,chiều hướng diễn biến rừng vẫn còn ở tình trạng suy thoái so với nửa thế kỷ trước, chất lượng rừng giảm sút. Rừng ngập mặn đầm phá bị khai thác quá mức , việc sử dụng rừng ngập mặn để nuôi trồng thuỷ sản trên quy mô lớn làm diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp . Đa dạng sinh học trên đất liền và dưới biển bị suy giảm: Địa bàn cư trú của các loài động thực vật hoang dã bị thu hẹp và chia cắt . Nhiều loại động vật quý hiếm bị săn bắt .Nhiều loài đã có nguy cơ bị tiệt chủng . Nguồn gien quý hiếm bị suy giảm. Suy giảm chất lượng nguồn nước: Nước thải sinh hoạt thành phố , đô thị các khu công nghiệp xả trực tiếp vào kênh, mương, sông, hồ dẫn đến tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng môi trường nước ở một số nơi như Hà Nội thành phố Hồ Chi Minh ,HảI Phòng Việt Trì ,Biên Hòa. Chất lượng nước một số khu vực các sông SàI Gòn Cửu Long ,ĐồngLai, Cầu đã bị suy giảm. Nguy cơ thiếu nước vào những thập kỷ tới có khả năng xảy ra. Nước biển ven bờ đã bắt đầu có dấu hiệu ô nhiễm . Hàm lượng các chất hữu cơ , chất dinh dưỡng kim loại nặng , vi sinh hoá chất bảo vệ thực vật ở một số nơi vượt tiêu chuẩn cho phép 2-5 lần . Hàm lượng dầu ở một số vùng biển vượt quá tiêu chuẩn và đang có xu hướng tăng dần. Nước ngầm đang bị cạn kiệt về lượng , bị ô nhiễm và suy giảm về chất. Những năm gần đây đã xảy ra trường hợp suy giảm mức nước ngầm về mùa hè ở Tây Nguyên và các tỉnh miền núi phía Bắc. Ô nhiễm môi trường đô thị và khu công nghiệp: Môi trường ở nhiều đô thị nước ta bị ô nhiễm do chất thải rắn và chất thải lỏng chưa được thu gom và xử lý theo đúng quy định . Trong đó khí thải tiếng ồn bụi …của nguồn giao thông nội thị và mạng lưới sản xuất quy mô vừa và nhỏ cùng với cơ sở hạ tầng yếu kém càng làm cho điều kiện vệ sinh môi trường ở nhiều đô thị đang thực sự lâm vào tình trạng báo động . Đặc biệt hệ thống cấp thoát nước lạc hậu , xuống cấp không đáp ứng được yêu cầu . Mức ô nhiễm không khí về bụi và cáckhí thải độc hại nhiều nơi vượt tiêu chuẩn cho phếp nhiều lần , đặc biệt tại một số thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh vượt tiêu chuẩn cho phép 2-5 lần. Môi trường các khu công nghiệp , đặc biệt các khu công nghiệp cũ , các ngành hoá chất luyện kim, chế biến đang bị ô nhiễm do các chất thải rắn, nước thả , khí thải và các chất thải độc hại chưa được xử lý theo đúng quy định . Các cơ sở công nghiệp trong nước đầu tư chủ yếu có quy mô nhỏ , công nghệ sản xuất lạc hậu ( khoảng90% cơ sở sản xuất cũ chưa có thiết bị xử lý nước thảI) . Suy thoái môi trường nông thôn: Môi trường nông thôn đang bị ô nhiễm do các điều kiện vệ sinh và cơ sở hạ tầng yếu kém. Việc sử dụng không hợp lý các loại hoá chất nông nghiệp cũng gây ô nhiễm môi trường nông thôn. Việc phát triển tiểu thủ công , làng nghề và công nghiệp chế biến ở một số vùng do công nghệ sản xuất lạc hậu, quy mô sản xuất nhỏ , phân tán xen kẽ trong dân cư và hầu như không thiết bị thu gom , xử lý chất thảI ,đã gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng . Nước sinh hoạt và vệ sinh là vấn đề cấp bách , điều kiện vệ sinh môi trường nông thôn vẫn chưa được cải thiện đáng kể , tỷ lệ hộ có hố xí hợp vệ sinh chỉ đạt 28%-30% và 30%-40% số hộ ở nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh. Ô nhiễ môi trường lao động: Tại nhiều khu vực sản xuất không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh , an toàn và sức khoẻ nghề nghiệp. Tình trạng ô nhiễm về bụi hoá chất độc hại, tiếng ồn nhiệt độ đã làm tăng tỷ lệ công nhân mắc bệnh nghề nghiệp, nhất là trong các ngành hoá chất , luyện kim vật liệu xây dựng,khai thác mỏ v.v… Sự cố môi trường: Tai biến thiên gần đây có xu hướng gia tăng ,hiện tượng lũ quét trên các lưu vực sông nhỏ , lũ trên các sông lớn, bão lốc mưa đá , mưa axit hạn hán kéo dài , nứt đất xói lở bờ sông ven biển trong thập niên vừa qua đã gây thiệt hại to lớn về người , nhà cửa tài sản , mùa màng ở nhiều nơi . Trong những năm qua sự cố tràn dầu vẫn xảy ra nhiều và gây thiệt hại lớn. Từ năm 1994-1998 đã xác định được đối tượng gây ra 34 vụ với số lượng tràn dầu trên 4000 tấn. Hậu qủa của chất độc hoá học trong chiến tranh để lại còn nặng nề hàng vạn trẻ em bị dị tật bẩm sinh , hàng triệu héc ta rừng bị suy thoái . Ngộ độc thực phẩm có chiều hướng gia tăng và gây hậu quả nghiêm trọng cho hàng vạn người. 1.2-Tác động của môi trường toàn cầu: Môi trường là vấn đề có tính chất liên ngành , liên vùng và toàn cầu .Vì vậy , môi trường nước ta cũng chịu tác động bởi môi trường toàn cầu và môi trường xuyên biên giới vói các quốc gia láng giềng . Những tác động chính dưới đây cũng là những thách thức cần quan tâm và giải quyết . a)Vấn đề môi trường của các lưu vực sông Cửu Long và sông Hồng Châu thổ sông Cửu Long là hạ lưu của 5 nước khác . Châu thổ sông Cửu Long tạo ra 40% yều cầu lương thực của nước ta , cho nên bất kỳ hoạt động nào trên thượng lưu , đều tác trực tiếp đến môi trường và tình hình kinh tế –xã hội của đất nước . Sông Hồng là con sông chung với Trung Quốc và những hoạt động thượng nguồn của sông Hồng đều có các mối liên quan với vùng đông dân nhất ở nước ta. b)Vấn đề bảo vệ môi trường của các vùng rừng xuyên biên giới các cánh rừng cũng là hệ thống cùng chia xẻ chung và các tài nguyên đa dạng sinh học quan trọng càng được bảo vệ vì quyền lợi chung . Khai thác gỗ bất hợp pháp , buôn bán săn bắn độngvật hoang dã trong các vùng có chung biên giới với Trung Quốc , Lào và Campuchia , đang gây ra hủy hoại môi trường có ý nghĩa toàn cầu . c)Vấn đề mưa axit : mưa axit là do SO2 và NOx do các ngành công nghiệp thải ra không khí ,sau đó kết hợp với nước tạo thành các axit sulfuric và nitric . Axit theo mưa tuyết xương rơi trở lại mặt đất . Mưa axit có thể tạo ra ô nhiễm xuyên biên giới , khi di chuyển cùng gió và mây từ vùng này sang vùng khác . Những báo cáo của mạng lưới của hệ thống quan trắc quốc gia cho thấy , mưa axit từ nước ngoài vào Việt Nam đang tăng lên . Các hậu qủa tiềm tàng của mưa axit bao gồm phá huỷ cây trồng , rừng và làm giảm sản lượng nông nghiệp , ô nhiễm các dòng sông , các hồ ảnh hưởng đến nuôi trồng thuỷ sản và các sinh vật khác , phá huỷ các công trình kiến trúc . d)Ô nhiễm tầng khí quyển và hiệu ứng nhà kính: khí thải công nghiệp, khí thải của các phương tiện giao thông có động cơ , khí thoát ra từ các quá trình sinh học đã là các nguồn chủ yếu gây ô nhiễm môi trường không khí . Hàm lượng ngày càng tăng của các loại khí cácboníc …là loại khí thải do các ngành công nghiệp có sử dụng nhiên liệu hoá thạch thải ra đã gây hiệu ứnhg nhà kính với hậu qủa nghiêm trọng . Hậu quả đó được thể hiện ở hai dạng: Sự thay đổi khí hậu của quả đất dẫn đến sự mất cân bằng sinh thái đã có ở đây . Mực nước biển dâng cao : theo dự báo , đến giữa thế kỷ 21 nhiệt độ không khí bình quân trên trái đất sẽ tăng từ 1,5-4,5 độ và mực nước biển trên toàn cầu sẽ dâng cao thêm từ 0,25-1,4m. Đồng thời hiện tượng Elnino làm gia tăng mưa bão và hạn hán nghiêm trọng cho một số vùng trên thế giới. Ngoài ra còn có các ảnh hưởng như ô nhiễm biển và đại dương ,thủng tầng ôzôn( sự phá hoại tâng ôzôn là nguy hại rất lớn đối với con người và thiên nhiên ). 1.3-Đa dạng sinh học(ĐDSH) ở Việt Nam Việt Nam đ−ợc xem là một trong những n−ớc thuộc vùng Đông Nam á giàu về ĐDSH. Do sự khác biệt lớn về khí hậu, từ vùng gần xích đạo tới giáp vùng cận nhiệt đới, cùng với sự đa dạng về địa hình đã tạo nên tính ĐDSH cao ở Việt Nam. Một dải rộng các thảm thực vật bao gồm nhiều kiểu rừng phong phú đã đ−ợc hình thành ở các độ cao khác nhau, từ vùng núi Bắc bộ nh− Hoàng Liên Sơn đến các vùng thấp nh− rừng ngập mặn chiếm −u thế ở ven biển châu thổ Sông Cửu Long và Sông Hồng, rừng tràm ở đồng bằng Nam bộ. Mặc dù có những tổn thất quan trọng về diện tích rừng trong một thời kỳ kéo dài nhiều thế kỷ, hệ thực vật rừng Việt nam vẫn còn phong phú về chủng loại. Cho đến nay đã thống kê đ−ợc 11.373 loài thực vật bậc cao có mạch ( Viện Sinh thái và Tài nguyên Sinh vật ), khoảng 1.030 loài rêu, 2.500 loài tảo và 826 loài nấm. Theo dự đoán của các nhà thực vật học số loài thực vật bậc cao có mạch ít nhất sẽ lên đến 15.000 loài, trong đó có khoảng trên 5.000 loài đã đ−ợc nhân dân ta dùng làm nguồn l−ơng thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thức ăn cho gia súc, lấy gỗ, tinh dầu và nhiều nguyên vật liệu khác. Chắc rằng trong hệ thực vật Việt Nam còn nhiều loài mà chúng ta ch−a biết công dụng của chúng và rất nhiều loài có tiềm năng là nguồn cung cấp sản vật quan trọng - d−ợc liệu chẳng hạn. Hệ động vật Việt Nam cũng hết sức phong phú. Hiện đã thống kê đ−ợc 300 loài thú, 830 loài chim, 260 loài bò sát, 158 loài ếch nhái, 547 loài cá n−ớc ngọt và hơn 2000 loài cá biển và thêm vào đó là hàng ngàn loài động vật không x−ơng sống ở cạn, ở biển và ở n−ớc ngọt Quý giàu về thành phần loài, nhiều loài có ý nghĩa kinh tế cao, mà còn có nhiều nét độc đáo, đại diện cho vùng Đông Nam á. Sự đa dạng thành phần loài động vật hoang dã ở Việt Nam ở n−ớc ta trong hơn chục năm gần đây, cũng đã phát hiện đ−ợc nhiều loài động vật cỡ lớn và trung bình cho khoa học, trong đó có 5 loài thú, 3 loài chim, 2 loài cá. Loài rùa lớn ở Hồ Hoàn Kiếm, giữa thủ đô Hà Nội mới đây cũng đ−ợc xác định là một loài rùa mới cho khoa học. Chúng ta tin rằng ở Việt Nam chắc chắn còn rất nhiều loài động, thực vật ch−a đ−ợc các nhà khoa học biết đến. Ngoài ra Việt Nam còn có phần nội thuỷ và lãnh hải rộng khoảng 226.000 km2 trong đó có hàng nghìn hòn đảo lớn nhỏ và nhiều rạn san hô phong phú là nơi sinh sống của hàng ngàn loài động vật thực vật có giá trị. Nguồn tài nguyên này không những là cơ sở vững chắc của sự tồn tại của nhân dân Việt Nam thuộc nhiều thế hệ đã qua mà còn là cơ sở cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam trong những năm sắp tới. Tuy nhiên, thay vì phải bảo tồn và sử dụng một cách hợp lý nguồn tài nguyên quý giá này, ở nhiều nơi, d−ới danh nghĩa phát triển kinh tế, một số ng−ời/tổ chức/địa ph−ơng đã và đang khai thác quá mức và phí phạm, không những thế, còn sử dụng các biện pháp huỷ diệt nh− dùng các chất độc, kích điện để săn bắt. Việc làm suy thoái các hệ sinh thái, nh− mất rừng, đất ngập n−ớc đã làm mất nơi c− trú mà nhiều loài động, thực vật quý cũng đang bị suy thoái theo, một số loài đang trên đ−ờng bị tiêu diệt. Việt Nam, cũng nh− nhiều n−ớc khác trên thế giới đang đứng tr−ớc những thách thức lớn về vấn đề môi tr−ờng. Để nuôi sống hơn 80 triệu dân và chắc chắn sẽ còn nhiều hơn nữa trong những năm sắp tới, và để phát triển, chúng ta đã và đang phải khai thác một cách ồ ạt các loại tài nguyên thiên nhiên: đất, n−ớc, rừng, biển, động vật, thực vật làm cho các loại tài nguyên quý giá này bị cạn kiệt một cách nhanh chóng. Để đảm bảo sự phát triển bền vững, đối với đa dạng sinh học, nói cách khác là các loại tài nguyên sinh học, dạng tài nguyên có khả năng tái tạo đ−ợc, điều quan trọng là tạo đ−ợc sản l−ợng ổn định tối đa mà không làm cạn kiệt nguồn tài nguyên cơ sở. Sản l−ợng này hoàn toàn có hạn và không thể khai thác quá khả năng chịu đựng, nếu không muốn làm giảm năng suất trong t−ơng lai. Vấn đề là phải

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50385.doc
Tài liệu liên quan