Trải qua gần 30 năm thực hiện việc xuất khẩu lao động đi nước ngoài nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể như ta đã thấy ở trên nhưng công tác xuất khẩu lao động vẫn còn nhiều tồn tại và hạn chế đang nổi cộm mà chúng ta cần phải chấn chỉnh và khắc phục
Về chất lượng lao động là một điều rất được quan tâm của lao động Việt Nam, lao động nước ta được biết đến với những bất lợi thể hiện ở “ba không”: Không nghề, không ngoại ngữ và không tác phong công nghiệp. Điều này trở thành một bất lợi lớn cho lao động nước ta khi làm việc ở nước ngoài.
Như ta đã biết trình độ tay nghề của lao động Việt Nam khi xuất khẩu ra nước ngoài là rất thấp, chúng ta chủ yếu xuất khẩu những lao động phổ thông chưa qua đào tạo nghề, không có trình độ chuyên môn kĩ thuật. Chính vì vậy mà thu nhập của người lao động Việt Nam luôn thấp hơn lao động xuất khẩu của các nước khác.
Sức khỏe của lao động nước ta vẫn còn rất nhiều hạn chế, lao động của nước ta chỉ đủ sức khỏe làm các công việc ở các ngành nghề như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, làm việc trong các nhà máy còn các công việc như đi biển, xây dựng thì chưa đạt yêu cầu. Đây cũng là một trong những trở ngại cho lao động Việt Nam.
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5534 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp xuất nhập khẩu lao động Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
4
28584
1990
3069
921
2148
TỔNG
240301
101014
139217
(Nguồn:Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội )
Với tổng số 240301 lao động được đưa đi xuất khẩu thì có tới 101014 lao động có tay nghề chiếm tỉ lệ 42,06% so với 139217 lao động chưa có nghề. Điều này cho thấy tỉ lệ lao động có tay nghề của nước ta được đưa đi xuất khẩu chiếm một tỉ trong khá cao. Đặc biệt vào năm 1980 tỉ lệ này là 100% còn từ những năm 1981 trở đi thì số lượng lao động giản đơn được tăng lên, nguyên nhân chính là do yêu cầu của phía Chính phủ các nước tiếp nhận lao động Việt Nam không yêu cầu về trình độ tay nghề của lao động. Phần lớn các nước này phân phối ngay lao động Việt Nam vào các nhà máy, cơ sở sản xuất. Họ tự kèm cặp đào tạo cho lao động nước ta để trở thành công nhân thực thụ. Đây là một đặc điểm rất đặc biệt của lao động Việt Nam khi đi làm việc ở nước ngoài kể từ trước đến nay. Nó cũng rất khác biệt với hoạt động xuất khẩu lao động của các nước khác trong khu vực như Philippin, Thái Lan…trong cùng khoảng thời gian này.
Về cơ cấu ngành nghề của lao động Việt Nam xuất khẩu được thể hiện ở bảng số liệu sau:
BẢNG 3: SỐ LIỆU VỀ CƠ CẤU NGÀNH NGHỀ CỦA LAO ĐỘNG
XUẤT KHẨU VIỆT NAM THỜI KÌ 1980 – 1990
NGÀNH NGHỀ
SỐ LAO ĐỘNG
công nghiệp
178190
Cơ khí
63206
công nghiệp nhẹ
104427
hóa chất
7407
Thực phẩm
3150
Xây dựng và vật liệu xây dựng
45597
nông ngiệp
1531
Lâm nghiệp
4718
Các ngành khác
10265
TỔNG
240301
(Nguồn:Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội )
Có thể thấy được rằng cơ cấu ngành nghề mà lao động nước ta được tiếp nhận là tương đối đa dạng tuy nhiên nó vẫn chưa mang tính đa dạng dạng về loại, nhóm lao động. Việc làm của lao động Việt Nam đảm trách chủ yếu là lao động giản đơn, chủ yếu là lao động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng. Tuy nhiên cơ cấu ngành nghề này không phải là do lao động Việt Nam được đào tạo từ trong nước mà phần lớn là do các nước tiếp nhận lao động của nước ta tự kèm cặp, đào tạo và sử dụng cho đến khi kết thúc thời hạn lao động.
Tóm lại, xuất khẩu lao động của Việt Nam ở thời kì này đã cho thấy chất lượng lao động xuất khẩu của nước ta đã được nâng lên rõ rệt, nó thể hiện qua kết quả xuất khẩu lao động tăng dàn theo từng năm, khẳng định lao động Việt Nam đã có thể đáp ứng nhu cầu về lao động của nước tiếp nhận trong nhiều lĩnh vực và ngành nghề lao động.
3.1.2. thời kì từ năm 1991 đến năm 2000
Nếu trong giai đoạn 1980 – 1990 nước ta chủ yếu có quan hệ hợp tác lao động với các quốc gia thuộc khối xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, một số quốc gia ở Châu Phi, Irắc, Quatar thì đến năm 1991 tình hình ở các nước tiếp nhận lao động Việt Nam đều có những biến động. Các nước ở khu vực Đông Âu như Liên Xô, Tiệp Khắc, CHDC Đức có sự biến đổi lớn về thể chế chính trị và thể chế kinh tế, cũng trong thời điểm này một số quốc gia ở châu Phi có tiếp nhận các chuyên gia Việt Nam sang làm việc đều rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế. Irắc và một số quốc gia ở Trung Đông xảy ra chiến tranh vùng vịnh. Tất cả những điều này đã làm cho thị trường xuất khẩu lao động của nước ta bị thu hẹp và rơi vào tình thế bất lợi
Trước những khó khăn và thách thức như vậy thì vào ngày 09/11/1991 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành nghị định số 370/HĐBT về việc đưa người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài. Nghị định này đã mở ra một cơ chế mới trong hoạt động xuất khẩu lao động với mục tiêu và chủ trương là giải quyết việc làm, tạo thu nhập cho người lao động và tăng nguồn ngoại tệ cho đất nước. Nó cũng đã mở đường cho thời kì xuất khẩu lao động mới, một số thị trường mới đã được khai thác và một số thị trường trọng điểm đã được mở rộng như: Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia…. Và đặc biệt là thị trường lao động trên biển. Những thị trường lao động mới này đã thu hút được hàng triệu lao động tham gia trong thời kì này.
Sau 10 năm thực hiện hoạt động xuất khẩu lao động theo cơ chế mới nước ta đã thu được những thành tựu đáng khích lệ.
BẢNG 4: SỐ LIỆU VỀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
THỜI KÌ 1991 - 2000
NĂM
SỐ LAO ĐỘNG
TIỀN GỬI VỀ(USD)
1991
1022
7971600
1992
810
14289600
1993
3960
45177600
1994
9230
109200000
1995
10050
181272000
1996
12661
249139800
1997
18469
321205000
1998
12000
341874000
1999
20700
404578200
2000
31468
505950400
TỔNG
95298
1822747400
(Nguồn:Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội)
Từ năm 1992 cho đến năm 1994 tình hình xuất khẩu lao động của nước ta có dấu hiệu giảm sút trầm trọng so với những năm trước đây. Mặc dù vậy nhưng số lượng lao động được đưa đi xuất khẩu đã tăng trở lại và đều đặn trong nhũng năm tiếp theo. Tuy là ở giai đoạn đầu của thời kì này tình hình xuất khẩu lao động của nước ta có dấu hiệu đi xuống nhưng số lượng ngoại tệ gửi về nước thì không hề giảm, cho đến những năm cuối của thời kì này thì số lượng ngoại tệ đã gấp nhiều lần so với những năm đầu, đơn cử như đến năm 2000 thì lượng ngoại tệ gửi về nước đã gấp 4,64 lần so với năm 1994 và gấp 63,5 lần so với năm 1991. Điều đó chứng tỏ xuất khẩu lao động của Việt Nam đã vượt qua giai đoạn khó khăn và phát triển nhanh chóng.
Ở giai đoạn này xuất khẩu lao động ở nước ta có nhiều biến động về số lượng, nhưng chất lượng của người lao động được đưa đi làm việc ở nước ngoài thì không ngừng được cải thiện. Số người lao động có tay nghề được đưa đi làm việc luôn cao hơn số lao động chưa qua đào tạo nghề.
BẢNG 5: THỐNG KÊ VỀ LAO ĐỘNG XUẤT KHẨU
CÓ NGHỀ VÀ KHÔNG CÓ NGHỀ THỜI KÌ 1991 - 2000
NĂM
SỐ LAO ĐỘNG
LAO ĐỘNG CÓ NGHỀ
LAO ĐÔNG KHÔNG NGHỀ
1991
1022
520
502
1992
810
423
387
1993
3960
2341
1619
1994
9230
4679
4551
1995
10050
5489
4561
1996
12661
7251
5410
1997
18469
9457
9012
1998
12000
6178
5822
1999
20700
11457
9243
2000
31468
16412
15056
TỔNG
120370
64207
56163
(Nguồn:Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội)
Qua bảng số liệu trên cho ta thấy được sự thay đổi về chất lượng lao động khi xuất khẩu ra nước ngoài ngày càng được nâng cao. Tỉ lệ lao động có nghề ở thời kì này là 53,34 % cao hơn 11,28 so với thời kì 1980 – 1990. Mặc dù vậy tỉ lệ này chưa vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực như Philippin la 78,63%, Thái Lan là 80,26% và số lượng lao động nước ta tham gia vào các ngành nghề là không đồng đều. Cũng giống như thời kì 1980 – 1990, thời kì này lao động của nước ta chủ yếu vẫn làm việc ở nhũng ngành nghề giản đơn không đòi hỏi trình độ chuyên môn kĩ thuật và độ lành nghề cao của lao động. Nhìn vào bảng số liệu dưới đây sẽ phản ánh cho chúng ta thấy điều đó:
BẢNG 6: SỐ LIỆU VỀ CƠ CẤU NGÀNH NGHỀ CỦA LAO ĐỘNG
XUẤT KHẨU VIỆT NAM THỜI KÌ 1991 – 2000
NGÀNH NGHỀ
SỐ LAO ĐỘNG
công nghiệp
67050
công nghiệp nặng
5019
công nghiệp nhẹ
62031
Xây dựng và vật liệu xây dựng
37459
dịch vụ
4199
nông ngiệp
260
Lâm nghiệp
6475
Các ngành khác
4927
TỔNG
120370
(Nguồn:Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội)
Đến thời điểm này cơ cấu lao động xuất khẩu của Việt Nam làm việc ở nước ngoài của nước ta có sự thay đổi có chiều hướng sang những ngành công nghiệp nhẹ và có sự biến đổi giữa các ngành nghề nhưng sự thay đổi đó là không đáng kể. Lao động Việt Nam chủ yếu vẫn làm việc trong các lĩnh vực không đòi hỏi trình độ chuyên môn kĩ thuật. Chủ yếu tập trung ở các ngành công nghiệp và vật liệu xây dựng có tỉ trọng cao nhất. Đó là một dấu hiệu tốt cho lao động Việt Nam góp phần nâng cao thu nhập và đào tạo tay nghề cho lao động Việt Nam sau khi về nước.
3.1.2. Thời kì từ năm 2001 đến năm 2010
Tổng kết kinh nghiệm của 20 năm xuất khẩu lao động nước ta đã rút ra nhiều bài học mới về công tác đào tạo nghề cho xuất khẩu lao động và mở rộng thị trường xuất khẩu nên ở giai đoạn 2001 -2010 này đã thu được nhiều thành tựu đáng kể và cao gấp nhiều lần so với các thời kì trước. Số liệu được tổng hợp dưới đây sẽ cho ta thấy điều đó.
BẢNG 7: SỐ LIỆU VỀ TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG
THỜI KÌ 2001 - 2010
NĂM
SỐ LAO ĐỘNG
TIỀN GỬI VÊ(Triệu VND)
2001
36168
689660400
2002
46122
1400000000
2003
75000
1578025000
2004
68600
1485140200
2005
70594
1498000000
2006
85000
1625600000
2007
80000
1687422300
2008
87000
1752891010
2009
75000
1548201000
2010
85000*
1700000000*
TỔNG
708484**
14964939910**
(Nguồn: Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội)
(* số liệu dự kiến cho năm 2010)
(** gồm cả số liệu ước tính cho năm 2010)
Vào thời kì này chính sách xuất khẩu lao động của nước ta đã có phần thông thoáng và mở rộng được nhiều hơn chính và vậy mà số lượng người lao động đi làm việc ở nước ngoài ngày một tăng lên, nhất là 4 năm trở lại đây, tình hình xuất khẩu lao động nước ta đã có nhiều khởi sắc. Riêng năm 2009 do ảnh hưởng của cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu nên tình hình xuất khẩu lao động bị giảm nhưng không đáng kể. Theo dự báo thì năm 2010 tình hình xuất khẩu lao động của nước ta sẽ phục hồi trở lại và hoàn thành mục tiêu đã đề ra.
Thời kỳ này cũng cho thấy sự biến chuyển rõ rệt về cơ cấu lao động có nghề xuất khẩu. Cơ cấu lao động có nghề cung đã tăng lên đáng kể so với 2 thời kỳ trước:
BẢNG 8: THỐNG KÊ VỀ LAO ĐỘNG XUẤT KHẨU
CÓ NGHỀ VÀ KHÔNG CÓ NGHỀ THỜI KÌ 2001 – 2010
NĂM
LAO ĐỘNG XUẤT KHẨU
LAO ĐỘNG CÓ NGHỀ
LAO ĐÔNG KHÔNG NGHỀ
2001
36168
18426
17742
2002
46122
26875
19247
2003
75000
33128
41872
2004
68600
42085
26515
2005
70594
43582
27012
2006
85000
56230
28770
2007
80000
52580
27420
2008
87000
59032
27968
2009
75000
58658
16342
2010
85000
65000*
20000*
TỔNG
708484
460596
247888
(Nguồn:Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội)
(* số liệu dự kiến cho năm 2010)
Qua bảng số liệu trên cho thấy giai đoạn này nước ta đã chú ý đến xuất khẩu lao động có nghề ra nước ngoài, tỉ lệ không hoàn toàn là 100% nhưng đang từng bước được nâng lên, theo Hiệp hội xuất khẩu lao động Việt Nam thì đến năm 2010 số lao động xuất khẩu có tay nghề đạt trên 75%. Có thể thấy được công tác xuất khẩu lao động ở nước ta thời kỳ này chú trọng về chất lượng nhiều hơn là số lượng, điều đó cũng dễ hiểu muốn khai thác hết tiềm năng của các thị trường cao cấp và củng cố chất lượng tại các thị trường truyền thống thì không còn cách nào khác ngoài đào tạo nghề cho người lao động
Do được đào tạo nên cơ cấu lao động cho xuất khẩu của nước ta cũng có nhiểu thay đổi rõ rệt, nó thể hiện qua bảng số liệu sau:
BẢNG 9: SỐ LIỆU VỀ CƠ CẤU NGÀNH NGHỀ CỦA LAO ĐỘNG
XUẤT KHẨU VIỆT NAM THỜI KÌ 2001 – 2010*
NGÀNH NGHỀ
SỐ LAO ĐỘNG
Công nghiệp
512520
công nghiệp nặng
128920
công nghiệp nhẹ
383600
Xây dựng và vật liệu xây dựng
45896
Dịch vụ
25869
Nông ngiệp
21583
Lâm nghiệp
13589
Các ngành khác
89027
TỔNG
708484
(Nguồn:Cục quản lý lao động ngoài nước –Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội)
(* số liệu bao gồm cả số liệu dự kiến cho năm 2010)
Cơ cấu lao động xuất khẩu của nước ta đã có nhiều sự thay đổi. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành nghề, lĩnh vực là khá rõ, ở thời kỳ này lao động nước ta tập trung chủ yếu ở các ngành công nghiệp nhẹ, vật liệu xây dựng. Đặc biệt các lĩnh vực như nông nghiệp, lâm nghiệp đã được các doanh nghiệp nước ta tập trung khai thác. Sở dĩ các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp có số lao động nước ta tham gia nhiều là vì những lĩnh vực này không đòi hỏi phải có chuyên môn kỹ thuật và phù hợp với trình độ lao động của lao động Việt Nam.
Tóm lại, gần 30 năm đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài nước ta đã giải quyết được rất nhiều việc làm cho người lao động và góp phần cải thiện đời sống cho rất nhiều người lao động. Có thể nói gần 30 năm qua xuất khẩu lao động là một lĩnh vực xuất khẩu đặc biệt mang lại lợi nhuận kinh tế tương đối cao cho các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động này và góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế trong 30 năm qua. Tuy nhiên xuất khẩu lao động ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế và thiếu sót cần được khắc phục kịp thời.
3.2. Những hạn chế của xuất khẩu lao động ở Việt Nam
Trải qua gần 30 năm thực hiện việc xuất khẩu lao động đi nước ngoài nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể như ta đã thấy ở trên nhưng công tác xuất khẩu lao động vẫn còn nhiều tồn tại và hạn chế đang nổi cộm mà chúng ta cần phải chấn chỉnh và khắc phục
Về chất lượng lao động là một điều rất được quan tâm của lao động Việt Nam, lao động nước ta được biết đến với những bất lợi thể hiện ở “ba không”: Không nghề, không ngoại ngữ và không tác phong công nghiệp. Điều này trở thành một bất lợi lớn cho lao động nước ta khi làm việc ở nước ngoài.
Như ta đã biết trình độ tay nghề của lao động Việt Nam khi xuất khẩu ra nước ngoài là rất thấp, chúng ta chủ yếu xuất khẩu những lao động phổ thông chưa qua đào tạo nghề, không có trình độ chuyên môn kĩ thuật. Chính vì vậy mà thu nhập của người lao động Việt Nam luôn thấp hơn lao động xuất khẩu của các nước khác.
Sức khỏe của lao động nước ta vẫn còn rất nhiều hạn chế, lao động của nước ta chỉ đủ sức khỏe làm các công việc ở các ngành nghề như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, làm việc trong các nhà máy còn các công việc như đi biển, xây dựng thì chưa đạt yêu cầu. Đây cũng là một trong những trở ngại cho lao động Việt Nam.
Trình độ ngoại ngữ của lao động được đánh giá là rất kém. Những mâu thuẫn trong lao động đều xuất phát từ bất đồng ngôn ngữ giữa giới chủ và lao động Việt Nam. Nhiều lao động bị trả về nước trước thời hạn do không đạt yêu cầu về trình độ ngoại ngữ.
Kỉ luật lao động là một điều mà đã gây ra tai tiếng cho lao động nước ta khi làm việc ở nước ngoài. Lao động nước ta khi làm việc ở các nước sở tại đều thiếu kỉ luật và thiếu nghiêm túc trong việc thực hiện bảo hộ lao động. Bằng chứng là rất nhiều lao động nước ta làm việc tại Malaysia thường xuyên bị tai nạn lao động kể từ năm 2004 trở lại đây.
Nguyên nhân chính của những vấn đề nêu ở trên là do: người lao động được đưa đi làm việc ở nước ngoài đa phần là lao động nông thôn. Những lao động này phần lớn là chưa qua một lớp đào tạo chính quy về tay nghề. Cuộc sống làm nghề nông ở một nước còn kém phát triển như Việt Nam đã hình thành nên trong họ tác phong chậm chạp, thiếu sự gắn bó trong hợp tác lao động, thiếu hiểu biết về sản xuất công nghiệp. Nhiều người trong số họ còn chưa học hết phổ thông. Mặt khác, những lao động này hầu hết đều có cuộc sống rất khó khăn, khi đi làm việc ở nước ngoài luôn mang trên vai gánh nặng thu nhập rất lớn nên họ thường bất chấp tất cả miễn là kiếm được tiền cao.
Bên cạnh đó tình hình xuất khẩu lao động ở nước ta còn tồn tại một số vấn đề trong công tác quản lý xuất khẩu lao động. Hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài tuy nhiên có rất ít doanh nghiệp có văn phòng đại diện để giải quyết các vấn đề liên quan đến lao động của mình điều đó chứng tỏ phần lớn các doanh nghiệp đang hoạt động theo kiểu “đem con bỏ chợ”. Đó là chưa kể tại một số thị trường, các doanh nghiệp chỉ biết tạo nguồn trong nước, thu phí, bàn giao lao động và… hết trách nhiệm. Chính vì thế mới xảy ra chuyện lao động Việt Nam tại nước ngoài không có “người quản lý” dẫn tới việc sống và làm việc vô tổ chức, bị trục xuất về nước cũng chẳng có cơ quan nào đứng ra giải quyết. Trong thời gian ngắn gần đây, có hàng trăm lao động Việt Nam đi Trung Đông làm việc bị trục xuất về nước vì vi phạm pháp luật. Một số khác thì bị bắt, bị phạt tù vì nấu rượu, đánh nhau và ăn cắp. Nghịch lý là các doanh nghiệp xuất khẩu lao động đang tìm mọi cách mở rộng thị trường thì người lao động của ta lại vô tư phá. Trước khi lên đường đến các nước ở khu vực Trung Đông làm việc, phần lớn lao động Việt Nam đều được học giáo dục định hướng, trang bị kiến thức về luật pháp, lối sống nghiêm khắc ở xứ sở đạo hồi. Đó là cấm uống rượu, nấu rượu và chọc ghẹo phụ nữ,… Thế nhưng, vừa chân ướt chân ráo đến đây nhiều lao động của ta đã phá rào – ngang nhiên nấu rượu và chè chén say sưa. Theo ông Phạm Văn Thắng, trưởng phòng Trung Đông công ty Sovilaco nói “đúng là lao động của ta coi trời bằng vung”. Nhiều công trình xây dựng ở Quarta bị lao động Việt Nam ăn cắp vật tư xây dựng, chủ yếu là dây đồng. Để hợp thức hóa số dây đồng lấy cắp, họ mua axit về đổ vào cho nó biến thành phế liệu…Vì các nước ở Trung Đông đều cấm uống rượu, nấu rượu lậu nên lao động của ta “sáng tạo” bằng cách lấy đường và bột nồi nấu chung rồi ủ thành rượu. Mới đây, cảnh sát Quarta bắt được nhiều vụ lao động Việt Nam nấu rượu lậu với số lượng lớn để bán, trong đó có vụ ủ rượu trong thùng chứa 60 lít. Một tật xấu khác khiến cho nhiều chủ sử dụng lao động ở Trung Đông phải thốt lên rằng không hiểu tại sao lao động Việt Nam dễ nổi nóng và dễ đánh nhau như thế? Chỉ vì những vụ việc va chạm, xích mích nhỏ là họ gây gỗ và đánh nhau. Theo số liệu chưa đầy đủ, trong số 7.000 lao động được tiếp nhận vào Quatar làm việc, đã có khoảng 400 người bị trục xuất về nước vì vi phạm pháp luật. Ngoài ra, còn có vài trăm lao động bị phạt tù vì nấu rượu lậu để bán hoặc ăn cắp... Điều đáng nói là lao động Việt Nam mới có mặt ở Quatar, Dubai, Ảrập - Xêút khoảng gần 5 năm nay và số lượng còn khiêm tốn nhưng tiếng xấu “nổi như cồn”. Cộng đồng lao động nước ngoài đến từ nhiều nước khác nhau như Ấn Độ, Nêpan, Philippines… lên đến cả triệu người đang làm việc ở đây nhưng thái độ tuân thủ pháp luật, lối sống của nước sở tại của họ khá cao. Còn lao động của ta thì ngược lại - nổi đình nổi đám vì các “tật xấu” như gây sự, đánh nhau, sống bừa bãi, đình công và hay đòi hỏi… Trước thực trạng chất lượng lao động Việt Nam có “vấn đề” như nêu trên, nhiều doanh nghiệp mới đưa lao động sang thị trường Trung Đông hoặc chuẩn bị bước chân vào đều có chung tâm lý rụt rè, ngán ngẩm. Họ có chung trăn trở là “doanh nghiệp thì cố mở thị trường còn người lao động thì lại phá”. Mới đây, Công ty Sovilaco và một số công ty khác đã bị đối tác hủy hợp đồng đưa hàng trăm lao động Việt Nam sang làm việc. Lý do là ở những nhà máy đó vừa xảy ra nhiều vụ việc lao động đánh nhau và hay ăn cắp. Một nguyên nhân khác khiến cho chất lượng lao động Việt Nam ở đây đáng báo động là có nhiều doanh nghiệp xuất khẩu lao động làm ăn theo kiểu chụp giật. Họ tuyển lao động ồ ạt từ những vùng sâu, vùng xa nhưng thiếu trang bị kiến thức, giáo dục định hướng cho họ trước khi đi nước ngoài làm việc.
Một điều đáng lo ngại nữa là tình trạng phá vỡ hợp đồng vẫn còn diễn ra nhưng chưa có giải pháp hữu hiệu để giải quyết. Ở một số thị trường truyền thống như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, tỷ lệ vi phạm hợp đồng của lao động nước ta vẫn cao ( khoảng 10 – 15%) làm ảnh hưởng tới uy tín của lao động Việt Nam. Hiện tượng các tổ chức, cá nhân lợi dụng để lừa đảo, thu tiền bất chính của người lao động đi xuất khẩu lao động vẫn còn.
Đề án đưa người lao động đi làm việc nước ngoài đến năm 2015 của Chính phủ đang được thực hiện, theo đó cùng với việc nâng tỷ lệ đưa người lao động Việt Nam ra nước ngoài, mở rộng thị trường lao động, nâng cao chất lượng, thì siết chặt quản lý, nhất là đối với các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cũng được đặt ra cấp thiết.
Ngoài ra vẫn còn một số hạn chế trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu lao động của nước ta còn hạn chế. Hiện nay nước ta vẫn đang tập trung chủ yếu vào việc xuất khẩu lao động ở các thị trường truyền thống và chưa có sự phát triển những thị trường mới trong bối cảnh mà thị trường truyền thống đang ngày càng bị thu hẹp.Nhiều thị trường nhiều tiềm năng như Anh, Mỹ, Canada, Pháp… nhưng chưa được chúng ta quan tâm và khai thác nên có tình trạng lao động Việt Nam đang dẫm chân lên nhau tại nhiều thị trường truyền thống.
Hiện nay các doanh nghiệp xuất khẩu lao động vẫn còn có thái độ trông chờ, ỷ lại vào đối tác. Thiếu đội ngũ cán bộ có trình độ, năng lực, kinh nghiệm về quản lý lao động, chưa chấp hành tốt những quy định về chế độ tuyển chọn, đào tạo, định hướng nhằm bảo vệ người lao động làm việc tại nước ngoài.
Hoạt động đưa lao động xuất khẩu ở nước ngoài đang là một bức tranh với hai màu trắng đen đối lập. Một tình trạng khiến cho hình ảnh các công ty xuất khẩu lao động đang ngày càng xấu đi trong mắt người lao động đó là hiện tượng ngày càng có nhiều công ty, doanh nghiệp lừa đảo và thủ đoạn môi giới lừa đảo, tuyển dụng ngày càng tinh vi, phức tạp. Trong thời gian qua đã xuất hiện một số doanh nghiệp không có chức năng xuất khẩu lao động nhưng cũng làm công tác tư vấn và thu tiền bất hợp pháp của người lao động dưới danh nghĩa đưa đi học và làm việc tại nước ngoài. Một số tổ chức, cá nhân đã nhập nhằng lập nên những cái gọi là “trung tâm” hoặc “công ty cung ứng lao động”, mượn danh pháp hoặc mạo danh các doanh nghiệp có chức năng xuất khẩu lao động có chức năng xuất khẩu lao động với mục đích lừa đảo người lao động. Tình trạng lừa đảo xảy ra nhiều ở các thị trường tiềm năng, có thu nhập cao đang thực hiện thí điểm đặc biệt là ở những thị trường hấp dẫn như Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia, Canada, Mỹ… Đáng chú ý là hơn 80% số vụ lừa đảo đều nhắm vào lao động có nhu cầu đi làm việc tại Hàn Quốc. Bên cạnh một số tổ chức, cá nhân hoạt động phi pháp, cò mồi, môi giới lừa đảo, còn có một số đối tượng người Hàn Quốc thông tin rằng họ có thể tác động tới các cơ quan có thẩm quyền của nước này để người lao động Việt Nam đã nộp hồ sơ đăng ký dự tuyển sớm được lựa chọn vào xuất cảnh đi làm việc tại Hàn Quốc. Thêm vào đó, mặc dù chương trình tu nghiệp sinh sang Hàn Quốc (do các doanh nghiệp xuất khẩu lao động tuyển chọn, đào tạo ngoại ngữ) đã hết hạn từ 1/1/2007, nhưng vẫn có rất nhiều người bị cò mồi lừa đảo thu tiền, hứa hẹn sẽ đưa đi theo dạng này. Nguyên nhân chủ yếu là do thông tin về xuất khẩu lao động chưa đến được với mọi người lao động, phần lớn người lao động không biết tiếp cận với cơ quan đơn vị nào để làm thủ tục đi làm việc ở nước ngoài. Ở một số địa phương,công tác quản lý hoạt động xuất khẩu lao động của cơ quan chức năng trên địa bàn chưa chặt chẽ, chưa kịp thời phát hiện, ngăn chặn những vụ việc lừa đảo người lao động. Bên cạnh đó,việc mở nhiều chi nhánh, trung tâm của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động cũng khiến tình hình trở nên phức tạp hơn.
Nguyên nhân chính của tình trạng này là do chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng quản lý nhà nước về xuất khẩu lao động cấp nhà nước với các cơ quan cấp địa phương và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này. Chính vì thế, các cơ quan quản lý chưa nắm rõ tình hình hoạt động cụ thể của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Từ đó, có phương hướng chỉ đạo hay sự chấn chỉnh kịp thời để công tác xuất khẩu lao động đạt hiệu quả cao hơn. Các cơ quan chức năng có thẩm quyền trong lĩnh vực này chưa tổ chức việc cung cấp một cách có hệ thống thông tin thị trường lao động nước ngoài làm cơ sở cho hoạt động hiệu quả của các doanh nghiệp cũng như phổ cập hiểu biết cho người dân về xuất khẩu lao động.
Các chính sách, văn bản về xuất khẩu lao động chưa bám sát thực tế và thường đi sau thực tế. Thủ tục xuất cảnh và các thủ tục khác có liên quan thường rườm rà, phức tạp gây mất nhiều thời gian và tiền của của người lao động. Công tác triển khai thực hiện, kiểm tra, thanh tra hoạt động xuất khẩu lao động được tiến hành chưa thực sự nghiêm túc và có hiệu quả.
II. THỰC TRẠNG VỀ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG CỦA VIỆT NAM
1. Những thành công và khó khăn ở thị trường truyền thống
Theo thống kê của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội thì hiện nay có khoảng 1,5 triệu lao động của nước ta đang làm việc tại các thị trường lao động ở nước ngoài như: Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia, … Những người đi xuất khẩu lao động đã phần nào cải thiện được cuộc sống của gia đình họ và góp phần vào việc xóa đói giảm nghèo của đất nước. Tuy nhiên trong những năm gần đây thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam đã có nhiều thay đổi lớn, nhiều thị trường được xem là “truyền thống” đang rơi vào tình trạng khó khăn.
Thị trường lao động Đài Loan - một thị trường được xem là hấp dẫn với lao động Việt Nam, nhưng chủ yếu họ chỉ tiếp nhận những lao động có nghề, phải biết tiếng Hoa ở mức độ cơ sở và kèm theo đó là những quy định ngặt nghèo về sức khỏe. Mặc dù vậy ở thị trường này không có sự tác động về mặt nhà nước như những thị trường khác nên đã thu hút được nhiều lao động quan tâm. Theo đánh giá của Ủy ban lao động Đài Loan thì hiện nay lao động Việt Nam đang làm việc chủ yếu ở những ngành nghề như: điện tử, may mặc, dệt, chế tạo máy, giúp việc gia đình, thuyền viên đánh cá…(thống kê sơ bộ thì có khoảng 28 ngành nghề khác nhau). Mức lương hiện tại của lao động nước ta làm việc tại thị trường này khoảng từ 400 USD/người/tháng đến 1300 USD/người/tháng. Lao động Việt Nam được giới chủ tại Đài Loan đánh giá là cần cù, chăm chỉ và nhanh chóng hòa nhập với công việc
Thị trường lao động Hàn Quốc là một thị trường khá dễ tính với lao động nước ngoài, nhưng họ chỉ tiếp nhận các tu nghiệp sinh đến Hàn Quốc làm việc, với tiêu chuẩn khá “thông thoáng” là có đủ sức khỏe, chăm chỉ làm việc, đủ trình độ tiếng Hàn và không cần phải có nghề vì họ muốn tự mình đào tạo công nhân theo tiêu chuẩn kĩ thuật của riêng mình. Cho đến nay tại Hàn Quốc có hơn 55000
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng và giải pháp xuất nhập khẩu lao động Việt Nam.doc