Mỗi năm, chúng ta cần nhập khẩu một lượng máy móc thiết bị phục vụ phát triển kinh tế trị giá khoảng 7-8 tỷ USD. Nếu ngành Cơ khí phát triển, giành thị phần này thì doanh thu rất lớn. Đó là chưa kể sẽ tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. Theo kế hoạch phát triển ngành cơ khí trọng điểm, từ nay đến năm 2010, nước ta phải đáp ứng tối thiểu 45%-50% nhu cầu sản phẩm cơ khí trong nước và xuất khẩu 30% giá trị sản lượng, doanh số đạt bình quân từ 3,5-4 tỷ USD. Mục tiêu của Chương trình cơ khí trọng điểm đến năm 2010 và tầm nhìn tới 2020 là, tập trung vào 8 nhóm chuyên ngành CK lớn như máy động lực, máy kéo và máy nông nghiệp, máy công cụ, thiết bị toàn bộ, cơ khí xây dựng, CK tàu thủy, CK ô tô và cơ khí giao thông vận tải, thiết bị điện
Một thực tế cho thấy, ngành cơ khí đang phát triển với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, trong đó nhiều doanh nghiệp tư nhân đang nổi lên như là các nhân tố tích cực. Nhiều doanh nghiệp bắt đầu hướng tới đầu tư vốn cho sản xuất và nội địa hóa các các sản phẩm phụ trợ. Ví dụ, Công ty Ô tô Trường Hải cũng đang vươn lên chiếm lĩnh thị trường ô tô tải và có kế hoạch lắp ráp xe du lịch. Chỉ riêng tại khu liên hợp lắp ráp ô tô tại Chu Lai, doanh nghiệp này đang đầu tư 1.800 tỷ đồng. Nhiều doanh nghiệp khác đang quan tâm đến khả năng đầu tư các dự án sản xuất các thiết bị cơ khí tiêu dùng. Tương tự, Tổng Công ty CK GTVT Sài Gòn (Samco), từ năm 2002 chỉ sản xuất xe tải đóng thùng và xe chuyên dùng, đến nay đã là một trong những đơn vị hàng đầu sản xuất xe buýt, xe khách với tỷ lệ nội địa hóa trên 20%, doanh thu hàng năm đạt gần 100 tỷ đồng.
42 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1753 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và một số giải pháp để phát triển đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu ở Việt Nam hiện nay và trong tương lai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iày, điện tử và linh kiện máy tính... chủ yếu vẫn còn mang tính chất gia công. Cơ cấu hàng xuất khẩu chủ yếu chuyển dịch theo chiều rộng mà chưa đi vào chiều sâu, xuất khẩu chủ yếu dựa vào khai thác lợi thế so sánh sẵn có mà chưa khai thác được lợi thế cạnh tranh thông qua việc xây dựng các ngành công nghiệp có mối liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi giá trị gia tăng xuất khẩu lớn. Nhập siêu ở mức cao và chưa có giải pháp kiềm chế hiệu quả, triệt để, đã ảnh hưởng tiêu cực đến một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô như cán cân thanh toán, dự trữ ngoại tệ, nguồn lực đầu tư...Theo đánh giá của Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC), Việt Nam là thị trường đầu tư tiềm năng thứ 3 thế giới chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ, đứng đầu ASEAN. Và theo Báo cáo của Uỷ ban Thương mại và Phát triển của Liên hiệp quốc công bố tháng 10/2007 thì Việt Nam đứng thứ 6 trong các nền kinh tế hấp dẫn nhất về đầu tư toàn cầu. Điều tra 6.700 doanh nghiệp dân doanh của VCCI năm 2007 cũng cho thấy tâm lý lạc quan này. SD/người). Với năng suất thấp như trên thì giá trị thặng dư còn đang rất nhỏ nhoi.
Hiện trên thế giới phố biến hai mô hình phát triển đô thị: theo chiều rộng và theo chiều sâu.
Phát triển theo chiều rộng có thể xem như sự mở rộng về mặt địa lý, nhưng cũng có hnghĩa là mở rộng về mặt hành chính. Phát triển theo chiều sâu tạm hiểu là phát triển về chất lượng đô thị, tức là nâng cấp hạ tầng xã hội của đô thị. Ta sẽ cùng xét các mặt lợi hại của hai giải pháp phát triển này.Thứ nhất là phát triển theo chiều rộng. Giải pháp này cho phép tăng các nguồn tài nguyên của đô thị và vì vậy mà đô thị đó sẽ hấp dẫn đầu tư hơn. Đô thị có thể sẽ có nguồn kinh phí dồi dào để phát triển. Các vùng lãnh thổ của đô thị này sẽ có thể được đầu tư phát triển đồng bộ hơn do cùng một cơ quan quản lý. Tuy nhiên, đây cũng chính là nhược điểm của việc phát triển đô thị theo chiều rộng, tức là mở rộng về mặt quản lý hành chính. Việc tập trung các vùng lãnh thổ cho một cơ quan quản lý hành chính có thể gây quá tải cho cơ quan quản lý này. Hiện tượng này rất phổ biến ở các nước đang phát triển và được gọi là "hội chứng đô thị đầu to" hay "siêu đô thị". Mexico, Brazil, Ấn Độ là những quốc gia đang phải đối mặt với những hậu quả nhức nhối của hội chứng này.Hội chứng này là mối lo chung trên toàn thế giới. Vấn đề nan giải của các đô thị này là hố sâu giàu nghèo (về kinh tế và tri thức) và chênh lệch giữa đô thị và nông thôn. Nguyên nhân tự phát một phần là do tốc độ phát triển nhanh của đất nước. Các nguồn đầu tư mới chỉ tập trung chủ yếu vào thành thị nên hạ tầng ở đô thị tốt hơn hẳn hạ tầng ở nông thôn. Kết quả là để tiếp cận được dịch vụ thì những người dân ở nông thôn (nơi có hạ tầng kém phát triển) sẽ dồn về đô thị (nơi có hạ tầng tốt hơn). Đô thị vì thế mà quá đông và sẽ phình ra. Hệ quả tiếp theo là hạ tầng đô thị bị quá tải và chất lượng vì thế mà giảm sút. Lúc này thì chức năng tiêu thụ sản phẩm và cung cấp các hỗ trợ phát triển cho nông thôn của đô thị cũng yếu đi. Những hệ quả nảy sinh liên tiếp này sẽ trở thành nguyên nhân cơ hội của hàng loạt các vấn đề về xã hội và môi sinh, không chỉ cho đô thị mà còn cho cả các vùng nông thôn lân cận..Thực tế thì phát triển đô thị theo chiều rộng là hướng quy hoạch phát triển áp dụng cho các khu đô thị mới hoặc các thành phố mới, những nơi đô thị hoá tự phát hoặc quy hoạch để đô thị hoá. Trong khi đó, phát triển đô thị theo chiều sâu lại là giải pháp để tránh, khắc phục và/hoặc giải quyết các vấn đề hệ quả của sự phình trướng đô thị. Để phát triển đô thị theo chiều sâu thông thường được tiến hành ở hai quy mô: quy hoạch phát triển vùng và quy hoạch thành phố.Quy hoạch vùng theo chiều sâu có mục đích phát triển đồng đều tất cả các vùng, cả thành thị lẫn nông thôn. Để vạch ra được các đề án quy hoạch này, đòi hỏi phải có những nghiên cứu liên ngành thấu đáo về điều kiện tự nhiên và văn hóa xã hội của các vùng, đặc biệt là những ưu thế của mỗi vùng để phát huy. Chính những ưu thế được phát huy này sẽ tạo ra những đặc thù riêng, hấp dẫn của từng vùng mà lõi của vùng chính là trung tâm đô thị. Quy phát triển thành phố, hay trung tâm đô thị theo chiều sâu chính là quy hoạch phát triển hạ tầng đô thị. Ta hiểu và quy ước có ba loại (cấp) hạ tầng đô thị gồm: hạ tầng vật lý, hạ tầng dịch vụ và hạ tầng xã hội.Hạ tầng vật lý chính là cơ sở vật chất của đô thị, bao gồm toàn bộ các công trình có thể nhìn thấy được. Hạ tầng dịch vụ là hệ thống quản lý khai thác và phân phối hệ thống hạ tầng vật lý sao cho người dân có thể tiếp cận và sử dụng được. Hạ tầng xã hội chính là kết quả đánh giá chất lượng của hai hệ thống hạ tầng trước, gồm một loạt các chỉ số như tuổi thọ trung bình, tỉ lệ trẻ em sống khi sinh, tỉ lệ suy dinh dưỡng, phổ cập giáo dục, tỉ lệ biết chữ, trình độ nhận thức, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế v.v. Như vậy, phát triển đô thị theo chiều sâu chính là quy hoạch xây dựng hệ thống hạ tầng vật lý và thiết lập hệ thống quản lý hạ tầng. Hai yếu tố hạ tầng này cần có phương án phát triển đồng bộ và đồng thời nhằm thu được hiệu quả cao nhất về hạ tầng xã hội.
2. Cơ cấu lao động chuyển dịch chậm, chưa cùng nhịp với sự chuyển dịch cơ cấu ngành và yêu cầu nâng cao hiệu quả của nền kinh tế.
Đầu tư khai thác còn mang tính tự phát không tập trung.Không đẩy mạnh khoa học kĩ thuật lam thất thoát các nguồn tài nguyên
Tổn thất trong khai thác dầu khí của Việt Nam là 50-60%, than hầm lò là 40-60% còn trong chế biến vàng là 60-70%. Đây chỉ là ba trong những con số đau xót về tình trạng lãng phí sử dụng tài nguyên và nhiên liệu, nguyên liệu đầu vào của các ngành sản xuất Việt Nam đã được công bố tại hội thảo ""Phát triển bền vững ngành và doanh nghiệp"" sáng 10/9/2004 tại Hà Nội.
Việt Nam ""rừng vàng biển bạc"" là điều hoàn toàn đúng, nhưng chưa đủ. Việt Nam có trên 5.000 mỏ, với khoảng 60 loại khoáng sản, nhưng phần lớn lại là loại mỏ vừa và nhỏ, hầu hết đều không đủ khai thác với quy mô công nghiệp. Thêm vào đó, nguồn tài nguyên không tái tạo này đang đứng trước nguy cơ cạn kiệt vì sự khai thác và sử dụng quá lãng phí.
Thất thoát từ khai thác đến chế biến...
Theo TS Lê Minh Đức, phó vụ trưởng Vụ Khoa học Giáo dục Tài nguyên và Môi trường (Bộ Kế hoạch-Đầu tư), tổn thất trong khai thác khoáng sản nhiều ngành lên đến trên 50%. Cụ thể: Khai thác than hầm lò, tổn thất là 40%-60%. Khai thác apatit: 26%-43%; quặng kim loại 15%-30%; vật liệu xây dựng 15%-20%; và dầu khí là 50%-60%.
Đối với các mỏ vừa và nhỏ (chiếm đa số), sự thất thoát không dừng lại ở một vài chục phần trăm mà nguy cơ mất mỏ là rất nghiêm trọng. Do năng lực có hạn, khai thác phần lớn là thủ công, nên đa số các mỏ nhỏ hiện nay chỉ lấy được những phần giàu nhất, bỏ đi toàn bộ các quặng nghèo khoáng sản đi cùng, dẫn đến không thể tận thu được.
Bên cạnh đó, tổn thất trong chế biến khoáng sản cũng rất cao. Khai thác vàng là một ví dụ, do độ thu hồi quặng vàng trong chế biến (tổng thu hồi) hiện chỉ đạt khoảng 30%-40%, nghĩa là hơn một nửa thải ra ngoài bãi thải, không chỉ mất mát mà còn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. , Nếu so với chỉ tiêu một số nước, thu hồi vàng trong quặng thường chiếm 92%-rõ ràng đây là một tổn thất quá lớn. Đối với những mỏ vừa và nhỏ, chủ yếu do dân tự khai thác với công nghệ thô sơ, rõ ràng càng không thể đánh giá hết những tổn thất.
Với tài nguyên nước, mức sử dụng nước ở nhiều ngành công nghiệp là rất cao và lãng phí, đặc biệt khu vực tư nhân, các doanh nghiệp vừa và nhỏ để thất thoát nước dùng trong sản xuất phần lớn không thể kiểm soát được. Rõ rệt nhất là ngành bia, trên thế giới để sản xuất 1 lít bia trung bình sử dụng khoảng 4 lít nước, song ở Việt Nam cao hơn gấp ba lần (khoảng 13 lít nước). Các ngành dệt và ngành giấy cũng ở tình trạng tương tự.
Về tiêu hao năng lượng, với ngành thép, công nghệ sử dụng của Việt Nam hiện có thời gian nấu cao hơn 360% so với thế giới, các chỉ tiêu tiêu hao thép phế, điện và điện cực đều quá cao, đặc biệt tiêu hao điện bằng 257% so với các nước, song công đoạn cán có tốc độ chỉ bằng 12,7% so với các nhà máy trên thế giới.
Hiệu quả kém vì công nghệ khai thác lạc hậu
Tuy nhiên, các ngành và doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa nhận thức được đầy đủ vai trò của công nghệ với việc giảm lãng phí đầu vào. Thống kê của Bộ Khoa học-Công nghệ cho thấy: Chỉ có chưa đến 0,01% tổng doanh thu của doanh nghiệp dành cho đầu tư mới công nghệ. Bên cạnh đó, mặc dù được khuyến cáo về ưu tiên nhập các thiết bị công nghệ từ các nước G7 song do nguồn đầu tư hạn hẹp, đa phần doanh nghiệp mua các thiết bị từ Trung Quốc, Đài Loan giá rẻ, chất lượng trung bình nên càng làm cho nguyên, nhiên liệu đầu vào tăng cao.
""Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam"" vừa được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định ban hành ngày 17/8 vừa qua. Đây là một chiến lược khung, bao gồm những định hướng lớn làm cơ sở pháp lý để các Bộ, ngành, địa phương, các tổ chức và cá nhân có liên quan triển khai thực hiện cam kết về tiết kiệm tài uhnguyên, bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, để chiến lược này thực sự đi vào đời sống thì chắc chắn cần có những quy định cụ thể hơn. Nền kinh tế nước ta, cũng như bất kỳ nền kinh tế nào khác, không thể tăng trưởng mãi theo chiều rộng bằng cách tăng vô hạn độ vốn đầu tư, đất đai, lao động tài nguyên vì các nguồn này đều có giới hạn. Để đạt được tăng trưởng bền vững và phát triển lên các nấc thang cao hơn, nền kinh tế phải vận hành theo những thước đo và chính sách thích hợp để chuyển sang phát triển theo chiều sâu, nâng cao năng suất, hiệu quả, giá trị gia tăng trên mỗi đơn vị tiền vốn, lao động, năng lượng.
Gia tăng xuất khẩu của nước ta trong thời gian qua chủ yếu nhờ vào gia tăng nhu cầu của thị trường thế giới hơn là do yếu tố nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm, dịch vụ của nước ta. Có thể dự báo rất khó tiếp tục duy trì tốc độ tăng xuất khẩu trên 20% trong tương lai nếu không đổi mới cơ cấu xuất khẩu, chuyển sang các sản phẩm có giá trị gia tăng và hàm lượng công nghệ cao hơn.
Một thực trạng khác đã bộc lộ rõ trong 6 tháng đầu năm 2007 là năng lực quản lý, điều hành của bộ máy chưa được kịp thời nâng cao để đáp ứng yêu cầu tăng trưởng và phát triển của đất nước, như “tiêu hóa” được sự gia tăng mạnh mẽ về đầu tư nước ngoài, giải ngân vốn trái phiếu Chính phủ và vốn vay ODA (chưa nói đến yêu cầu nâng cao trình độ đào tạo, khoa học-công nghệ, tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí). Nếu không nhanh chóng nâng cao tính chuyên nghiệp của bộ máy, tầm nhìn và năng lực điều hành, phối hợp của người đứng đầu thì năng lực của bộ máy sẽ hạn chế việc tiêu hóa vốn đầu tư cũng như không tận dụng được cơ hội to lớn này của đất nước.
II.Đầu tư thiếu chiều sâu
Ta sẽ xem xét ở một số ngành cụ thể
ngành cơ khí:
Mỗi năm, chúng ta cần nhập khẩu một lượng máy móc thiết bị phục vụ phát triển kinh tế trị giá khoảng 7-8 tỷ USD. Nếu ngành Cơ khí phát triển, giành thị phần này thì doanh thu rất lớn. Đó là chưa kể sẽ tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. Theo kế hoạch phát triển ngành cơ khí trọng điểm, từ nay đến năm 2010, nước ta phải đáp ứng tối thiểu 45%-50% nhu cầu sản phẩm cơ khí trong nước và xuất khẩu 30% giá trị sản lượng, doanh số đạt bình quân từ 3,5-4 tỷ USD. Mục tiêu của Chương trình cơ khí trọng điểm đến năm 2010 và tầm nhìn tới 2020 là, tập trung vào 8 nhóm chuyên ngành CK lớn như máy động lực, máy kéo và máy nông nghiệp, máy công cụ, thiết bị toàn bộ, cơ khí xây dựng, CK tàu thủy, CK ô tô và cơ khí giao thông vận tải, thiết bị điện…
Một thực tế cho thấy, ngành cơ khí đang phát triển với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, trong đó nhiều doanh nghiệp tư nhân đang nổi lên như là các nhân tố tích cực. Nhiều doanh nghiệp bắt đầu hướng tới đầu tư vốn cho sản xuất và nội địa hóa các các sản phẩm phụ trợ. Ví dụ, Công ty Ô tô Trường Hải cũng đang vươn lên chiếm lĩnh thị trường ô tô tải và có kế hoạch lắp ráp xe du lịch. Chỉ riêng tại khu liên hợp lắp ráp ô tô tại Chu Lai, doanh nghiệp này đang đầu tư 1.800 tỷ đồng. Nhiều doanh nghiệp khác đang quan tâm đến khả năng đầu tư các dự án sản xuất các thiết bị cơ khí tiêu dùng. Tương tự, Tổng Công ty CK GTVT Sài Gòn (Samco), từ năm 2002 chỉ sản xuất xe tải đóng thùng và xe chuyên dùng, đến nay đã là một trong những đơn vị hàng đầu sản xuất xe buýt, xe khách… với tỷ lệ nội địa hóa trên 20%, doanh thu hàng năm đạt gần 100 tỷ đồng.
Tuy nhiên, ngành cơ khí ở nước ta hiện nay chưa được đầu tư đúng mức để hướng đến một sản phẩm mang thương hiệu riêng, chủ yếu là gia công những công đoạn thông thường. Cụ thể, hai lĩnh vực đóng tàu và ô tô tuy đạt mức tăng trưởng cao nhưng chỉ dừng lại ở khâu đóng khung và các phần nội thất đơn giản. Còn các máy móc và những thiết bị phức tạp đều phải nhập ngoại.
Theo ông Nguyễn Văn Thụ - Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp CK Việt Nam (VAMI), sản phẩm CK nước ta hiện nay chủ yếu là hàng gia công, giá trị kinh tế thấp, công nghệ, thiết bị lạc hậu, chưa hình thành một số ngành mũi nhọn đủ sức chế tạo dây chuyền thiết bị đồng bộ. Phần lớn thiết bị, máy móc, nguyên liệu phải nhập khẩu, công nghiệp phụ trợ yếu kém…
Các chuyên gia trong Ngành đã không ngần ngại nhận định, lực lượng nghiên cứu phát triển, từ tư vấn, thiết kế công nghệ và thiết kế chế tạo, đến các chuyên gia đầu ngành với vai trò công trình sư, tổng công trình sư và lực lượng công nhân lành nghề còn thiếu và yếu về năng lực. Chất lượng đào tạo kỹ sư CK chưa đáp ứng yêu cầu thực tế. Bên cạnh đó, nguồn vốn cho đầu tư phát triển thiếu, chưa có chiến lược thị trường, sản phẩm, trình độ quản trị doanh nghiệp thấp. Quản lý thị trường yếu kém để hàng CK chất lượng thấp, giá rẻ tràn vào
thị trường trong nước, gây nên tình trạng cạnh tranh không lành mạnh cho các DN làm sản phẩm CK chính xác. Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, các hàng rào bảo hộ bị bãi bỏ thì ngành CK sẽ gặp nhiều khó khăn.
Tình hình trên không sớm được cải thiện thì trong tương lai Việt Nam vẫn mãi là người thợ làm thuê CK cho các nước đầu tư trực tiếp hoặc chỉ dừng lại ở vai trò là một nước chuyên gia công cơ khí cho thế giới.
Tập trung đầu tư chiều sâu cho thị trường nông - lâm sản
Theo dự báo, xuất khẩu lâm sản, trong đó chủ yếu là đồ gỗ, sẽ có nhiều thuận lợi trong những năm tới, nhất là đối với các thị trường lớn như Mỹ, Liên minh Châu Âu (EU), Nhật Bản.
Đối với ván nhân tạo, từ nay đến năm 2015, chỉ nên đầu tư sản xuất ván dăm và ván sợi (MDF) sử dụng nguyên liệu gỗ rừng trồng, với tổng sản lượng ván nhân tạo dự kiến 800.000 m3 sản phẩm/năm, trong đó 60% là ván dăm.
Các cơ sở chế biến gỗ và lâm sản hiện có (khoảng 1.200 cơ sở)da tập trung đầu tư chiều sâu ở những nơi có điều kiện để sản xuất các đồ mộc cao cấp phục vụ xuất khẩu bằng các nguồn vốn tự có, vốn huy động trong dân, vốn liên doanh... Đối với các cơ sở mới, chỉ nên tập trung đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất ván dăm, ván sợi ép và đồ mộc từ ván gỗ ép.
Để tạo sự phát triển bền vững, nên chú ý việc tạo dựng nguyên liệu cho phát triển công nghiệp chế biến gỗ và lâm sản gắn với thị trường và lợi thế mỗi vùng là vô cùng quan trọng.
Tập đoàn Dệt may tiếp tục đầu tư chiều sâu
Vinatex tiếp tục đầu tư mở rộng cho các dự án chiến lược, chủ yếu tập trung vào đầu tư chiều sâu, nâng cao năng lực sản xuất và giá trị gia tăng của hàng dệt may Việt Nam.
Ông Nguyễn Hữu Bình, Phó Tổng Giám đốc Tập đoàn Dệt May Việt Nam (Vinatex) cho biết, trong năm 2008, Vinatex tiếp tục phát huy lợi thế của Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO): thị trường xuất khẩu mở rộng, môi trường kinh doanh bình đẳng và thuận lợi hơn; phấn đấu thực hiện các chỉ tiêu về doanh thu, giá trị sản xuất công nghiệp và kim ngạch xuất khẩu tăng từ 17% trở lên; tỷ suất lợi nhuận trên vốn đạt 16%.
Vinatex tiếp tục đầu tư mở rộng cho các dự án chiến lược, chủ yếu tập trung vào đầu tư chiều sâu, nâng cao năng lực sản xuất và giá trị gia tăng của hàng dệt may Việt Nam. Trong đó , đặc biệt là dự án đầu tư nhà máy sản xuất xơ PE đầu tiên của Việt Nam, dự kiến tổng mức đầu tư khoảng 3.000 tỷ đồng.
Trong năm 2008, Vinatex sẽ phấn đấu hoàn thành cơ bản việc cổ phần hóa tập đoàn, cũng như xây dựng mô hình tổ chức cho tập đoàn sau khi cổ phần hóa. Vinatex cũng sẽ mở rộng kinh doanh trên 3 lĩnh vực hỗ trợ: kinh doanh tài chính; khu công nghiệp, bất động sản và kinh doanh bán lẻ để có thêm nguồn đầu tư cho những lĩnh vực kinh doanh cốt lõi của ngành dệt may.
Năm 2007, ngành dệt may Việt Nam đạt mức tăng trưởng 34,5% so với năm 2006, kim ngạch xuất khẩu đạt 7,78 tỷ USD, tiếp tục là mặt hàng xuất khẩu lớn nhất Việt Nam cùng với dầu thô. Trong đó Tập đoàn Dệt-May Việt Nam đã có bước chuyển quan trọng, đó là từ tăng về lượng sang tăng về chất (hiệu quả kinh tế).
Tổng doanh thu trong năm đạt 22.348 tỷ đồng, kim ngạch xuất khẩu đạt 1,452 tỷ USD; lợi nhuận đạt 556 tỷ đồng; tỷ suất lợi nhuận trên vốn đạt 15,6%, so với mức trung bình từ 10 – 12% trong nhiều năm trước. Đây là thành quả bước đầu của quá trình chuyển đổi mô hình quản lý doanh nghiệp, từ doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần.
công nghệ thông tin-viễn thông
Nhiều Cty nghiên cứu thị trường và chuyên gia dự báo rằng, mức tăng trưởng của thị trường công nghệ thông tin - viễn thông (CNTT-VT) VN sẽ tiếp tục tăng mạnh trong năm 2005 - năm khép lại kế hoạch 5 năm.Sẽ vượt Trung Quốc về mức tăng trưởngNgày 6.1.2005, họp báo tại TPHCM, Cty IDG VN đã đưa ra dự báo về mức tăng trưởng của thị trường CNTT VN năm 2005: Lần đầu tiên VN sẽ vượt qua Trung Quốc với tỷ lệ tăng trưởng đạt 16%, đứng thứ 5 trên thế giới, trên các nước như Trung Quốc, Anh, Mỹ, Đức, Nhật, Italia, Australia... Theo IDG VN, trong giai đoạn từ 2004-2008, mức gia tăng chi tiêu cho CNTT của VN nằm trong tốp 10 nước tăng trưởng hàng đầu thế giới, xếp vị trí thứ 4 sau Ân Độ, Nga và Argentina, nhưng trên nhiều nước khác trong đó có Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ... Chi tiêu cho viễn thông cho giai đoạn này cũng lọt vào tốp 10 quốc gia về tỷ lệ gia tăng, xếp ở vị trí thứ 6, sau Nga, Ân Độ, Thái Lan nhưng tiếp tục vượt qua Trung Quốc. TS.Lê Trường Tùng - Chủ tịch Hội Tin học TPHCM - lý giải: "Thế giới đang trên đà tăng trưởng vì thế VN tiếp tục tăng trưởng tốt. Năm 2005 lại là năm cuối kế hoạch 5 năm, chi tiêu cho các dự án CNTT sẽ được đẩy mạnh hơn - đặc biệt ở khu vực nhà nước - tạo sức bật mạnh mẽ cho thị trường".
Đầu tư chiều sâu ở lĩnh vực CNTT Cty Intel VN đã có kế hoạch đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong các DN trong năm 2005. Nhận thức của các DN đã thay đổi, vì thế chi tiêu cho CNTT để nâng cao sức cạnh tranh của DN cũng gia tăng. TS Lê Trường Tùng nhận xét: Các DN lớn từ bỏ những giải pháp nhỏ lẻ để đầu tư vào các giải pháp tổng thể ERP để chuẩn bị hòa nhập thế giới khi VN gia nhập WTO. Một hướng đầu tư khác là đào tạo. Theo TS Vũ Thanh Nguyên - GĐ Trung tâm Đào tạo CNTT TPHCM: Các dự án đào tạo sẽ đi vào chất lượng cao, trong đó có các dự án chuyên sâu về thiết kế bo mạch điện tử và tổ chức đào tạo kỹ sư CNTT theo chuẩn nhằm xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản. Các trung tâm đào tạo sẽ chú trọng hơn nữa vào việc xây dựng thương hiệu, chọn chương trình đào tạo có chất lượng. Để vươn tới điều này buộc các trường đại học phải cải tiến chương trình giảng dạy, trong đó có việc thực hiện chương trình hợp tác nhiều hơn để thu hút học viên.
Xuất khẩu theo chiều sâu
Trong bối cảnh đ ất n ư ớc ta hi ện nay, mục tiêu phát triển kinh tế nhanh hơn rõ ràng không khả thi. Do vậy, cách duy nhất trong những năm tới chỉ có thể là đẩy mạnh XK theo chiều sâu.
Nếu nhìn vào bảng xếp hạng 50 nền kinh tế XK hàng hoá nhiều nhất thế giới, chúng ta hoàn toàn có quyền để tự hào rằng, chỉ sau 8 năm thực hiện đường lối đẩy mạnh XK, VN đã có mặt trên "bảng vàng" này, cho dù ở vị trí "đội sổ". Thế nhưng, bên cạnh đó, nếu việc chúng ta cũng có mặt trong bảng xếp hạng 50 nền kinh tế NK hàng hoá nhiều nhất thế giới năm 1999 này (xếp thứ 49) là bình thường, thì việc "nhảy vọt" 5 bậc để xếp thứ 44 năm 2004 (năm 2005 có thể còn cao hơn) lại là điều rất đáng quan tâm.
Do vậy, để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế đề ra, nếu như XK không thể tăng tốc hơn nữa, thì con đường duy nhất chỉ có thể là nâng cao hiệu quả thúc đẩy nền kinh tế phát triển của
Trong 15 năm qua, chúng ta đã nỗ lực vượt bậc trong việc đẩy mạnh XK, nhưng nhìn chung vẫn là phát triển theo chiều rộng, cho nên chẳng những hiệu quả thúc đẩy nền kinh tế phát triển không cao, mà còn kéo theo NK tăng quá mạnh, dẫn tới nhập siêu lớn. So với Trung Quốc, chúng ta thua rất xa ở các chỉ tiêu kinh tế này. Đó là, cho dù đã trở thành cường quốc XNK thứ ba thế giới, nhưng tỷ trọng của XK so với GDP hiện mới là 42,38%, còn của NK chỉ là 36,71% (năm 2005 xuất siêu 102 tỷ USD), còn cặp số liệu tương ứng của nước ta là 61,14% và 69,69%. Những con số này cho thấy một thực tế, cho dù quy mô nền kinh tế nước ta vẫn là hết sức nhỏ nhoi, nhưng phụ thuộc quá nặng nề vào XK và càng phụ thuộc nặng nề hơn vào NK, cho nên việc bị chao đảo mạnh trước những biến động của thị trường thế giới là điều hiển nhiên.
Xem xét từ những vấn đề trên ta thấy nền kinh tế Việt Nam đang có những bước chuyển biến tích cực.Trước kia nền kinh tế của nước ta là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung,nền kinh tế còn kém phát triển,kĩ thuật lạc hậu,sự phát triển chủ yếu là nhờ đầu tư theo chiều rông.Hiện nay gia nhập kinh tế thế giới,học hỏi kinh nghiệm của những nước đi trước nước ta đã có những bước phát triển đặc biêt.Giờ đây nước ta đã tập trung vào đầu tư theo chiều sâu và đã có được nhiều thành công.
III. Quan hệ dầu tư theo chiều rộng và theo chiều sâu
Theo báo cáo của Bộ KH-ĐT, kết thúc 6 tháng đầu năm 2007-nửa năm đầu tiên thực hiện các cam kết với tư cách là thành viên WTO-kinh tế Việt Nam tăng trưởng với tốc độ cao nhất trong 5 năm gần đây, đầu tư phát triển xã hội đạt 38,4% GDP, cam kết đầu tư nước ngoài tăng 55% so với cùng kỳ năm trước, xuất khẩu tăng 19,4%...
Đó là những thành tựu ban đầu rất đáng trân trọng, phản ánh nỗ lực của Chính phủ cùng với toàn dân thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đó cũng phản ánh thời điểm thuận lợi của nền kinh tế: đang được sự chú ý của các nhà đầu tư nước ngoài cả về đầu tư tài chính lẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Chính trong thời điểm “say sưa” với tốc độ và khối lượng này, rất cần sự phân tích nghiêm túc và tỉnh táo, chỉ rõ những tiềm năng và vấn đề hiện nay của nền kinh tế nhằm tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả, tăng trưởng bền vững trong thời gian tới. Trước hết, cần khẳng định nền kinh tế nước ta có tiềm năng để đạt tăng trưởng cao và bền vững, trong khi vừa tiếp tục khai thác các tiềm năng theo chiều rộng (như tăng thêm vốn đầu tư, vật tư, đất đai, lao động), đồng thời cần xây dựng và phát huy các nhân tố phát triển theo chiều sâu là khoa học-công nghệ, quản lý, tiết kiệm, giảm bớt lãng phí, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực...
Nền kinh tế nước ta, cũng như bất kỳ nền kinh tế nào khác, không thể tăng trưởng mãi theo chiều rộng bằng cách tăng vô hạn độ vốn đầu tư, đất đai, lao động tài nguyên vì các nguồn này đều có giới hạn. Để đạt được tăng trưởng bền vững và phát triển lên các nấc thang cao hơn, nền kinh tế phải vận hành theo những thước đo và chính sách thích hợp để chuyển sang phát triển theo chiều sâu, nâng cao năng suất, hiệu quả, giá trị gia tăng trên mỗi đơn vị tiền vốn, lao động, năng lượng.
Muốn vậy, phải coi trọng các thước đo về tỷ lệ đổi mới công nghệ, đổi mới sản phẩm, đa dạng hóa thị trường, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí về thời gian và tiền bạc, giảm ô nhiễm môi trường, tỷ lệ tiết kiệm năng lượng, giảm bớt thời gian lãng phí của xã hội như bị kẹt xe, chờ đợi thủ tục... Những thước đo như vậy chưa thấy được đưa vào các chỉ tiêu bắt buộc thực hiện, công bố, phân tích và chưa được coi trọng để khuyến khích doanh nghiệp thực hiện.
Như vậy có thể thấy rằng nước ta không thể tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu dầu thô, than đá, cà phê nhân, gạo (với chất lượng thấp và giá trị gia tăng rất hạn chế) mà phải chuyển sang xuất khẩu các sản phẩm, dịch vụ được chế tác sâu hơn, có chất lượng sản phẩm và giá trị gia tăng cao hơn.
Khu vực DN vừa và nhỏ chiếm khối lượng lớn và có nhu cầu về đổi mới nhưng lại bị hạn chế về quy mô, năng lực công nghệ và tài chính... Cũng theo kết quả khảo sát vào năm 2007 của Tổ chức Swiss Contact (Thụy Sỹ) và GTZ (Đức) đối với 1.200 DN tại Việt Nam thì chỉ có khoảng 0,1% doanh thu hàng năm của DN được dành cho đổi mới công nghệ, thiết bị. Trong khi đó, DN ở các nước như Ấn Độ có mức đầu tư cho đổi mới công nghệ, thiết bị là 5% và Hàn Quốc là 10% doanh thu hàng năm.
Bên cạnh đó, việc đổi mới công nghệ, thiết bị ở các DN trong nước mới chỉ dừng lại ở việc đi mua máy móc, thiết bị mới và nắm các thao tác cần thiết để vận hành chúng. Phần lớn các DN đều không có những nghiên cứu chuyên sâu để làm chủ, cải tiến và phát triển công nghệ… Việc đổi mới công nghệ, thiết bị trong các DN được tiến hành khá bị động, theo sức ép của thị trường, như khi khách hàng đến đặt hàng, đòi hỏi phải áp dụng công nghệ mới thì cơ sở sản xuất mới đi tìm. Việc đổi mới công nghệ, thiết bị trong các DN nước ta phần lớn chưa mang tính tích cực, chưa mang tầm chiến lược phát triển lâu dài của DN. Điều này có thể thấy rõ qua tỷ lệ nhập khẩu công nghệ, thiết bị của
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đầu tư theo chiều sâu, đầu tư theo chiều rộng Mối quan hệ giữa đầu tư theo chiều rộng, đầu tư theo chiều sâu.doc