Sản phẩm thép trên thị trường Việt Nam được phân phối thông qua 3 hệ thống phân phối chủ yếu gồm : (1)Hệ thống phân phối thép được nhập khẩu & phân phối bởi các công ty thương mại nước ngoài có trụ sở tại Việt Nam.Hệ thống này chủ yếu thực hiện chức năng nhập khẩu và bán sản phẩm thép cho các khách hàng cuối cùng thông qua các công ty bán buôn của Việt Nam,hoặc có thể bán hàng trực tiếp cho các khách hàng cuối có khối lượng mua lớn; (2) Hệ thống phân phối được thực hiện bởi các công ty thuộc VSC.Hệ thống này chủ yếu thực hiện chức năng phân phối các sản phẩm thép nhập khẩu để bán lại cho các nhà phân phối tư nhân hoặc nhập khẩu phôI thép để bán cho các nhà sản xuất thép hoặc thực hiện việc bán lẻ các sản phẩm đến những khách hàng cuối cùng thông qua các cửa hàng bán lẻ trực thuộc;(3) Hệ thống phân phối thép tư nhân và các doanh nghiệp khác không trực thuộc tổng công ty thép Việt Nam
35 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4507 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và một số giải pháp phát triển ngành công nghiệp thép Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động môI trường.Nhưng ở 2 lĩnh vực này nếu Việt Nam không trực tiếp tham gia dự án thì những thông tin nêu trong dự án hoàn toàn không có đủ cơ sở để giám sát;Số lượng dự án đầu tư là quá nhiều,có một số dự án được chấp nhận dễ dãI, đối tác không lựa chọn. Đó là những đối tác chẳng có kinh nghiệm hoặc thứ bậc gì về thép,nhiều dự án được ký nhưng không triển khai vì thiếu vốn.Những thu hút đầu tư của Việt Nam thì biến thành lời nhuận của những anh cơ hội.Còn hậu quả thì ta gánh chịu ,họ dữ đát đai lâu trong khi hàng ngàn hộ lao động nông nghiệp mất đất,dự án khác muốn vào không được.Ngoài ra còn có việc bán dự án cho đối tác khác để ăn chênh lệch.
Nếu thiếu quy hoạch và kiểm soát đầu tư thì nhiều dự án luyện thép có quy mô vừa và nhỏ sử dụng công nghệ hao tốn nguyên liệu sẽ ra đời ồ ạt.Điều này gây ra ván đề về môI trường và thiếu hụt năng lượng, thiếu hụt về nguồn phế liệu và các công ty phảI cạnh tranh gay gắt mua nguồn nguyên liệu.Chính phủ phân cấp đầu tư cho các địa phương được quyết định với các dự án đầu tư nước ngoài,trong khi địa phương chưa có đủ năng lực thẩm định dự án,công nghệ, thiết bị của nhà máy như thế nào.
1.3. Thực trạng về sản luợng sản xuất thép ở Việt Nam
Sự quan tâm ngày càng lớn của các nhà đầu tư vào phát triển ngành thép đã làm cho sản lượng thép sản xuất tăng lên một cách nhanh chóng từ năm 1991 đến nay.Năm 2006,sản xuất phôI thép trong nước chỉ đạt trên dưới 1 triệu tấn,tương đương khoảng 1/4 nhu cầu nguồn phôi.Nhà máy thép TháI Nguyên được xem là “ đại gia” trong lĩnh vực sản xuất phôI thép của Việt Nam nhưng cũng chỉ sản xuất được khoảng 300 ngàn tấn phôI từ nguyên liệu quặng sắt, còn đa số các doanh nghiệp đều sản xuất phôI từ thép phế liệu.ngành thép vẫn còn phụ thuộc trên 50% nguồn phôI thép từ nước ngoài.
Bảng 2: Theo USGS thì sản lượng do những cơ sở sản xuất ngành thép của nước ta là:
(Tấn)
2002
2006
Gang
146.000
300.000
Thép thỏi
409.000
1.000.000
Thép cán
2.503.000
4.000.000
Theo những số liệu đó thì sản lượng gang thép nội địa chưa thỏa mãn được nhu cầu của thị trường.Nếu kết cấu kinh tế tương lai sẽ tạo ra nhu cầu dự báo và nếu nhất thiết phảI sử dụng thép sản xuất ở Việt Nam thì ta cần phảI tăng cường mạnh khả năng sản xuất.
1.4.Nguồn hàng nhập khẩu chiếm ưu thế trên thị trường nguyên liêu thép
PhôI thép là bộ phận chủ yếu trên thị trường nguyên liệu thép Việt Nam,các sản phẩm của các công đoạn trước như gang và quặng thiêu kết chỉ chiếm tỷ trọng không đáng kể do ngành sản xuất thép Việt Nam chủ yếu tập trung ở công đoạn cán thép.Trong khi đó do nhu cầu sử dụng thép ở Việt Nam trong những năm qua chỉ ở mức độ thấp,nên khối lượng thép phế thảI có thể thu mua trong nước cũng tương đối khan hiếm.Trong giai đoạn 1998-2002 nhu cầu phôI thép tăng trưởng khá nhanh đạt mức bình quân hàng năm khoảng 19% và từ năm 2002 đang có xu hướng tăng ngày càng nhanh.
Bảng 3:Thị trường phôI thép
Đơn vị: 1000 tấn
1998
1999
2000
2001
2002
B/quân g/doạn 98-02
Nhu cầu phôI thép
1352
1546
1690
2125
2707
Khối lượng sản xuất trong nước
526
548
590
425
501
Tỷ lệ sản xuất trong nước
38.93%
35.47%
34.91%
19.98%
18.51%
29.56%
Khối lượng nhập khẩu
826
997
1100
1700
2206
Tỷ lệ nhập khẩu
61.07%
64.53%
65.09%
80.02%
81.49%
70.44%
Nguồn: cơ sở số liệu được cung cấp bởi VSC, VSA, NEU-JICA
Tuy nhiên sản lượng phôI thép sản xuất trong nước chỉ đạt ở mức rất thấp và không có xu hướng gia tăng rõ rệt.Vì vậy nhu cầu phôI thép chủ yếu được đáp ứng bằng nguồn nhập khẩu và có xu hướng ngày càng phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu.
Bảng 4: Tỷ trọng phôI nhập khẩu so với nhu cầu phôI thép của toàn bộ ngành thép:
Năm
1998
2002
2007
Triệu tấn phôI nhập khẩu/tổng khối lượng nhập khẩu
61%
81%
70%
Các sản phẩm dài sản xuất trong nước cũng phần lớn được cán từ phôI thép nhập khẩu,khả năng tự sản xuất phôI thép trong nước còn nhỏ bé ,chỉ đáp ứng được khoảng 28% còn lại 72% nhu cầu phôI thép cần phảI nhập khẩu từ bên ngoài.
Phần còn lại của nhu cầu được đáp ứng bằng nguồn phôI sản xuất trong nước.PhôI thép trong nước được sản xuất trên cơ sở nguồn sắt thép phế liêdụ nhập khẩu và phế liệu thu mua trong nước.Trong đó thép phế liệu thu mua trong nước chiếm tỷ trọng khá lớn.Một phần nhỏ phôI được sản xuất từ quặng ở nhf máy gang thép TháI Nguyên.Tuy nhiên,giá thành phôI thép sản xuất trong nước thường cao hơn giá thép nhập khẩu(trừ thời điểm đầu năm 2003).Theo tính toán của một số chuyên gia ngành thép thì chi phí sản xuất phôI thép của Công ty gang thép TháI Nguyyên và Công ty thép Miền Nam (2 nguuồn cung cấp thép nội địa chính của ViệtNam ) đều cao hơn giá phôI thép nhập khẩu ít nhất từ 3-4 USD.
Giá thành phôI thép sản xuất trong nước cao và ưu thế vượt trội về mặt tỷ trọng của nguồn phôI nhập khẩu trong việc đáp ứng nhu cầu sản xuất thép đã làm cho giá phôI thép ở thị trường trong nước phụ thuộc rất lớn vào sự biến động giá phôI thép trên thị trường thế giới.Điển hình 6 tháng cuối năm 2007,giá thép trong nước tăng với tốc độ chóng mặt từ trên 8 triệu đồng/tấn thép cuộn hồi tháng 6 đến đạt ngưỡng 10 tr đồng/tấn vào đầu tháng 8.Đây là mức giá cao từ trước tới nay.Nguyên nhân chính theo hiệp hội thép đánh giá là giá nguyên liệu nhập khẩu tăng.Phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu,phụ thuộc vào chính sách thuế nhập khẩu của các nước, phụ thuộc vào chính sách thuế trong nước…đẫ khiến các nhà sản xuất thép trong nước luôn luôn trong tình trạng “ vừa sản xuất vừa trong chừng”.Cụ thể sau khi Trung Quốc có những thay đổi trong chính sách thuế như thoáI thu thuế VAT,giảm thuế xuất khẩu… dẫn đến giá thép nhập khẩu vào Việt Nam rẻ một cách “bất ngờ”.Đứng bên cạnh một nước có tiềm lớn về sản xuất thép ( trên 300 tr tấn/năm) và cũng là thị trường chính cung cấp phôI thép cho Việt Nam nên nguồn thép Việt Nam ( có nguồn lực sản xuất trên 3 tr tấn/năm) hoàn toàn bị động.
Điển hình năm 2007,6 tháng cuối năm giá thép trong nước tăng với tốc độ chóng mặt từ lớn hơn 8 triệu đồng/tấn thép cuộn hồi tháng 6 đạt năng 10 triệu đồng/tấn vào đầu tháng 8.Đây là mức giá cao từ trước tới nay và tăng khoảng gần 2 triệu đồng /tấn so với cùng kỳ năm 2006.Nguyên nhân chính theo hiệp hội thép là giá nguyên liệu nhập khẩu tăng, phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu,phụ thuộc vào chính sách thuế nhập khẩu của các nước, phụ thuộc vào chính sách thuế trong nước đã khiến các nhà sản xuất thép trong nước luôn trong tình trạng “ vừa sản xuất_vừa trong chừng”.Cụ thể sau khi Trung Quốc có những thay đổi về chính sách thuế như thoáI thu VAT,giảm thuế xuất khẩu…dẫn đến giá thép nhập vào Việt Nam rẻ một cách “ bất ngờ”.Đứng bên cạnh một nước có tiềm lực lớn về sản xuất thép vốn lớn hơn 300 triệu tấn /năm và cũng là thị trường chính cung cấp phôI thép cho Việt Nam nên nguồn thép Việt Nam ( có năng lực sản xuất khoảng hơn 3 triệu tấn/năm) hoàn toàn bị động
II.tình hình sản xuất thép ở Việt Nam
2.1 Quy mô sản xuất thép
Thép được coi là ngành sản xuất nguyên liệu chủ yếu cho nhiều ngành công nghiệp khác ở Việt Nam. Truớc năm 1990, nhà nứơc độc quyền sản xuất và buôn bán thép, trong bối cảnh đó ngành thép phát triển rất chậm. Sau năm 1990, với chính sách đổi mới ở Việt Nam ngành thép đã có nhiều điều kiện thuận lợi hơn để phát triển. Đặc biệt từ sau 1995 ngành thép với nòng cốt là Tổng Công Ty Thép Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ cả về quy mô, thành phần và chất lượng. Nhiều cơ sở sản xuất thép đã đựoc cảI tạo hoặc xây dựng mới duới những hình thức sở hữu khác nhau. Đến nay, cả nước có … công ty, nhà máy và các cơ sở sản xuất thủ công tham gia sản xuất thép ( chủ yếu là cán thép). Tổng công suất thiết kế của tất cả các cơ sở này ở khoảng 4trỉệu tấn thép cán/ năm. Bình quân công suất thiết kế của một cơ sỏ sản xuất thép chỉ khoảng 15 ngàn tấn/ năm. Nếu tính riêng cho 43 cơ sở sản xuất lớn nhất hiện nay với tổng công suất 3666 ngàn tấn/ năm thì bình quân công suất của một cơ sỏ sản xuất là 85 ngàn tấn/ năm.
Toàn bộ các công ty, nhà máy và cơ sở sản xuất thép ở Việt Nam có thể chia thành 5 hệ thống nhỏ bao gồm: (1) Hệ thống sản xuất của VSC, (2) Hệ thống sản xuất của các cơ sở liên doanh giữa VS C với nước ngoài, (3) Hử thống các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty tư nhân, công ty 100% vốn nước ngoài, (4) Hệ thống các cơ sở sản xuất( CSSX) quốc doanh khác và quốc phòng, (5) hệ thống các CSSX thủ công gia đình.Hệ thống sản xuất của VSC bao gồm những năng lực sản xuất cụ thể : 3 lò cao nhỏ 100m3/lò.Có 12 lò hồ quang AC cỡ nhỏ từ 1,5 tấn/mẻ_ 30 tấn/mẻ do Việt Nam tự chế tạo và nhập khẩu của Trung Quốc.Tổng công suất sản xuất khoảng 470000- 500000 tấn/ năm.4 máy đúc điện liên tục phôI vuông tổng cộng 10 đường đúc ,công suất 330000 tấn/năm.5 máy cán bán liên tục sản xuất thép tròn và hình nhỏ với thiết bị của Đài Loan, Trung Quốc, ấn Độ,Italia, tổng công suất khoảng 260000 tấn/năm.Ngoài ra có năm máy cán mi ni tự trang bị,tổng cộng công suất 250000 tấn/năm.VSC hiện đang có 5 liên doanh cán thép xây dựng trong đó có 2 máy cán liên tục và 3 máy cán bán liên tục,tổng công suất cán thép 5 liên doanh là 901oo tấn/năm.Ngoài ra VSC còn có 7 liên doanh sản xuất thép ống, tôn mạ kẽm, tôn mạ màu và gia công cắt thép.
Hầu hết các cơ sở cán thép trong hệ thống các công ty TNHH, công ty cổ phần và công ty 100% vốn nước ngoài được đầu tư xây dựng sau năm 2000. Hiện tại hệ thống này có 7 CSSX cán thép,tổng công suất ước khoảng 1680 ngàn tấn/năm.Do mới được xây dựng nên công nghệ cán thép của các nhà máy này tương đối hiện đại.
Trừ nhà máy cán thép Sông Đà có công suất 250000 tấn/năm. Các CSSX thép còn lại của hệ thống CSSX thép quốc doanh khác và quốc phòng đều có quy mô nhỏ.Công suất của các CSSX trong hệ thống này biến động trong khoảng 10 ngàn- 30 ngàn tấn/năm.Tổng công suất của hệ thống này ước tính khoảng 350 ngàn tấn thép cán/năm, song sản lượng sản xuất không ổn định phụ thuộc vào biến động của thị trường.Có khoảng 250 CSSX nhỏ tư nhân đang sử dụng các lò luyện thép và cán thép rất nhỏ, kiểu mini, thủ công,các cơ sở bình quân trên dưới 1 ngàn tấn/năm/1 cơ sở.Các cơ sở này nằm rảI rác ở nhiều tỉnh và thành phố từ Bắc đến Nam.Tổng năng lực sản xuất của khu vực này ước tính khoảng 250- 300 ngàn tấn/năm.
Cơ cấu năng lực sản xuất
Nếu xét theo quan hệ năng lực sản xuất trong nước và nhu cầu sử dụng thép toàn bộ các sản phẩm thép được lưu thông trên thị trường Việt Nam được chia thành 3 nhóm chính như sau:
Nhóm 1: Các chủng loại sản phẩm đã sản xuất ổn định: Thép xây dựng ,thép ống hàn, thép cho ngành cơ khí chế tạo, thép đúc hợp kim và hợp kim ferô.
Nhóm 2: Các chủng loại sản phẩm thép đã sản xuấ được trong nước nhưng chưa ổn định : Thép chế tạo ,thép hợp kim
Nhóm 3: Các chủng loại sản phẩm thép trong nước chưa sản xuất được: Thép hình chữ U,V,I có kích thước lớn hơn các kích thước của các loại nhóm trên và các chủng loại thép hình phức tạp.Thép tấm ,thép lá các loại ( cho tất cả các mác thép).Thép cán, phôI rèn từ các mác thép đặc biệt khác ngoài thép các bon, thép hợp kim thông thường.Thép ống tròn,ống hình có đường kính lớn hơn 125mm. Thép calíp dạng thanh ,cuộn các loại dùng trong chế tạo máy từ các loại mác thép hợp kim.Thép daay cán nóng từ các mác thép cácbon chất lượng, thép hợp kim, thép khong gỉ.Thép ống không hàn các loại.
Trong những năm qua ,thép sản xuất trong nước đáp ứng trong nước được khoảng từ 50-60% nhu cầu thép của cả nước.Tuy nhiên tỷ lệ đáp ứng nhu cầu về mặt số lượng của thép sản xuát sản xuất trong nước theo từng loại sản phẩm lại có sự biến động rất lớn.Thép xây dựng và sản phẩm sau cán đáp ứng được 100% nhu cầu tiêu dùng nội địa.Tôn mạ kẽm và thép ống đáp ứng được khoảng 50% nhu cầu.Các loại thép khác nhu cầu trong nước hoàn toàn đựoc đáp ứng bằng nguồn nhập khẩu.Trong khi đó hệ số sử dụng công suất thép ở Việt Nam chỉ đạt mức 60%.Tỷ lệ huy đôngj công suất ở công đoạn sản xuất phôI thép đạt ở mức cao( 97%).Trong khi đó tỷ lệ huy động công suất của công đoạn thép lại đạt mức 60%.Tỷ lệ huy động công suất của năng lực sản xuất thép ống và thép lá mạ kẽm lại đạt ở mức rất thấp 40%.
cơ cấu sản xuất thép giữa 2 công đoạn thượng nguồn và hạ nguồn
Quá trình sản xuất thép diễn ra 6 công đôặnc bản từ thượng nguồn đến hạ nguồn. Nếu xét cơ cấu năng lực sản xuất thép theo các công đoạn thì hoạt động sản xuất thép ở Việt Nam có thiên hướng ập trung nhiều hơn các công đoạn hạ nguồn.Hiện nay,năng lực cán thép đạt mức 2,6 triệu tấn/năm.Năng lực luyện thép. Năng lực luyện cán lò điện 500000 tấn/năm.Gia công sau cán trên 500000 tấn/năm.PhôI thép được sản xuất chủ yếu bằng nguồn sắt thép phế liệu được sử dụng. Một phần nhỏ phôI được công luyện từ công đoạn luyện gang ở nhà máy gang thép TháI Nguyên.Tổng năng lực luyện gang và thiêu kết ở Việt Nam hiện nay chỉ đạt mức khoảng………..tấn/năm.Một con số nhỏ so với nhu cầu gang cần thiết để luyện thép.
Do năng lực sản xuất mất cân đối giữa các công đoạn sản xuất nên khả năng đáp ứng nhu cầu đầu vào của các công đoạn thượng nguồn và hạ nguồn trực tiếp là rất thấp.Công đoạn luyện thép chỉ đáp ứng được khoảng 25% nhu cầu phôI vuông cỡ nhỏ cho công đoạn cán thép.Trong khi đó nhu cầu phôI thép của các cơ sở cán thép ở tất cả các khu vực đều tăng trong những năm gần đây đã dẫn tới sự mất cân đối ngiêm trọng giữa các công đoạn của quá trình sản xuất thép.
Trình độ công nghệ, trang thiết bị
Ngành thép Việt Nam hiện nay có năng lực sản xuất thực tế khoảng 2,6 triệu tấn thép cán /năm (thép xây dựng ); 0,5-0,6 triệu tấn phôI thép bằng lò điện.( phôI thép vuông và cả lò đúc cỡ nhỏ). Về trình độ có thể chia ra 4 mức:
Loại tương đối hiện đại: Gồm các dây chuyền cán liên tục của 2 công ty liên doanh VINAKYOEI,VPS và 1 số dây chuyền được xây dựng sau năm 2000.
Loại trung bình bao gồm các dây chuyền cán liên tục như Vinasteel, Natsteelvina, Tây đô, Nhà Bè, Biên Hoà, Thủ Đức (SSC), Gia Sàng, Lưu Xá (TISCO) và các công ty cổ phần, công ty tư nhân.
Loại lạc hậu: bao gồm các dây chuyền cán thủ công mi ni của các nhà máy Nhà Bè, Thủ Đức, Tân Thuận, Thép Đà Nẵng, Thép Miền Trung và các cơ sở khác ngoài TCT Thép Việt Nam.
Loại rất lạc hậu bao gồm các dây chuyền cán mi ni có công suất nhỏ(dưới 20000 tấn/năm) và các máy cán của hộ gia đình, làng nghề.
Kết quả điều tra của NEU-JICA cho thấy:Công nghiệp lạc hậu chiếm 75% số trang thíêt bị của ngành, công nghiệp tiên tiến chỉ chiếm 15% và công nghiệp trung bình chiếm khoảng 10% năng lực cán thép.
Về nguồn gốc công nghệ, có hơn 33% các CSSX hiện tại sử dụng công nghệ từ Trung Quốc và 20% có nguồn gốc từ Nga và các nước SNG có mức độ lạc hậu đạt khoảng 3-4 thế hệ.Một số công nghệ trang thiết bị tiên tiến và trung bình được đưa vào thông qua con đường liên doanh,chủ yếu tập trung ở khâu hạ nguồn ngành thép.
Sự lạc hậu về mặt công nghệ sản xuất cần được thể hiện ở các chỉ tiêu kinh tế –kỹ thuật ngành luyện cán thép Việt Nam.
Bảng 5:Các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật cơ bản của ngành luyện – cán thép Việt Nam
Chỉ tiêu
Đơn vị
N/M nội địa
Liên doanh
Thế giới
So sánh(%)
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)=(3)/(5)
(7)=(4)/(5)
Công đoạn luyện thép
Công suất lò nung phôi
T/h
Quá nhỏ max 35t/h
Trung bình 30 – 60 t/h
Lớn 80- 1000 t/h
Thời gian nấu
Phút
180
50
360.00%
Tiêu dùng thép phế
Kg/tấn
1250
1100
113.64%
Tiêu dùng điện
Kwh/tấn
900
350
257.14%
Tiêu hao điện cực
Kg/tấn
8
2
400.00%
Công đoạn cán thép
Công suất máy
1000 T
30-150
120-300
500-1000
Tốc độ cán
m/s
14
38
110
12.73%
34.55%
Tiêu hao phôi
Tấn/tấn
1.11
1.05
1.03
107.77%
101.94%
Tiêu hao đầu
Kg/tấn
65
48
25
260.00%
192.00%
Tiêu hao điện
Kwh/tấn
143
142
80
178.75%
177.50%
Tiêu hao vật chất quy ra tiền (không kể chi phí phôI thép
VNĐ/tấn cán
400.000
270.000
215.000
186.05%
125.58%
Nguồn: Quy hoạch phát triển ngành thép đến năm 2010.Kết quả điều tra về ngành thép Việt Nam của NEU-JICA
Vấn đề năng suất lao động trong quá trình sản xuất thép
Năng suất lao động của các công ty thép Việt Nam cũng khá thấp so với mức trung bình của thế giới.Sự yếu kém về công nghệ đã mang lai sức cạnh tranh thấp kém của sản phẩm thép Việt Nam trên thị trường nội địa.Hiện tại với những công nghệ khác thì các nhà máy thép ở Việt Nam cũng có sự chênh lệch đáng kể về năng suất lao động.Vì vậy vấn đề nâng cấp trình độ công nghệ cho ngành thép cần được coi trọng trong thời gian tới những dự án phát triển năng lực sản xuất mới.
Các công ty liên doanh, các công ty 100% vốn nước ngoài và các công ty tư nhân hiện nay chỉ làm khâu cán thép và nhập các thiết bị công nghệ tiên tiến nên nên số lượng cán bộ kỹ thuật và công nghệ ở mỗi nhà maý từ 200- 300 người và năng suất lao động của các công ty này cao hơn gấp hàng chục lần so với các nhf máy thuộc VSC.
Vấn đề nguồn nhân lực trong ngành công nghiệp thép
Năng suất lao động thấp một mặt phản ánh công nghệ lạc hậu, mặt khác thể hiện trình độ lao động của ngành thép còn hạn chế.Đặc biệt là đội ngũ lao động có khả năng làm chủ công nghệ.
Xết về mức độ lành nghề ,lực lượng thợ lành nghề ở Việt Nam không lớn,hơn nữa thợ lành nghề kó thực sự lành nghề với những công nghệ lạc hậu.Rất ít người trong số họ tiếp xúc với những công nghệ sản xuất thép tiên tiến.theo đánh giá của các nhà quản lý thì nhân lực là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh.Yêu cầu về lao động của ngành thép hiện nay không chỉ đòi hỏi kinh nghiệm mà cần phảI có kiến thức.Xét về mặt kiến thức chuyên môn của lực lượng lao động trong nghành thép còn khá thấp.Đây là một cản trở không nhỏ trong quá trình đổi mới công nghệ và nâng cao khả năng cạnh tranh.Tỷ trọng cán bộ chuyên môn có trình độ cao còn khá khiêm tốn, ít có được những sáng kiến mang tính chất nhảy vọt mà chủ yếu mang tính tác nghiệp.Lực lượng cán bộ nghiên cứu trong lĩnh vực thép tại Việt Nam còn mỏng.Và tư tưởng sản xuất nhỏ vẫn phổ biến ttrong cách thức quản lý và tổ chức hoạt động kinh doanh ở một số công ty.
2.7.Cơ hội phát triển sản xuất thép không thuận lợi
Ngành thép là một trong những ngành đòi hỏi vốn đàu tư lớn trong khi ở Việt Nam huy động vốn không phảI là dễ dàng. Hơn nữa trong ngành thép phảI hiệu quả đầu tư thường tỷ lệ thuận với quy mô của các nhà máy. Sự hạn chế về nguồn vốn đầu tư là một trong những khó khăn phảI tính đến ttrong việc xây dựng chính sách phát triển ngành thép.
Các cơ quan nghiên cứu về ngành thép của Việt Nam chủ yếu được thực hiện ở Viện Luyện Kim, Đại Học Bách Khoa Hà Nội, ĐH Kỹ Thuật Thành Phố Hồ Chí Minh và ĐH Kỹ Thuật Đà Nẵng.Do thiếu cơ sở vật chất kỹ thuật, quấ trình nghiên cứu ít gắn liền với thực tế nghành công nghiệp nên hoạt động của các cơ sở này chưa phục vụ hiệu quả cho việc nâng cao năng lực sản xuất thép tại Việt Nam.Việt Nam chưa có trung tâm nghiên cứu sản xuất thép và công nghệ thép để hỗ trợ nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành sản xuất thép nội địa.
Hệ thống giao thông vận tảI chưa phát,đặc biệt là hệ thống giao thông đến các khu mỏ chưqa thuận lợi, hệ thống cảng biển nước sâu còn thiếu làm tăng chi phí vận chuyển và giảm sứcc cạnh tranh của ngành thép Việt Nam.Vì vậy, chi phí đầu tư cho hệ thống hạ tầng vẫn tảI cũng sẽ trở thành một gánh nặng đối với quá trình mở rộng hoạt động sản xuất thép ở các công đoạn thượng nguồn.
Chi phí về năng lượng(điện) là một bộ phận trong giá thành sản xuất,nhưng ở Việt Nam giá điện cao so với các nước trong khu vực (gấp đôi so với In-đô-nê-xi-a và 1.5 lần so với Thái Lan). Tiềm năng về dầu và khí thiên nhiên của Việt Nam cũng có triển vọng, tuy nhiên sản lưọng khai thác hàng năm hiện vẫn còn khiêm tốn, đặc biệt là khí thiên nhiên. Giá khí ít có khả năng xuống thấp khoảng dưới 2USD/tr.BTU, do các mỏ dầu và các mỏ khí nằm quá xa đất liền.
Các ngành sử dụng thép làm nguyên liệu đầu vào như công nghiệp ô tô, xe máy, chế tạo công cụ, chế tạo máy, đóng tàu chưa phát triển và tương lai phát triển cũng không thật sự rõ ràng nên thị trường chưa hấp dẫn các nhà sản xuất thép cao cấp.
Theo các tài liệu đánh giá về tiềm năng khoáng sản Việt Nam, Việt Nam có tiềm năng đáng kể về quặng sắt với tổng trữ lượng được đánh giá đến 1200 triệu tấn .Quặng sắt Việt Nam phân bố tập trung ở các mỏ quặng phía Bắc ,phần lớn các mỏ có quy mô nhỏ và vừa, chất lượng quặng không cao.M ặc dù nguồn quặng sắt của Việt Nam được đánh giá là đáng kể nhưng khả năng khai thác, chế biến nguồn tài nguyên này phục vụ cho ngành thép không mấy thuận lợi. Nguyên nhân chủ yếu là do nguồn quặng nầy có chất lượng không cao, hầu hết nằm trong khu vực có cơ sở hạ tầng kém phát triển,xa khu công nghiệp chế biến hoặc trữ lượng nhỏ…Với nguồn quặng hiện nay,Việt Nam không thể tự đáp ứng nhu cầu quặng sắt chất lượng cao cho các nhà máy luyện kim quy mô lớn.Vì vậy, nếu Việt Nam xây dựng nhà máy luyện thép quy mô lớn, cần phảI tính đến khả năng nhập khẩu quặng ssắt chất lượng cao từ nước ngoài .
Tiềm năng về than đá của Việt Nam khá dồi dào,có thể đáp ứng được một số công nghệ luyện kim phi cốc.Tuy nhiên khả năng cung cấp của TCT Than Việt Nam có thể không đáp ứng được nhu cầu than đá trong nước.
2.8.Một số đánh giá về tình hình phân phối thép
Những năm qua ngành thép đã đã được đầu tư đáng kể và có bước phát triển phát triển tương đối mạnh ( cả quốc doanh và tư nhân),đạt tốc độ tăng trưởng khá cao,có tiềm lực tăng gấp hàng chục lần so với năm 1990 và đạt sản lượng trên 1 triệu tấn/năm, song vẫn còn trong tình trạng kém phát triển so vơpí các nước trong khu vực và trên thế giới, thể hiện ở các mặt:
Trang thiết bị có quy mô nhỏ, phổ biến thuộc thế hệ cũ,lạc hậu,trình độ công nghệ và mức độ tự động hoá thấp.Chất lượng sản phẩm còn hạn chế (nhất là khu vực tư nhân), chỉ có 2 dây chuyền cán liên tục tương đối hiện đại thuộc khối liên doanh.
Cơ cấu mặt hàng sản xuất hẹp, đơn điệu( mới cán được các sản phẩm cán dài, cỡ nhỏ và vừavới mác thép phổ biến nhất là cácbon thấp).
Năng lực sản xuất phôI thép quá nhỏ bé, các nhà máy và cơ sở cán thép còn phụ thuộc nhiều vào phôI thép nhập khẩu.Toàn bộ sản phẩm cán dẹt trong nước chưa sản xuất được phảI nhập khẩu.
Chi phí sản xuất còn cao, năg suất lao động thấp,số lượng lao động quá đông,giá thành không ổn định( do lệ thuộc phôI thép nhập khẩu) nên tính cạnh tranh chưa cao.Khả năng xuất khẩu sản phẩm thép còn rất hạn chế
Nhìn một cách tổng quát, ngành thép Việt Nam vẫn còn ở trong tình trạng sản xuất nhỏ phân tán,nặng về gia công chế biến và bán thành phẩm nhập khẩu.Trình độ công nghệ thấp, chưa có nhiều thiết bị hiện đại tự đọng hoá cao,cần phảI đầu tư cảI tạo phá triển,thay thế dần các thiết bị cũ lạc hậu, mới có thể đảm bảo tính cạnh tranh trong thời gian tới.
III.PHÂN PhốI THéP ở VIệT NAM
3.1.Ưu thế vượt trội của thành phần tư nhân trong hoạt động phân phối thép
Sản phẩm thép trên thị trường Việt Nam được phân phối thông qua 3 hệ thống phân phối chủ yếu gồm : (1)Hệ thống phân phối thép được nhập khẩu & phân phối bởi các công ty thương mại nước ngoài có trụ sở tại Việt Nam.Hệ thống này chủ yếu thực hiện chức năng nhập khẩu và bán sản phẩm thép cho các khách hàng cuối cùng thông qua các công ty bán buôn của Việt Nam,hoặc có thể bán hàng trực tiếp cho các khách hàng cuối có khối lượng mua lớn; (2) Hệ thống phân phối được thực hiện bởi các công ty thuộc VSC.Hệ thống này chủ yếu thực hiện chức năng phân phối các sản phẩm thép nhập khẩu để bán lại cho các nhà phân phối tư nhân hoặc nhập khẩu phôI thép để bán cho các nhà sản xuất thép hoặc thực hiện việc bán lẻ các sản phẩm đến những khách hàng cuối cùng thông qua các cửa hàng bán lẻ trực thuộc;(3) Hệ thống phân phối thép tư nhân và các doanh nghiệp khác không trực thuộc tổng công ty thép Việt Nam.Hệ thống này hoạt động với tư cách là những trung gian giữa các nhà sản xuất trong nước hoặc các nhà cung cấp nước ngoài và các nhà bán lẻ hoặc khách hàng cuối cùng trên thị trường.Các hệ thống này có những ưu nhược điểm khác nhau xuất phát từ những thực lực và những điều kiện gắn liền với hoạt động kinh doanh của họ.Tóm tắt những ưu nhược điểm cơ bản của 3 hệ thống phân phối thép ở Việt Nam hiện nay được trình bày ở bảng 6:
SO SáNH CạNH TRANH CáC Hệ THốNG PHÂN PhốI THéP
Hệ thống phân phối
Ưu điểm
Nhược điểm
Tư nhân
Động lực làm việc tốt Năng suất lao động cao Tần suất quay vòng nhanh. Quản lý nợ hiệu quả. Dịch vụ khách hàng tốt Khống chế toàn bộ hoạt động bán lẻ
Chi phí vốn cao Mặt bằng kho bãI hạn chế. Khả năng huy động vốn hạn chế
VSC
Hệ thống phân phối rộng Quy mô lớn Khả năng tài chính mạnh
Nhân viên thiếu động lực làm việc Năng suất lao động thấp Tốc độ quay vòng vốn chậm. Quản lý nợ kém hiệu quả
Công ty nước ngoài
Chủ động về nguồn hàng
chính sách phân phối không linh hoạt
Theo các chuyên gia trên lĩnh vực thép nhận định rằng,hệ thống phân phối tư nhân đang chiếm ưu thế vượt trội trong hoạt động phân phối thép.Hiệ tại trên thị trường Việt Nam có khoảng 20 nhà phân phối tư nhân lớn hoạt động với tư cách là phân phối cấp một cho các nhà sản xuất.
3.2 Điều kiện phân phối thép không thuận lợi ,nguồn lực kinh doanh hạn chế
Kết quả thăm dò ý kiến cho thấy các nhf sản xuất cung như ccs nhà phân phối đang gặp nhiều khó khăn trong quá trình phân phối thép.Những khó khăn này xuất phát từ môI trường kinh doanh không thuận lợi cũng như sự hạn chế về nguồn lực kinh doanh của các doanh nghiệp.
Kết quả điều tra(Đẻ Số Mủ) của
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22495.doc