Sự phát triển TMĐT một mặt là kết quả của xu hướng tất yếu khách quan của quá trình “số hóa” toàn bộ hoạt động con người, một mặt là kết quả của sự nỗ lực chủ quan của mỗi quốc gia.
TMĐT mở ra cơ hội lớn cùng với thách thức mới tham gia TMĐT để tận dụng cơ hội và hạn chế rủi ro ta phải có chiến lược chung về TMĐT từ chương trình tổng thể cho đến phương án hành động từng bước.
Nghiên cứu các vấn đề mang tính lý luận về đặc điểm chức năng phương tiện thanh toán của tiền tệ qua các hình thái biểu hiện và tiến trình phát triển của hệ thống thanh toán.Bài viết đã khái quát sơ lược được các phương thức giao dịch thanh toán, nhấn mạnh về các sản phẩm giao dịch ngân hàng điện tử và thanh toán điện tử ngày nay và xu hướng mở rộng phạm vi cũng như phát triển sản phẩm trên Internet nhằm thay đổi một cách cơ bản, toàn diện và triệt để dựa trên công nghệ để đạt được những tiến bộ vượt bậc và hiệu quả trong môi trường kinh doanh sắp tới.
Nghiên cứu về thanh toán điện tử trong TMĐT là vấn đề rộng lớn và phức tạp, lần đầu tiên thực hiện ở nước ta nên không tránh khỏi những hạn chế. Nghiên cứu khoa học ứng dụng trong môi trường thực tế của TTTT-TM-BTM đang trong quá trình hiện đại hóa công nghệ và đổi mới về tổ chức điều hành sẽ đóng vai trò vào sự sự phát triển thanh toán trong TMĐT cảu Việt Nam nói riêng và sự nghiệp đổi mới của đất nước nói chung.
35 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1511 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và một số kiến nghị đẩy mạnh ứng dụng thanh toán diện tử ở Trung tâm Thông tin Thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất xứ từ nhà nước, chính quyền địa phương, doanh nghiệp nhà nước trong đó có các vấn đề giải quyết như: Nhà nước có phải là chủ nhân của các thông tin có quyền được công khai hoá và thông tin phải giữ bí mật hay không? Người dân có quyền công khai hoá các dữ liệu của chính quyền hay không? khi công khai hoá thì việc phổ biến các số liệu đó có được xem là một nguồn thu cho ngân sách hay không?
Bảo vệ pháp lý đối với sở hữu trí tuệ liên quan đến mọi hình thức giao dịch điện tử. Bảo vệ bí mật riêng tư một cách thích đáng.
Bảo vệ pháp lý đối với mạng thông tin, chống tội phạm xâm nhập với mục đích bất hợp pháp như thu thập tin tức mật, thay đổi thông tin trên các trang web, thâm nhập vào các dữ liệu, truyền vius phá hoại
1.3.2/ Động lực cho phát triển TMĐT:
Sự ra đời và phát triển của TMĐT là xu thế tất yếu, khách quan của quá trình số hoá, là kết quả của sự nỗ lực của từng nước và toàn thế giới trong việc tạo môi trường pháp lý và đường lối chính sách cho nền kinh tế số hoá.
Trong tổng doanh số của TMĐT, buôn bán giữa các doanh nghiệp chiếm khoảng 50%, dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác 45%, dịch vụ bán lẻ 5%. Như vậy, tuy mới bắt đầu phát triển mạnh mẽ trong khoảng chưa đầy 10 năm qua nhưng TMĐT đã chứng tỏ là một lĩnh vực ẩn chứa khả năng phát triển tiềm tàng.
Thực tế TMĐT đã đem đến những lợi ích thiết thực, giúp người tham gia TMĐT thu được thông tin phong phú về thị trường và đối tác, giảm chi phí tiếp thị và giao dịch, rút ngắn chu trình sản xuất, tạo dựng và củng cố quan hệ bạn hàng, tạo điều kiện dành thêm nguồn nhân lực để mở rộng quy mô và công nghệ sản xuất.
Xét trên bình diện quốc gia, trước mắt TMĐT sẽ kích thích sự phát triển của lĩnh vực CNTT, đồng thời TMĐT sẽ tạo điều kiện cho việc sớm tiếp cận với nền kinh tế số hoá (digital economy). Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển. Sớm chuyển sang nền kinh tế số hoá sẽ giúp các nước đang phát triển tạo ra bước nhảy vọt, tiến kịp các nước đi trước trong một thời gian ngắn hơn.
1.4/ Tình hình hoạt động thanh toán điện tử ở Việt Nam.
Nếu xem xét tình hình thanh toán điện tử ở Việt Nam theo các cấp bậc đã phân chia trước thì thanh toán điện tử ở Việt Nam mới chỉ ở mức độ sơ đẳng nhất, có nghĩa là thanh toán điện tử này không khác mấy so với giao dịch qua điện thoại - phone banking - và giao dịch với một máy rút tiền tự động ATM. Vì vậy, để đánh giá tình hình và triển vọng thanh toán điện tử của các ngân hàng ở Việt Nam thì chỉ có thể xem xét dựa trên các hoạt động thanh toán bằng thẻ thanh toán điện tử hay thanh toán bằng hình thức chuyển tiền điện tử.
Thẻ thanh toán điện tử
Mặc dù phương thức thanh toán bằng thẻ đã trở nên phổ biến trên hầu hết các nước trên thế giới nhưng ở Việt Nam hình thức này dường như vẫn hoàn toàn mới mẻ và rất ít người biết đến. Năm 1990, hợp đồng làm đại lý chi trả thẻ Visa giữa ngân hàng Pháp BFCE và Vietcombank đã mở đầu cho phương thức thanh toán mới này ở Việt Nam. Tiếp theo Vietcombank, ngân hàng Công thương Sài Gòn cũng liên kết với trung tâm thẻ Visa để làm đại lý thanh toán thẻ Visa cho các công ty nước ngoài.
Còn Citibank là một ngân hàng Mỹ đầu tiên có mặt ở Việt Nam thông qua chi nhánh của mình ở Hà Nội và thành Phố Hồ Chí Minh đã thực hiện thanh toán thẻ điện tử ở Việt Nam. Citi Bank là ngân hàng điện tử có thể thanh toán cho hầu hết các loại thẻ thông dụng trên thị trường thế giới như Mastercard, Visa, Amex Với một mạng lưới ATM có mặt ở nhiều nơi khách hàng sử dụng thẻ có mặt tại Việt Nam sẽ rất thuận lợi trong việc thanh toán bằng thẻ điện tử.
Bên cạnh đó, một loạt các chi nhánh ngân hàng thương mại như Eximbank, Indovina, ANZ, ngân hàng á châu cũng lần lượt xâm nhập vào thị trường thanh toán thẻ Việt Nam, một loạt các điểm thanh toán thẻ đặt ở khách sạn, nhà hàng, sân bax và vô số các nơi công cộng như siêu thị, các điểm vui chơi giải trí, các khu du lịch đã tạo được điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng.
Chuyển tiền điện tử
Hiện nay, hình thức chuyển tiền điện tử tại Việt Nam đã được áp dụng ngày một rộng rãi ở các hệ thống ngân hàng thương mại cũng như ngân hàng Nhà nước. Phương thức chuyển tiền ở các ngân hàng tại Việt Nam hiện nay gồm có:
- Chuyển tiền liên ngân hàng. Một trong những yếu tố quan trọng để khách hàng tín nhiệm và thực hiện các dịch vụ chuyển tiền qua Vietcombank (kể cả các khách hàng mở tài khoản giao dịch ở ngân hàng khác) đó là độ an toàn, tính chính xác, mức phí hấp dẫn trong nghiệp vụ chuyển tiền qua mạng SWIFT của Vietcombank.
Điển hình là ở Vietcombank, điểm nổi bật trong công tác chuyển tiền trong thời gian qua nhiều doanh nghiệp qua mua bán giao dịch đã tạo được sự tín nhiệm với đối tác nước ngoài nên phương thức chuyển tiền được thay cho phương thức thanh toán L/C trong các hợp đồng mua bán với nước ngoài. Vì vậy, cùng với đà phát triển của toàn ngân hàng Ngoại thương, khâu chuyển tiền cũng đóng vai trò quan trọng. Cụ thể trong năm 1998 Vietcom bank đã thực thực hiện 76,258 điện chuyển khoản đi .ước ngoài, trong đó có 43905 bức điện chuyển tiền cho các tổ chức cá nhân, 13115 bức chuyển tiền cho các tổ chức tín dụng (Nguồn: Báo cáo cuối năm của Ngân hàng Ngoại thương)
Như vậy, chuyển tiền điện tử đã ngày một phát triển ở các ngân hàng. Tuy nhiên, hình thức chuyển tiền điện tử mới chỉ được áp dụng thanh toán trong từng hệ thống ngân hàng. Do đó việc thanh toán giữa các hệ thống ngân hàng khác nhau và khác địa bàn cũng chưa thực sự nhanh chóng.
- Chuyển tiền nhanh- moneygram: Dịch vụ này chủ yếu phục vụ chuyển tiền kiều hối. Chuyển tiền qua dịch vụ này nhanh, thuận tiện, thu hút được khách hàng. Năm qua, ngân hàng Ngoại Thương đã thực hiện được 12989 món với số tiền 8228 triệu USD (Nguồn: Phòng thanh toán thuộc ngân hàng Ngoại Thương).
Tóm lại, trong thực tế giao dịch ngân hàng mới chỉ được tiến hành tại các chi nhánh, qua thư tín, điện thoại hoặc hệ thống máy giao dịch tự động. Tuy nhiên, một vài năm qua, nhiều ngân hàng Việt Nam đã đổi mới, bắt đầu sử dụng Internet như một kênh cung cấp các sản phẩm truyền thống cho người tiêu dùng cũng như bắt đầu nghiên cứu các sản phẩm phục vụ riêng cho thương mại điện tử.
Khả năng tiếp cận và phát triển thanh toán điện tử tại các ngân hàng ở Việt Nam
Để thanh toán điện tử có khả năng đi vào cuộc sống và phát triển, chúng ta phải tạo vị thế cho thanh toán điện tử cũng như thương mại điện tử và triển khai các cơ sở cần thiết cho việc phát triển hệ thống thanh toán trong nền kinh tế số. Vì vậy, ta cần xem xét các cơ sở hạ tầng cho thanh toán điện tử như cơ sở công nghệ, cơ sở kinh tế, cơ sở chính trị- xã hội với những thuận lợi cũng như khó khăn để từ đó đánh giá khả năng tiếp cận và phát triển hình thức thanh toán này ở các ngân hàng Việt Nam trong xu thế điện tử hoá thương mại điện tử toàn cầu.
CHƯƠNG 2
MÔ HÌNH THANH TOÁN ĐIỆN TỬ Ở TRUNG TÂM THÔNG TIN THƯƠNG MẠI.
2.1/ GIỚI THIỆU VỀ TRUNG TÂM THÔNG TIN THƯƠNG MẠI
Lịch sử hình thành và phát triển của trung tâm.
Trung tâm Thông tin Thương mại được thành lập theo Quyết định số 76/KTĐN ngày 20/11/1989 của Bộ Kinh tế đối ngoại và Quyết định số 473/TMDL-TCCB ngày 30/05/1992 của Bộ Thương mại và Du lịch (nay là Bộ Thương mại) hợp nhất Trung tâm Thông tin Khoa học Kỹ thuật Vật tư và Phòng Thông tin Khoa học Kỹ thuật Thương nghiệp.
Trung tâm Thông tin Thương mại có tư cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản bằng Đồng Việt Nam và tài khoản Ngoại tệ.
Tài khoản VND: 0.012.000.000.518
Ngoại tệ: 002.1.37.002.038.8
Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội
Trung tâm có trụ sở tại 46 Ngô Quyền – Hà Nội
Ngoài ra, Trung tâm còn có đại diện tại các thị trường trọng điểm: Lạng Sơn, Móng Cái, Hải Phòng, Nam Định, Nghệ An, Thanh Hoá, Cần Thơ, Đồng Tháp, Tiền Giang, An Giang.
Chức năng nhiệm vụ của Trung tâm:
- Là một cơ quan thuộc Bộ Thương mại,Trung tâm Thông tin Thương mại đã và đang thực hiện các chức năng và nhiệm vụ sau:
- Là một đầu mối cung cấp tin trực tiếp cho văn phòng Trung ương Đảng, vận hành trang chủ quốc gia của Việt Nam trên mạng ASEMCONNECT và WTO
- Ứng dụng công nghệ thông tin để phục vụ cho chế bản các bản tin; in ấn cùng một lúc ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam, khai thác tin qua chảo bắt sóng vệ tinh, mua tin của REUTEUR, khai thác Internet và xây dựng mạng diện rộng Vinanet.
- Cung cấp các thông tin kinh tế, thương mại trên toàn quốc
- Triển khai phát triển dự án Thương mại điện tử trên ba sàn giao dịch tại Hà Nội, Đà Nẵng, T.p HCM
2.2/ CÁC MÔ HÌNH KINH DOANH TMĐT Ở TRUNG TÂM THÔNG TIN THƯƠNG MẠI:
Trung tâm Thông tin Thương mại đã đưa ra một số mô hình kinh doanh TMĐT vào chạy thử nghiệm.Trong đó mô hình dịch vụ mua bán hàng hóa hữu hình đã ứng dụng thanh toán trực tuyến. Vì vậy trong bài viết em chủ yếu đi sâu vào mô hình này, ngoài ra còn một số mô hình khác đang được nghiên cứu và sẽ được ứng dụng thực tế nên chỉ đưa vào với hình thức giới thiệu tham khảo.
2.2.1/ Mô hình dịch vụ mua bán hàng hóa hữu hình
Dịch vụ mua bán hàng hoá hữu hình được xây dựng để phục vụ các nhóm đối tượng : người bán hàng (siêu thị), người mua hàng, người quản lý (Trung tâm thông tin thương mại), cổng thanh toán (VASC payment). Các nhóm đối tượng thực hiện các chức năng thông qua hệ thống theo sơ đồ sau :
Khách hàng, thông qua giao diện web, gửi các yêu cầu về các thông tin mua hàng đến hệ thống TMĐT đặt tại Trung tâm thông tin thương mại. Sau khi hình thành đơn đặt hàng, hệ thống sẽ tự động nối với cổng thanh toán, gửi các thông tin về thanh toán tới cổng. Cũng tại đây, các nhân hàng tương ứng sẽ nhận các dữ liệu của mình về và gửi kết quả trả lại sau khi đã xử lý.
Đối với các nhà cung cấp (siêu thị), họ có thể truy nhập vào hệ thống để quản lý kho hàng của mình hoặc để xử lý các đơn hàng của siêu thị mình. Trong đó, các chức năng đều được xây dựng thông qua giao diện web.
Như vậy, dịch vụ mua bán hàng hoá hữu hình của hệ thống thử nghiệm TMĐT sẽ có những chức năng chủ yếu sau :
2.2.1.1/ Tìm kiếm hàng hóa theo tiêu chí: theo chủng loại hàng, theo tên hàng, theo nhà cung cấp (siêu thị).
Với vai trò là một khách hàng , khi vào trang đầu tiên của dịch vụ, giao diện sẽ hiển thị các tiêu chí có thể lựa chọn để tìm kiếm.Khách hàng có thể lựa chọn mặt hàng mới nhất được liệt kê hoặc chọn một danh sách mặt hàng bất kỳ, hệ thống sẽ hiển thị danh sách các mặt hàng của laọi hàng đó.
Nếu danh sách mặt hàng là nhiều, hệ thống sẽ tự động phân trang cho danh sách các mặt hàng.
Nếu khách hàng chọn tên một siêu thị, toàn bộ chủng loại mặt hàng đang được lưu giữ của siêu thị này sẽ hiện ra, đồng thời có lời chào mừng của siêu thị, giúp khách hàng nhận rõ, mình đang đứng mua hàng của nhà cung cấp nào.
2.2.1.2/ Tạo lập giỏ hàng:
Với mỗi phiên giao dịch, hệ thống sẽ sinh ra một giỏ hàng cho khách và sẽ quản lý giỏ hàng này cho tới hết phiên giao dịch.
Các thông tin giỏ hàng lưu giữ bao gồm :
+ Tên hàng
+ Số lượng
+ Đơn giá
+ Thành tiền
+ Tổng
Như vậy, khách hàng sẽ có cảm giác đang sử dụng một giỏ hàng thật sự, có thể thêm hàng, bớt hàng một cách thuận tiện, chỉ bằng những cú nhấn chuột.
2.2.1.3/ Tạo lập đơn hàng:
Khi kết thúc việc lựa chọn hàng, khách hàng nhấn vào nút “Thanh toán”, hệ thống sẽ tiến hành quá trình tạo lập đơn hàng. Ở bước này, hệ thống sẽ kiểm tra lại các thông tin cá nhân của khách hàng và chấp nhận nếu họ đúng là thành viên của hệ thống.
Sau đó, hệ thống sẽ hiển thị giao diện yêu cầu kiểm tra lại các thông tin của giỏ hàng và các thông tin về địa điểm giao hàng, phương thức thanh toán, kèm theo các thông tin về tài khoản (nếu phương thức thanh toán là chuyển khoản)
Khi đã nhận được đầy đủ các thông tin, hệ thống sẽ tiến hành bóc tách đơn hàng ra thành nhiều đơn hàng nhỏ, theo từng nhà cung cấp. Ví dụ, giỏ hàng của khách bao gồm 01 áo sơ mi của siêu thị Intimex và 02 hộp sữa của siêu thị 24h, hệ thống sẽ tạo lập thành 02 đơn hàng nhỏ. Lý do cần bóc tách đơn hàng theo từng nhà cung cấp là để phục vụ việc chuyển tiền vào tài khoản của từng nhà cung cấp và giúp việc cung ứng hàng của từng nhà cung cấp được chính xác, rõ ràng. Việc bóc tách đơn hàng là hoàn toàn trong suốt đối với khách hàng, khách hàng thậm chí không cần biết, mình đã mua hàng ở những siêu thị nào.
2.2.1.4/ Quản lý hàng hóa của các nhà cung cấp
Có một số giải pháp để thực hiện việc quản lý hàng hoá của các nhà cung cấp :
Quản trị hệ thống, cập nhật các thông tin về hàng hoá cho tất cả các nhà cung cấp
Mỗi nhà cung cấp sẽ được trang bị một kho hàng riêng ảo và tự mình cập nhật, quản lý.
Giải pháp thứ hai chắc chắn sẽ hiệu quả hơn vì tính riêng tư được bảo đảm, đồng thời tăng cường sự chủ động của từng nhà cung cấp. Do vậy, mỗi nhà cung cấp, sau khi đã đăng ký gia nhập hệ thống, sẽ được cấp một số công cụ để có thể truy nhập vào hệ thống, quản lý hàng hoá của riêng mình. Như vậy, mỗi nhà cung cấp sẽ có một kho hàng ảo trên mạng, chỉ họ mới có quyền cập nhật, sửa đổi các thông tin trong kho. Các thông tin có thể được cập nhật, sửa đổi là tên hàng, chủng loại hàng, mô tả chi tiết hàng, hình ảnh của mặt hàng, nhà sản xuất, nhà cung ứng, đơn vị, đơn giá, số lượng hàng trong kho ...
2.2.1.5/ Quản lý đơn hàng của các siêu thị
Mỗi siêu thị cũng sẽ sử dụng các công cụ được cung cấp của hệ thống để truy nhập vào hệ thống, quản lý các đơn hàng của mình. Hệ thống phân biệt hai loại đơn hàng, dựa trên tình trạng : đơn hàng chưa thực hiện và đơn hàng đã thực hiện. Trong đó, chỉ những đơn hàng nào đã thực hiện việc chuyển khoản, do ngân hàng xác nhận (nếu phương thức thanh toán là chuyển khoản), mới được hiển thị lên màn hình này.
Như vậy, với những đơn hàng có trạng thái chưa thực hiện, siêu thị sẽ phải in đơn hàng ra, thực hiện việc giao hàng theo các thông tin chi tiết ghi trong đơn hàng(người nhận, địa chỉ giao hàng, thời gian giao hàng, tên hàng, số lượng ...), thanh toán tiền (nếu phương thức thanh toán là tiền mặt) và lấy xác nhận của khách hàng. Sau khi hoàn tất các thủ tục vật lý này, siêu thị sẽ tự thay đổi trạng thái của đơn hàng thành “đã thực hiện” bằng cách nhấn vào nút “Xác nhận kết thúc đơn hàng”
Ngoài ra, để cung cấp thêm công cụ cho khách hàng, hệ thống cũng cho phép từng khách hàng xem lại toàn bộ các đơn hàng đã thực hiện của mình.
2.2.1.6/ Quản lý khách hàng:
Để có thể thực hiện các giao dịch trọn vẹn, phải đăng ký để trở thành thành viên của hệ thống. Bước đầu tiên cần thực hiện là đăng ký trực tiếp với ban quản lý hệ thống để được cung cấp chứng chỉ số. Sau khi đã cài đặt chứng chỉ số lên máy tính cá nhân, khách hàng có thể truy cập vào được form đăng ký khách hàng và thực hiện các thủ tục tiếp theo.
Như vậy, hệ thống sẽ có một cơ sở dữ liệu về các thông tin cơ bản của khách hàng và sẽ kiểm tra mỗi khi đăng nhập và lấy những thông tin cần thiết để tạo lập đơn hàng.
2.2.1.7/ Gửi/ nhận dữ liệu đến cổng thanh toán
Toàn bộ dữ liệu có liên quan đến thanh toán sẽ được lưu trong một cơ sở dữ liệu riêng.Quá trình gửi/nhận dữ liệu thanh toán được ghi lại vào log file của hệ thống để có thể tra cứu lại khi cần, ví dụ trong các trường hợp khiếu nại của khách hàng, hoặc nhà cung cấp, hoặc các ngân hàng.
2.2.2/ Mô hình dịch vụ mua bán hàng hóa phi vật thể
Với dạng hàng hoá phi vật thể, hệ thống thử nghiệm được xây dựng để có thể mua bán tác phẩm văn học và các tác phẩm mỹ thuật. Trong đó, đối với một tác phẩm văn học, trạng thái được sở hữu đối với khách hàng là sau khi đã thanh toán các khoản chi phí cần thiết và được phép Download tác phẩm về máy mình để đọc.
Với cách thiết kế như vậy, hệ thống sẽ được xây dựng với các chức năng cho phép khách hàng kiểm tra trạng thái đơn hàng và hệ thống cũng có chức năng cập nhật các trạng thái của đơn hàng. Các chức năng cơ bản của hệ thống, phục vụ cho mua bán hàng hoá phi vật thể như sau :
2.2.2.1/ Tìm kiếm tác phẩm văn học hoặc tác phẩm mỹ thuật
Tìm theo thể loại : truyện ngắn, tiểu thuyết, tác phẩm mỹ thuật
Tìm theo nhà cung cấp (nhà xuất bản),
Tìm theo giá trị mặt hàng,
Tìm theo nội dung (từ khoá)
2.2.2.2/ Tạo lập giỏ hàng
Sau khi tìm kiếm, khách hàng có thể tham khảo thêm một số thông tin chi tiết để quyết định việc mua hàng.Ví dụ như trích đoạn của tác phẩm, tác giả, đơn giá.Sau khi lựa chọn các thông tin lưu trong giỏ hàng bao gồm mã hàng, đơn giá, số lượng và trị giá.
2.2.2.3/ Tạo lập đơn hàng
Khi khách hàng nhấn vào nút “Thanh toán”, hệ thống sẽ đòi hỏi một số thông tin cá nhân để xác định chủ nhân của đơn hàng. Để kết hợp với các giải pháp bảo mật thông tin, động tác nhấn vào nút “Thanh toán” sẽ đồng thời gọi một trang web, được truyền qua giao thức bảo mật HTTPS. Như vậy, chỉ có những thành viên đã đăng ký, được cấp chứng chỉ số của hệ thống mới có thể đặt hàng qua hệ thống được.
2.2.2.4/ Quản lý hàng
Chỉ những người có chức năng mới có quyền truy nhập vào các phần quản lý này. Giao diện màn hình ở phần quản lý dưới dạng một thực đơn, để từ đây, người quản lý có thể thực hiện các công việc như quản lý hàng hoá, quản lý công việc bán hàng, một số tiện ích giúp quản lý, cập nhật các phương thưc chuyển hàng, các phương thức chuyển khoản.
Khi vào mục “quản lý hàng hóa”, người quản lý có thể thêm bớt, cập nhật, sửa đổi danh mục các mặt hàng đã có, thêm các mặt hàng mới, cập nhật các file ảnh, cập nhật các file nén để có thể download về.
2.2.3/ Mô hình mua bán dịch vụ du lịch.
Các dịch vụ được thực hiện trong hệ thống là các dịch vụ du lịch, bao gồm : dịch vụ đặt tour du lịch, dịch vụ đặt phòng khách sạn, dịch vụ đặt vé máy bay. Đơn vị chịu trách nhiệm chính trong việc thiết kế phần dịch vụ của hệ thống là Công ty đầu tư xây dựng và hợp tác quốc tế Hùng Vương.
Cũng như mua bán dịch vụ hàng hóa hữu hình và phi vật thể,dịch vụ du lịch cũng thực hiện theo các bước sau:
2.2.3.1/ Tìm kiếm và đặt hàng
Giao diện của phần dịch vụ này được thiết kế dưới dạng website.Khách hàng có thể đặt các tour du lịch trong nước, ngoài nước, đặt phòng ở các khách sạn miền Bắc, miền Nam, miền Trung, đặt vé máy bay của một số hãng bay trong nước.
2.2.3.2/ Tạo lập giỏ hàng
Giỏ hàng sẽ được tạo lập theo các phiên giao dịch của khách hàng. Như vậy, với mỗi phiên giao dịch, được tính từ thời điểm truy cập vào trang đầu tiên của dịch vụ, hệ thống sẽ tạo lập một giỏ hàng cho khách và chủ nhân của giỏ hàng sẽ được xác định sau khi khách đã hoàn thành toàn bộ quá trình chọn dịch vụ và nhấn vào biểu tượng giỏ hàng để khai một số thông tin cá nhân cơ bản.
Các thông tin cá nhân sẽ được khai báo ở các trang web có cơ chế bảo mật riêng, nhằm đảm bảo an toàn đối với các thông tin này.
2.2.3.3/ Tạo lập và xử lý đơn hàng
Không giống như những hàng hoá vật thể hoặc phi vật thể trên, loại hàng hoá dạng dịch vụ này chưa được thiết kế để có thể tự động xử lý hoàn toàn. Khách hàng phải chờ đợi thêm một khoảng thời gian để người quản lý chính thức thông báo về các kết quả thực hiện việc đặt hàng.
Đối với các đơn hàng đặt tour, ngay sau khi thực hiện lệnh đặt hàng, đơn hàng sẽ được sinh ra và gửi đến cổng thanh toán, tương tự như trường hợp mua hàng ở các siêu thị.
Đối với việc đặt phòng tại khách sạn, sau khi chấp nhận đặt hàng, một đơn hàng tương ứng được sinh ra, người quản lý sẽ liên hệ trực tiếp với khách sạn và chỉ khi nhận được sự chấp nhận chính thức của khách sạn, người quản lý mới cập nhật trạng thái để đơn hàng được gửi đến cổng thanh toán. Tương tự, đối với các đơn hàng đặt vé máy bay, người quản lý cũng phải liên hệ với đại lý bán vé chính thức của hãng và chỉ khi có kết quả chấp nhận, mới cập nhật trạng thái của đơn hàng để gửi ra cổng thanh toán.
2.2.3.4/ Quản lý khách hàng
Khách hàng có thể tự đăng ký tham gia mua bán dịch vụ khi đã được hệ thống lớn xác nhận. Khi đã sử dụng các chức năng của hệ thống để đặt hàng (đặt tour, khách sạn, vé máy bay), các thông tin về khách hàng sẽ được cập nhật vào các bảng dữ liệu riêng về từng dịch vụ. Điều này cho phép quản lý khách hàng theo dịch vụ để có các chính sách hậu mãi kịp thời, thích hợp.
2.2.3.5/ Quản lý hàng hóa
Hàng hoá ở đây được hiểu là các dịch vụ. Người quản lý có thể truy nhập vào các trang web quản lý để cập nhật, sửa đổi thông tin về các tour, về khách sạn cũng như các chuyến bay.
2.3/ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN ĐIỆN TỬ Ở TRUNG TÂM
2.3.1/ Các hình thức thanh toán cho giao dịch TMĐT ở Trung tâm
Hiện tại ở Trung tâm có bốn cách thanh toán chủ yếu sau:
Tiền mặt
Séc
Thẻ tín dụng
Thanh toán điện tử
2.3.2/ Hệ thống phần mềm giải pháp thanh toán điện tử ở Trung tâm
2.3.2.1/ Mô tả hệ thống
Hiện tại hệ thống thanh toán trực tuyến của Trung tâm kết nối với cổng thanh toán của công ty VASC. Cổng này nối với một số ngân hàng như Vietcombank, ACB, TechcombankNguyên tắc hoạt động như sau:
Toàn bộ các đơn hàng của hệ thống, từ các loại hình dịch vụ, thu gom vào một sơ sở dữ liệu riêng, bao gồm hai bảng : bảng dữ liệu gửi đi và bảng dữ liệu nhận về. Các dữ liệu trong bảng dữ liệu gửi đi bao gồm: tên chủ tài khoản trả, mã số tài khoản trả, ngân hàng trả, tên chủ tài khoản nhận, mã số tài khoản nhận, ngân hàng nhận, số tiền, mã số đơn hàng, thời gian thanh toán ... Các dữ liệu trong bảng dữ liệu nhận về bao gồm : mã số đơn hàng, thời gian thanh toán, tình trạng thanh toán (thành công hay không) ....
Toàn bộ dữ liệu nhận về sau đó sẽ được gửi trả lại bảng tương ứng trong cơ sở dữ liệu ban đầu và chỉ những đơn hàng nào được chấp nhận thanh toán (thành công), mới hiển thị lên để siêu thị thực hiện.
Toàn bộ quá trình gửi/nhận dữ liệu thanh toán được ghi lại vào log file của hệ thống để có thể tra cứu lại khi cần, ví dụ trong các trường hợp khiếu nại của khách hàng, hoặc nhà cung cấp, hoặc các ngân hàng.
Hiện nay, để thử nghiệm việc thanh toán trực tuyến, đề tài thực hiện hai phương án thanh toán trực tuyến : qua cổng thanh toán của VASC payment và trực tiếp sử dụng dịch vụ Internet Banking của Ngân hàng Công thương Việt nam.
Để có thể thanh toán qua cổng VASC payment, khách hàng phải có tài khoản của một trong các ngân hàng tham gia thử nghiệm (Vietcombank, Techcombank, ACB), trong khi đó, các siêu thị có thể có tài khoản ở bất kỳ ngân hàng nào của Việt nam.
Đối với dịch vụ Internet Banking của Ngân hàng Công thương, hiện tại, cả khách hàng lẫn nhà cung cấp đều phải có tài khoản trong Ngân hàng Công thương.
2.3.2.2/ Các đối tác thanh toán
Theo chỉ định của Nhà nước, hệ thống chạy thử nghiệm có sự tham gia của một số ngân hàng như Vietcombank, Techcombank, ACB. Sau khi thử nghiệm thành công, trong tương lai khi chính thức đưa hoạt động thanh toán vào ứng dụng thực tiễn tất cả các ngân hàng đều phải tham gia thanh toán qua TMĐT.
2.3.2.3/ Một số đánh giá về hệ thống.
Hệ thống chạy thử nghiệm mô hình thanh toán trực tuyến tại thời điểm 10-2003 đến tháng 01- 2004 là sàn giao dịch thương mại điện tử đầu tiên,đã đoạt cúp Đồng trong tuần lễ tin hoc quốc gia năm 2004. Hệ thống hoạt động với sự tham gia của 350 thành viên và một số nhà cung cấp.
Cho đến tháng 1 năm 2004, đã có gần 300 giao dịch mua bán hàng thành công với tổng giá trị là 125.781.600 đồng. Trong đó, các giao dịch chủ yếu là mua hàng từ 03 siêu thị trên địa bàn Hà Nội : siêu thị Intimex, Techsimex, 24h. Các đơn hàng đều được thực hiện chính xác, không có sự nhầm lẫn, tuy nhiên thời gian chưa được chuẩn xác theo như đăng ký. Trong suốt thời gian vận hành, chưa hề có sự nhầm lẫn trong chuyển tiền. Các giao dịch thực tế mới chỉ chuyển tiền qua các tài khoản của ngân hàng Ngoại thương (Vietcombank).
Tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại cần khắc phục:
- Hạ tầng cơ sỏ về công nghệ thông tin chưa đáp ứng được yêu vầu về việc giao dịch trực tuyến.
- Thông tin về thương mại điện tử chưa thực sự phổ biến đối với các khách hàng doanh nghiệp hay cá nhân
Mặc dù vậy sau thời gian thử nghiệm, mô hình đã cho thấy rằng chúng ta hoàn toàn có khả năng thực hiện các giao dịch mua bán trực tuyến. Giải pháp mua bán trực tuyến có khả năng mang lại lợi nhuận cho các doanh nghiệp và Nhà nước là khổng lồ, vì vậy Nhà nước cần nhanh chóng đầu tư phát triển để sớm đưa vào ứng dụng thực tế.
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM ĐẨY MẠNH THANH TOÁN ĐIỆN TỬ Ở TRUNG TÂM THÔNG TIN THƯƠNG MẠI
3.1/ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC
3.1.1/ Định hướng phát triển TMĐT ở Việt Nam
Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ ngày 25-12-2001.
Căn cứ Chỉ thị số 58/CT-TƯ ngày 17 – 10- 2000 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa giai đoạn 2001-2005.
Xét theo đề nghị của Bộ thương mại,Chính phủ đã quyết định phê duyêtn Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2006-2010 với những nội dung chủ yếu sau:
Quan điểm phát triển thương mại điện tử góp phần thúc đẩy thương mại và nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.Phát triển thương mại điện tử cần được gắn kết chặt chẽ với việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin và truyền thông.Nhà nước đóng vai trò tạo lập môi trường pháp lý và cơ chế chính sách thuận lợi nhằm thu hút công nghệ tiên tiến và khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng thương mại điện tử , cung cấp các dịch vụ công hỗ trợ hoạt động thương mại điện tử.
Với những định hướng như trên Chính phủ cũng đề ra một số m
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 7246.doc