Quan hệ sản xuất đã có bước đổi mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại một bước, thích nghi dần với cơ chế, hình thành những Tổng công ty lớn trên nhiều lĩnh vực then chốt. Kinh tế tập thể có bước chuyển đổi và phát triển đa dạng theo phương thức mới. Kinh tế hộ phát huy tác dụng rất quan trọng trong nông nghiệp; kinh tế cá thể, tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh. Cơ chế quản lý và phân phối có nhiều đổi mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế -xã hội.
21 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1817 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và mục tiêu để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ao động liên doanh, liên kết với nhau, với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước. Xây dựng quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động.
- Kinh tế tư bản nhà nước: Phát triển đa dạng dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư bản tư nhân trong nước và ngoài nước, mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh.
- Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Đang phát triển thuận lợi, mục tiêu hướng vào xuất khẩu. Tạo điều kiện để xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội gắn với thu hút công nghệ hiện đại, tạo thêm nhiều việc làm cho nguồn lao động dồi dào trong nước. Ngoài ra, nhà nước ta đang có những chính sách thích hợp, tạo điều kiện pháp lý thuận lợi để thu hút mạnh vốn đầu tư nước ngoài.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang chú trọng phát triển các hình thức kinh doanh đan xen, hỗn hợp nhiều hình thức sở hữu, giữ các thành phần kinh tế với nhau giữa trong nước và ngoài nước. Phát triển mạnh hình thức tổ chức kinh tế cổ phần nhằm huy động và sử dụng rộng rãi vốn đầu tư xã hội. Nhân rộng mô hình hợp tác, liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông thôn. Phát triển các loại hình trang trại với quy mô phù hợp trên từng địa bàn.
3. Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường
a. Tự do, tự nguyện đề cao vai trò của người tiêu dùng và người sản xuất
Trong nền kinh tế thị trường, ba vấn đề cơ bản do thị trường quyết định. Sản xuất cái gì,sản xuất nhu thế nào do lợi nhuận mách bảo, sản xuất cho ai do thu nhập quyết định. Nguồn lực của xã hội được luân chuyển theo chiều ngang, không gian thị trường được mở rộng cho sự lựa chọn. Sự vận động của cung cầu và cạnh tranh đã làm bộc lộ thực chất nguồn lực của xã hội. Nền kinh tế vận hành một cách khách quan. Nguồn lực xã hội được luân chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu, từ nơi có hiệu quả thấp sang nơi có hiệu quả cao. Tuy nhiên để hạn chế mặt trái của kinh tế thị trường, kinh tế thị trường đầy đủ bao giờ cũng gắn với vai trò quản lý nhà nước nhằm hạn chế tính tự phát của nó.
b. Kinh tế thị trường gắn liền với sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình sản xuất kinh doanh
Kinh tế thị trường tự bản thân nó là một nền kinh tế xã hội gắn liền với chế độ sở hữu đa dạng, nhiều loại hình sản xuất kinh doanh, nhiều loại quy mô. Sự đa dạng về sở hữu loại hình quy mô đã tạo điều kiện để giảI phóng sức sản xuất xã hội, nhằm khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng, kinh tế nhà nước giữ vai trò định hướng, đIều chỉnh nền kinh tế. Kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác làm cho làm nền kinh tế năng động hơn. Kinh tế hợp tác sẽ là hình thức phổ biến hỗ trợ các hoạt động kinh tế, tăng sức mạnh cho các thành phần kinh tế.
Thực hiện đường lối phát triển kinh tế do Đại hôịi VII của Đảng cộng sản Việt Nam là phát triển kinh tế hang hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta dang ra sức đảy mạnh sản xuất, xây dựng một nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
c. Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, một mặt vừa có những tính chất chung của nền KTTT: Một là, các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Hai là, giá cả do thị trường quyết định, hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ và nó có tác dụng làm cơ sở phân phối các nguồn lực kinh tế vào trong các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Ba là, nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của KTTT như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh…Sự tác động của các quuy luật đó hình thành cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế. Bốn là, nếu là nên KTTT hiện đại thì còn có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước thông qua pháp luật kinh tế, các chinhsachs kinh tế. Mặt khác, KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi nguyên tắc và bản chất của CNXH.
d. Kinh tế thị trường là nền kinh tế mở
Nhờ tự do, mở cửa, không gian thị trường được rộng mở, thị trường là một thể thống nhất thông suốt, hòa nhập thị trường thế giới. Nguồn lực xã hội không chỉ ở trong nước mà còn cả quốc tế. Trong đIều kiện của xu hướng quốc tế toàn cầu hóa, mỗi quốc gia có thể tìm thấy lợi thế của mình trong quan hệ đa phương.
Đối với nước kém và đang phát triển, mở cửa là xu hướng tất yếu để có thêm nguồn lực xã hội cho phát triển: vốn, công nghệ, thị trường, quản lý, đồng thời đặt ra những yêu cầu mới cao hơn, có cả cơ hội và thách thức. Điều quan trọng là phảI có chiến lược biết chuẩn bị về nội lực để tiếp thu một cách có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài.
e. Kinh tế thị trường gắn liền với những khuyết tật vốn có của nó.
Với đặc trưng cơ bản là dân chủ hóa, tự do hóa cá nhân, coi trọng động lực lợi ích do đó dễ cường điệu hóa lợi ích cá biệt, phá vỡ những cân đối chung, những cân đối tổng thể của nền kinh tế,coi trọng lợi ích kinh tế, dễ bỏ qua những vấn đề xã hội, môi trường. Thị trường là cạnh tránh sẽ có kẻ thắng người thua, nhưng thị trường vô tư không bảo vệ những kẻ chiến bại. Cạnh tranh sớm muộn cũng dẫn đến độc quyền với những tác hại khôn lường: bóp méo sự vận động của cung cầu, giá cả. Chuyển sang kinh tế thị trường gắn liền với những thử thách về đạo đức nhân cách, những yếu tố truyền thống văn hóa.
4. Sự cần thiết phải phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
a. Cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển KTTT Việt Nam
- Phân công lao động xã hội với tíng cách là cơ sở chung của sản xuất hàng hoá chẳng những không mất đi, mà trái lại còn được phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng địa phương cũng ngày càng phát triển. Sự phát triển của phân công lao động được thể hiện ở tính phong phú, đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản pẩm đưa ra trao đổi trên thị trường.
- Trong nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu, đó là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu hỗn hợp. Do đó tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện được bằng quan hệ hàng hoá - tiền tệ.
- Thành phần kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể, tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu ssản xuất, nhưng các đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng.Mặt khác các đơn vợ kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ kỹ thuật – công nghệ, về trình độ tổ chức quản lý, nên chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau.
- Quan hệ hàng hoá - tiền tệ còn cần thiết trong quan hệ kinh tế đối ngoại, đặc biệt trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc
b. Các chức năng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
Nhìn chung, tư tưởng về sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế thị trường rất đa dạng. Tư tưởng về vai trò kinh tế của nhà nước được vận dụng ở các nước cũng rất khác nhau và thay đổi qua các thời kỳ. Song, điều khẳng định là: sự can thiệp, sự quản lý của nhà nước đối với kinh tế thị trường là thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế - một đặc trưng của kinh tế thị trường hiện đại (kể cả trong các nước TBCN). Người ta đã nói đến các chức năng của nhà nước trong nền kinh tế thị trường (theo lịch sử phát triển).
Những người theo phái trọng thương (thế kỷ 15 - 17) đã chủ trương nhà nước phải can thiệp vào kinh tế, chủ yếu là các hoạt động ngoại thương, thực hiện chính sách thuế quan bảo hộ, nhằm giúp cho nền kinh tế dân tộc phát triển.
Vào những năm 30 của thế kỷ 20, vấn đề nhà nước can thiệp vào kinh tế được đặt ra trong điều kiện hoàn toàn mới. Lúc này nền kinh tế TBCN thế giới đang lâm vào khủng hoảng thừa, do đó đòi hỏi nhà nước tư sản phải có phương pháp mới can thiệp vào toàn bộ quá trình tái sản xuất. Theo J.M. Kên, nhà nước phải duy trì mức cầu về đầu tư, mở ra các công trình đầu tư lớn; từ đó, theo nguyên lý "số nhân" mà kích thích tiêu dùng xã hội, nâng cao cầu có hiệu quả. Nhà nước sử dụng tài chính, tín dụng, lưu thông tiền tệ làm công cụ chủ yếu để điều tiết kinh tế thị trường TBCN.
c. Cơ ché vận hành nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nướcxã hội chủ nghĩa
Trong điều kiện hiện nay, hầu như tất cả các nền kinh tế của các nước trên thế giới đều có sự quản lý của Nhà nước để sửa chữa một mức độ nào đó “ những thất bại của thị trường” Tức là cơ chế vận hành nền kinh tế của tất cả các nước đèu là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nhưng điều khác biệt trong cơ chế vận hành nền kinh tế của nước ta là ở chỗ Nhà nước quản lý nền kinh tế không phảI là nhà nước tư sản, mà là Nhà nươcHCN, nhà nước của dân do dân và vì dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vai trò quản lý của Nhà nước XHCN là hết sức quan trọng. Nó đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, dạt hiệu quả cao và đặc biệt là đảm bảo công bằng xã hội. Nhà nước quản lý nền KTTT định hướng XHCN theo nguyên tắc kết hợp kế hoạch với thị trường. Thị trường là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế, nó tồn tại khách quan, tự vận động theo những quy luật vốn có của nó. Còn kế hoạch hoá là hình thức thực hiện của tính kế hoạch, nó là sản phẩm chủ quan của chủ thể quản lý. Kế hoạch và thị trường là hai phương tiện khác nhau để phát triển và điều tiết nền kinh tế. Kế hoạch và thị trường cần phải được kết hợp với nhau trong cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Sự điều tiết vĩ mô của nhà nước nhằm phát huy tác dụng tích cực và ngăn chặn những tác động tiêu cực của thị trường; đảm bảo tính hướng dẫn, điều khiển nền kinh tế hướng tới chủ nghĩa xã hội. Sự điều tiết của nhà nước nền kinh tế thị trường phải dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật kinh tế khách quan. Sai lầm chủ quan của nhà nước cũng tác hại không kém, thậm chí còn hơn, tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.
* Sự điều tiết của nhà nước thể hiện ở các mặt sau đây:
Một là: Nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các cá nhân, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoạt động. ở nước ta hiện nay, các cá nhân, các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được chuyển quyền tự chủ sản xuất kinh doanh; các cá nhân, các doanh nghiệp khi lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh đều lấy lợi nhuận làm thước đo hiệu quả, đồng thời làm mục tiêu định hướng các hoạt động kinh tế của mình. Tất nhiên, tự chủ kinh doanh theo pháp luật và mọi hành vi đều phải tuân theo pháp luật. Do đó, nhà nước phải xây dựng và ban hành một hệ thống pháp luật đầy đủ và đồng bộ như: luật về các quyền (sở hữu, chiếm hữu, sử dụng, thừa kế, chuyển nhượng...); luật hợp đồng; luật về sự bảo đảm của nhà nước đối với các điều kiện khung của nền kinh tế (bảo hộ lao động, bảo vệ môi trường, chống hạn chế cạnh tranh, chăm sóc những người không có khả năng lao động, bảo hiểm xã hội...); luật thương mại v.v...
Hai là: Nhà nước tạo môi trường kinh tế - xã hội ổn định bằng cách xây dựng kết cấu hạ tầng sản xuất (trong đó quan trọng nhất là phát triển hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc) và kết cấu hạ tầng xã hội (trong đó quan trọng nhất là phát triển hệ thống giáo dục - đào tạo, y tế), cùng với các dịch vụ công cộng khác, như đảm bảo an ninh, dịch vụ tín dụng...
Ba là: Nhà nước soạn thảo kế hoạch, quy hoạch các chương trình phát triển kinh tế - xã hội và ban hành các chính sách để hướng các chủ thể thị trường thực hiện các kế hoạch, quy hoạch và chương trình ấy thông qua các chính sách tài chính, tiền tệ, sử dụng các đòn bẩy kinh tế như: ưu đãi về thuế, về lãi suất cho vay cho những ai đầu tư vào lĩnh vực mà nhà nước khuyến khích.
Qua nhiều năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước ta đã đóng vai trò rất quan trọng trong việc tạo các điều kiện để chuyển đổi nền kinh tế sang phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quản lý nhà nước nền xã hội chủ nghĩa định hướng xã hội chủ nghĩa cũng đã đem lại nhiều kết quả. Song, nhìn chung, ta còn thiếu tri thức và kinh nghiệm quản lý nền kinh tế thị trường, quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội còn nhiều yếu kém.
Trong những năm tới, cần tiếp tục nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước theo hướng: "Nhà nước thực hiện tốt các chức năng: định hướng sự phát triển: trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nỗ lực phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa; thiết lập khuôn khổ luật pháp, có hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường ổn định và thuận lợi cho giới kinh doanh làm ăn phát đạt; khắc phục, hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường; phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân, quản lý tài sản công và kiểm kê, kiểm soát toàn bộ hoạt động kinh tế - xã hội.
II. Thực trạng và mục tiêu để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam
1. Những thành tựu đạt được trong công cuộc xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau nhiều năm kiên trì thực hiện đường lối do Đảng vạch ra, mặc dù có nhiều khó khăn thách thức nhưng ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và bị thiệt hại lớn do thiên tai liên tiếp xảy ra trên nhiều vùng nhưng nhìn chung đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng.
Sau mấy năm đầu thực hiện chiến lược, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) sau 10 năm tăng hơn gấp đôi (2,07 lần). Tích lũy nội bộ của nền kinh tế từ mức không đáng kể, đến năm 2000 đã đạt 27% GDP. Từ tình trạng hàng hóa khan hiếm nghiêm trọng, nay sản xuất đã đáp ứng được các nhu cầu thiết yếu của nhân dân và nền kinh tế, tăng xuất khẩu và có dự trữ. Cơ cấu kinh tế có bước chuyển dịch tích cực. Trong GDP, tỷ trọng nông nghiệp từ 38,7% giảm xuống 24,3% công nghiệp và xây dựng từ 22,7% tăng lên 36,6%, dịch vụ từ 38,6% tăng lên 39,1%.
Quan hệ sản xuất đã có bước đổi mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và thúc đẩy sự hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại một bước, thích nghi dần với cơ chế, hình thành những Tổng công ty lớn trên nhiều lĩnh vực then chốt. Kinh tế tập thể có bước chuyển đổi và phát triển đa dạng theo phương thức mới. Kinh tế hộ phát huy tác dụng rất quan trọng trong nông nghiệp; kinh tế cá thể, tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh. Cơ chế quản lý và phân phối có nhiều đổi mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế -xã hội.
Từ chỗ bị bao vây, cấm vận, nước ta đã phát triển quan hệ kinh tế với hầu khắp các nước, gia nhập và có vai trò ngày càng tích cực trong nhiều tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, chủ động từng bước hội nhập có hiệu quả với kinh tế thế giới. Nhịp độ tăng kim ngạch xuất khẩu gần gấp ba nhịp độ tăng GDP. Thu hút được một khối lượng khá lớn vốn từ bên ngoài cùng nhiều công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Trình độ dân trí, chất lượng nguồn lực và tính năng động trong xã hội được nâng lên đáng kể. Lòng tin của nhân dân đối với tiền đồ của đất nước, với sự lãnh đạo của Đảng và chế độ dược nâng lên.
Đánh giá tổng quát, phần lớn các mục tiêu chủ yếu đề ra trong chiến lược kinh tế - xã hội đã được thực hiện. Nền kinh tế có bước phát triển mới về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và hội nhập kinh tế quốc tế, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt, văn hóa xã hội không ngừng tiến bộ, thế và lực của đất nước hơn hẳn 10 năm trước, khả năng độc lập tự chủ được nâng lên, tạo thêm điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
* Nguyên nhân dẫn đến những thành quả trên:
Một là: Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đứng trước những khó khăn, thách thức, những biến động phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, Đảng ta luôn kiên định xây dựng và thực hiện các chủ trươg, chính sách đổi mới đúng đắn, phát huy những truyền thống quý báu của dân tộc và những thành tựu cách mạng đã đạt được, giữ vững độc lập dân tộc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hai là: Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo. Tiến hành đổi mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc sống của xã hội Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm tốt của thế giới, không sao chép bất cứ một mô hình có sẵn nào, đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để với những bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.
Ba là: Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Công cuộc đổi mới diễn ra vào lúc cách mạng khoa học - công nghệ trên thế giới phát triển như vũ bão, toàn cầu hóa kinh tế ảnh hưởng đến cuộc sống của các dân tộc, cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội diễn ra sôi nổi. Tiến hành đổi mới, nhân dân ta ra sức tranh thủ tối đa cơ hội tốt do những xu thế nói trên tạo ra.
Bốn là: Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới. Đảng khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, hoàn thiện đường lối đổi mới, thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tạo ra sự thống nhất về quan điểm, ý chí và hành động trong toàn Đảng, lãnh đạo tổ chức thực hiện, xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh.
2. Những mặt còn hạn chế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Những thành tựu và tiến bộ đã đạt được chưa đủ để vượt qua tình trạng kém phát triển và chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước. Trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp xa so với mức trung bình của thế giới và kém nhiều nước xung quanh. Thực trạng kinh tế - xã hội vẫn còn những mặt yếu kém, bất cập, chủ yếu là:
a. Trình độ phát triển nền KTTT ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật còn ở trình độ thấp, bên cạnh một số lĩnh vực, một số cơ sở kinh tế đã được trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại, trong nhiều ngành kinh tế, máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu. Lao động thủ công vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội. Do đó năng suất, chất lượng hiệu quả sản xuất còn rất thấp so với khu vực và thế giới.
- Kết cấu hạ tầng như hệ thống giao thông, bến cảng, hệ thống thông tin liên lạc… còn lạc hậu, kém phát triển.
- Nền kinh tế kém hiệu quả và sức cạnh tranh còn yếu. Tích lũy nội bộ và sức mua trong nước còn thấp. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn sản xuất với thị trường, cơ cấu đầu tư còn nhiều bất hợp lý. Tình trạng bao cấp và bảo hộ còn nặng. Đầu tư của Nhà nước còn thất thoát và lãng phí. Nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài giảm mạnh. Tăng trưởng kinh tế những năm gần đây giảm sút, năm 2000 tuy đã tăng lên nhưng còn thấp hơn mức bình quân của thập kỷ 90.
b. Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa đồng bộ
Thị trường hàng hoá - dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và còn nhiều hiện tượng tiêu cực ( hàng giả, hàng lậu, hàng nhái nhãn hiệu…làm rối loạn thị trường ). Thị trường hàng hoá sức lao động còn khan hiếm, sức cung về lao động lành nghề nhỏ hơn cầu rất nhiều, trong khi đó cung về sức lao động giản dơn lại vượt xa cầu, gây ra hiện tượng thất nghiệp.
Thị trường tiền tệ vốn đã có rất nhiều tiến bộ nhưng vẫn còn nhiều trắc trở, như nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân rất thiếu vốn nhưng không vay được vì vướng mắc thủ tục. Trong khi đó nhiều Ngân hàng thương mại lại sảy ra tình trạng ứ đọng tiền. Thị trường chứng khoán ra đời nhưng cũng chưa được phát triển mạnh.
c. Nhiều thành pần kinh tế tham gia thị trường, do vậy nền kinh tế của nước ta có nhiều loại hình sản xuất hàng hoá cùng tồn tại, đan xen nhau, trong đó sản xuất hàng hoá nhỏ còn phân tán còn phổ biến.
d. Quản lý nhà nước về kinh tế – xã hội còn yếu kém
Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm. Công tác tàI chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hoá, quản lý đât đai còn nhiều yếu kém. Quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở, tiêu cực, gây tác động xấu tới nền kinh tế.
3. Mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
a. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu.
Đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát triển sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau. Mọi doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư kinh doanh theo các hình thức do luật định và được pháp luật bảo vệ. Mọi tổ chức kinh doanh theo các hình thức sở hữu khác nhau hoặc đan xen hỗn hợp đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác cạnh tranh bình đẳng và là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển mạnh các doanh nghiệp nhỏ và vừa, từng bước hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh.
Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất qua trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế, tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và một số cơ sở công nghiệp quan trọng. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế, đi đầu ứng dụng tiến bộ kho học và công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật.
Phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những ngành sản xuất và dịch vụ quan trọng, xây dựng các Tổng công ty nhà nước đủ mạnh để làm nòng cốt trong những tập đoàn kinh tế lớn, có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế như dầu khí, điện, than, hàng không, đường sắt, vận tải viễn dương, viễn thông, cơ khí, luyện kim, hóa chất, vật liệu xây dựng, xuất nhập khẩu, ngân hàng, bảo hiểm, kiểm toán...
Đổi mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần. Bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ trong sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật, xóa bỏ bao cấp của Nhà nước đối với doanh nghiệp.
Thực hiện chủ trường cổ phần hóa những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để huy động vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Ưu tiên cho người lao động được mua cổ phần và từng bước mở rộng bán cổ phần cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Thực hiện việc giao, bán, khoán, cho thuê các doanh nghiệp loại nhỏ mà Nhà nước không cần nắm giữ. Sáp nhập, giải thể, phá sản những doanh nghiệp không hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp trên.
Phấn đấu trong những năm tới cơ bản hoàn thành việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, củng cố và hiện đại hóa một bước các Tổng công ty nhà nước.
Phát triển kinh tế tập thể với các hình thức hợp tác đa dạng. Chuyển đổi hợp tác xã cũ theo Luật hợp tác xã đạt hiệu quả thiết thực. Phát triển hợp tác xã kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngành để sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ, tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh phù hợp với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong nông nghiệp, trên cơ sở phát huy tính tự chủ của hộ gia đình, chú trọng phát triển các hình thức hợp tác và hợp tác xã cung cấp dịch vụ, vật tư và tiêu thụ sản phẩm cho kinh tế hộ gia đình và trang trại. Mở rộng các hình thức kinh tế hỗn hợp, liên kết, liên doanh giữa hợp tác xã với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo, bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật và quản lý, mở rộng thị trường, ứng dụng công nghệ mới, phát triển vốn tập thể, giải quyết nợ tồn đọng của hợp tác xã cũ.
Kinh tế cá thể và tiểu chủ ở nông thôn và thành thị được Nhà nước tạo điều kiện để phát triển.
Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô trong những ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn mà pháp luật không cấm, khuyến khích hợp tác, liên doanh với nhau và với doanh nghiệp nhà nước, chuyển thành doanh nghiệp cổ phần và bán cổ phần cho người lao động.
Kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân trong và ngoài nước ngày càng phát triển đa dạng.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam, được khuyến khích phát triển, hướng mạnh vào sản xuất, kinh doanh hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu, hàng hóa và dịch vụ có công nghệ cao, xây dựng kết ấu hạ tầng.
b. Tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước.
Hình thành đồng bộ và tiếp tục phát triển, hoàn thiện các loại thị trường đi đôi với xây dựng khuôn khổ pháp lý về thể chế, để thị trường hoạt động năng động, có hiệu quả, có trật tự, kỷ cương trong môi trường cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Có giải pháp hữu hiệu chống buôn lậu và gian lận thương mại.
Phát triển thị trườ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35808.doc