Lời nói đầu 3
CHƯƠNG I - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN. 2
I - KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA CHỨNG KHOÁN. 2
1. Chứng khoán là gì? 2
2. Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán. 3
3. Các chức năng của thị trường chứng khoán. 3
4. Công ty đầu tư - Những tổ chức đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp 5
5. Một số quy định về Công ty chứng khoán. 7
II. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN MỘT SỐ NƯỚC. 8
1. Thị trường chứng khoán Italia 8
2. Thị trường chứng khoán Hàn Quốc 10
CHƯƠNG II - THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐỂ PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM. 13
I. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM . 13
1. Thực trạng hoạt động của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam. 13
2. Thực trạng cổ phần hoá các doanh nghiệp . 14
II. ĐIỀU KIỆN ĐỂ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM. 17
1. Thuận lợi 17
2. Khó khăn. 18
3. Ba điều kiện thiết yếu để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam. 19
III. PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM LÀ TẤT YẾU. 21
CHƯƠNG III - PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ PHÁT
TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM. 23
I. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM 23
1. Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. 25
2. Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh. 27
3. Trung tâm lưu giữ chứng khoán và thanh toán lưu trữ. 29
4. Kiểm toán độc lập. 29
5. Trung tâm phân tích chứng khoán. 30
II. CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM 31
1. Tạo chứng khoán cho thị trường chứng khoán. 31
2. Tổ chức các công ty môi giới chứng khoán. 33
3. Tăng nhu cầu chứng khoán. 33
4. Tạo lập môi trường lành mạnh cho thị trường chứng khoán. 34
Kết luận 37
Tài liệu tham khảo 38
37 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1381 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và những điều kiện để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iển thị trường vốn được ban hành. Công ty đầu tư hàn quốc được thành lập chịu trách nhiệm đối với việc phát hành chứng khoán. Nhằm thu hút sự quan tâm của công chúng vào thị trường chứng khoán, cổ tức được bảo đảm sẽ trả bằng lãi suất kỳ hạn 1 năm. Ngoài ra, các công ty niêm yết được hưởng những ưu tiên nhất định về tài chính và thuế. Bên cạnh đó luật khuyến khích phát hành công khai được ban hành năm 1972. Theo luật này, chính phủ buộc các doanh nghiệp tư nhân có khả năng phải phát hành ra công chúng và bất cứu công ty nào không phát hành công khai sẽ gặp khó khăn trong việc tìm nguồn vốn qua hệ thống ngân hàng. Kế hoạch sở hữu cổ phiếu của nhân viên cũng được đưa ra nhằm mở rộng nhu cầu về cổ phiếu. Nhờ những chính sách này mà thị trường chứng khoán đã được mở rộng rất nhanh trong giai đoạn này.
2.3. Giai đoạn củng cố hệ thống (1977-1985)
Uỷ ban chứng khoán và sở giao dịch chứng khoán cùng với ban giám sát chứng khoán được thành lập nhằm quản lý và giám sát thị trường một cách có hiệu quả. Sự công bằng trong giao dịch được củng cố bằng việc đưa vào thực hiện quy chế chống lại các giao dịch tay trong quyền quản lý của các cổ đông gốc nắm đa số cổ phiếu trong công ty được bảo vệ ở nhiều cấp độ bằng một số quy định về đấu thầu và không được mua nhiều hơn 10% cổ phiếu có quyền bỏ phiếu, nếu không có sự đồng ý trước của uỷ ban. Mạng lưới công khai thông tin công ty được kiểm tra lại toàn bộ. Uỷ ban chứng khoán và giao dịch chứng khoán, ban giám sát chứng khoán có thể kiểm soát tài chính và hoạt động của các công ty niêm yết khi cần phải bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư. Với những sửa đổi trên, thị trường chứng khoán Hàn quốc trở nên công bằng hơn với hệ thống quản lý và định chế thị trường có nhiều ưu điểm.
2.4. Giai đoạn đại chứng hoá và quốc tế hoá (1986 đến nay)
Từ năm 1986, kinh tế Hàn quốc đã tăng trưởng nhanh trong bối cảnh '' 3 thấp'': lạm phát thấp, giá dầu thấp, lãi suất thấp và đã trải qua thời kỳ đen tối của cán cân thanh toán.
Dựa trên cơ sở kinh tế tăng trưởng, nhu cầu về tài chính trực tiếp của các công ty và cả nhu cầu về đầu tư chứng khoán của công chungs đều tăng lên. Bởi vậy thị trường chứng khoán có cơ hội mở rộng cả về cung lẫn cầu. Chỉ số cổ phiếu kết hợp mới chỉ đạt 180 vào cuối năm 1985 đã tăng lên trên 1000 vào tháng năm 1989 khối lượng giao dịch trung bình hàng ngày đã tăng từ 20 triệu USD năm 1985 lên 320 triệu USD năm 1989. Những đợt tăng giá cổ phiếu đã mang lại nhiều lợi nhuận cho cả các công ty dự định phát hành chứng khoán lẫn những người đầu tư chứng khoán: Nhiều công ty tư nhân đã tranh nhau phát hành công cộng vào cuối những năm 80 số lượng các công ty niêm yết đã tăng từ 342 công ty năm 1985 lên 690 công ty năm 1989. Cùng thời gian này, số lượng vốn huy động được thông qua thị trường chứng khoán trong năm 1989 đã đạt 26.000 tỷ USD trong khi năm 1985 con số này chỉ đạt 4tỷ USD và vượt xa số vốn huy động thông qua tài chính gián tiếp. Điều này cho thấy đã có sự chuyển đổi về hình thức huy động vốn của công ty từ tài chính gián teps sang tài chính trực tiếp.
Với chính sách đại chúng hoá thị trường chứng khoán . số lượng những người đầu tư trên thị trường chứng khoán đã tăng lên rất nhanh . Các công ty chứng khoán này đèu được hiện đại hoá thông qua việc mở rộng vốn cổ phiếu và tự động hoá hoạt động của mình.
Chương II
Thực trạng và những điều kiện để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt nam.
I. Thực trạng hoạt động kinh tế ở Việt nam .
1. Thực trạng hoạt động của ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam.
Bước vào năm 1998 trong yêu cầu đòi hỏi của nền kinh tế đất nước tiếp tục tăng trưởng , trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng quyết liệt của hoạt động ngân hàng và ảnh hưởng tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực; toàn hệ thống ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam tiếp tục phát huy nội lực, với truyền thống thống nhất ý chí hành động, sự nỗ lực vượt bậc, sự điều hành kiên quyết và tập trung của lãnh đạo các cấp đã vượt qua khó khăn, thử thách đạt được những kết quả đáng khích lệ.
Đến hết quý I/1998, tăng trưởng nguồn vốn đạt 21.000 tỷ đồng, tiền gửi dân cư tăng 9% so với mỗi năm 1997 . Đặc biệt ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam phát hành trái phiếu, từ ngày 20-5-1998, chỉ trong thời gian 20 ngày đã huy động tổng mức 1000 tỷ đồng gồm cả vốn Việt nam đồng và ngoại tệ. Nguồn vốn huy động đã sẵn sàng giải ngân chỉ tiêu kế hoạch tín dụng nhà nước giao năm 1998 với mức vốn 4000 tỷ đồng, trong đó cho các dự án trọng điểm như thuỷ điện Yaly 750 tỷ đồng; tầu chở dầu thô 23,5 triệu USD, xi măng Bát sơn, Bưu chính viễn thông và các dự án chuyển tiếp khác. Trả nợ nước ngoài đúng hẹn đạt 22 triệu USD, cùng kỳ năm 1997 ; dư nợ tín dụng đầu tư phát triển tăng 6,7%; cải tiến công tác thanh toán tập trung, nâng cao khả năng thanh toán nhanh trong toàn hệ thống; thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của nhà nước, của thống đốc ngân hàng nhà nước về an toàn hoạt động ngân hàng, về an toàn tín dụng, tăng dự trữ buộc đảm bảo nhu cầu chỉ tiêu của khách hàng; kinh doanh ngoại hối quản lý ngoại tệ theo đúng các quy định của chính phủ và của ngân hàng nhà nước; tỷ lệ nợ quá hạn thấp, kết quả kinh doanh lãi đạt 305 kế hoạch và nộp đầy đủ nghĩa vụ ngân sách nhà nước.
Về tổ chức bộ máy ngân hàng đầu tư và phát triển , Việt nam đã xây dựng được một hệ thống 65 chi nhánh tỉnh, thành phố trong cả nước, có mô hình tổ chức gọn nhẹ phù hợp với đặc điểm đầu tư phát triển và phù hợp với đặc thù trên từng địa bàn lãnh thổ, đội ngũ cán bộ ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam được tăng cường về số lượng và chất lượng , cán bộ có trình độ đại học và trên đại học chiếm 52,6% so với tổng số cán bộ, xây dựng ý thức hết mình vì sự nghiệp chung, đoàn kết trên dưới vì sự nghiệp của ngành, phối hợp tốt mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể quần chúng, phát huy sức mạnh nội lực sáng tạo của quần chúng hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao, thường xuyên đào tạo bồi dưỡng trau dồi phẩm chất đạo đức, nâng cao năng lực quản trị điều hành cho lãnh đạo các cấp, nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ nghiệp vụ, chăm lo đời sống vật chất tinh thần của cán bộ công nhân viên ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam.
Đã mở rộng và phát triển quan hệ quốc tế một cách nhanh chóng và hoạt động có hiệu quả với gần 500 ngân hàng đại lý, 65 ngân hàng có quan hệ giao dịch thanh toán, quan hệ tín dụng, hợp tác đào tạo cán bộ . Do mở rộng quan hệ quốc tế đã khai thác được việc đào tạo cán bộ, tiếp cận với công nghệ ngân hàng hiện đại, khai thác được nhiều khoản vay, thực hiện một khối lượng thanh toán hàng năm 400 triệu USD.
Trong quá trình đổi mới và phát triển . Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam luôn lấy phương châm hiệu quả sản xuất kinh doanh của khách hàng là mucj tiêu trên cơ sở phục vụ đầu tư phát triển , tăng trưởng kinh tế mà không ngừng tăng doanh lợi của ngân hàng, góp phần ổn định tiền tệ và kiềm chế lạm phát. coi việc chăm lo nguồn lực con người là động lực của sự phát triển , coi quản trị điều hành là khâu quyết định sự thành đạt trong kinh doanh, coi hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, mở rộng quan hệ đối ngoại tăng cường kiểm tra kiểm soát là những công cụ quan trọng quyết định chất lượng, hiệu quả và an toàn trong kinh doanh, quyết định năng lực và điều kiện hội nhập.
2. Thực trạng cổ phần hoá các doanh nghiệp .
Tính từ năm 1991 cho đến cuối năm 1997 mới cổ phần hoá được 18 doanh nghiệp nhà nước với tổng số vốn là 121.348 triệu đồng gồm; phân theo ngành.
Bảng số 2: Danh sách các doanh nghiệp Nhà nước chuyển sang công ty cổ phần
Ngành giao thông vận tải
4 doanh nghiệp
Ngành công nghiệp
7 doanh nghiệp
Ngành xây dựng
1 doanh nghiệp
Ngành chế biến nông lâm,thuỷ sản
3 doanh nghiệp
Ngành dịch vụ
3 doanh nghiệp
Phân theo lãnh thổ
Thành phố Hồ chí Minh
10 doanh nghiệp
Thành phố Hà nội
1 doanh nghiệp
Thành phố Hải phòng
1 doanh nghiệp
Tỉnh Long An
1 doanh nghiệp
Tỉnh ninh Bình
1 doanh nghiệp
Tỉnh Bình định
1 doanh nghiệp
Tỉnh cà Mau
1 doanh nghiệp
Thành phố Đà nẵng
1 doanh nghiệp
Tỉnh An Giang
1 doanh nghiệp
Nguồn: Báo cáo của ban cổ phần hoá, Bộ tài chính
Trong số 18 doanh nghiệp nói trên có 1 doanh nghiệp nhà nước bán toàn bộ cho công nhân viên trong doanh nghiệp mà không giữ lại cổ phần nào, số còn lại nhà nước nắm giữ ít nhất là 18 %, cao nhất là 51% cổ phần của công ty (bình quân của 18 doanh nghiệp là 34,2%) còn lại do cán bộ công nhân viên trong công ty và các thành phần kinh tế khác ngoài xã hội nắm giữ.
Trong số 18 doanh nghiệp nhà nước đã chuyển thành công ty cổ phần hiện nay có 11 doanh nghiệp hoạt động từ 1 năm trở lên, trong đó có 2 doanh nghiệp trước khi chọn làm thí điểm cổ phần hoá có những điều kiện thuận lợi, hoạt động có lãi cao là công ty cổ phần cơ điện lạnh, công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển. Nhiều doanh nghiệp trước khi cổ phần hoá kinh doanh kém hiệu quả, lợi nhuận thấp vốn giảm dần như xí nghiệp VIFOCO, xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu Long an, xí nghiệp sửa chữa và đóng mới tầu thuyền Bình định. Từ khi chuyển sang hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần thì sản xuất kinh doanh phát triển , có tiến bộ về mọi mặt, nhà nước và doanh nghiệp người lao động đều có lợi. Cụ thể:
Đối với các doanh nghiệp (số liệu của 18 doanh nghiệp)
Bảng 3 : Mức tăng bình quân của chỉ tiêu
Vốn tăng bình quân
45% năm
Doanh thu tăng bình quân
56,9% năm
Lợi nhuận tăng bình quân
70,2% năm
Nộp ngân sách tăng bình quân
98% năm
Thu nhập của người lao động
20% năm
Tăng bình quân
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu
19,1% năm
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn
74,6% năm
(Nguồn: báo cáo của ban cổ phần hoá - Bộ tài chính )
- Đối với nhà nước:
Do sản xuất phát triển , doanh thu tăng, lợi nhuận tăng nên tiền thuế của các công ty cổ phần nộp cao hơn khi còn là doanh nghiệp nhà nước . Ngoài ra, nhà nước còn thu được 37.724 triệu đồng từ các nguồn sau:
Tiền thu về bán cổ phần 30.207 triệu đồng
Phần lợi tức của nhà nước
từ các công ty cổ phần 6.995 triệu đồng
Lãi tiền vay mua chịu cổ phần của CBCNV 522 triệu đồng
Đấy là còn chưa kể số tiền cán bộ công nhân viên trong các công ty cổ phần mua chịu cổ phiếu là 14,749 triệu đồng sau 5 nămg phải trả nhà nước.
- Đối với người lao động và xã hội:
Thu nhập của người lao động cao hơn khi còn là quốc doanh từ 1,5 đến 2 lần chưa kể nguồn thu từ lợi tức cổ phần khoảng 22-24%/năm. Ngoài số lao động cũ, các công ty đã thu hút thêm hơn 1000 lao động ngoài xã hội vào làm việc. Do hoạt động của các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá có hiệu quả nên lợi tức của các cổ đông thường cao hơn lãi suất gửi tiền tiết kiệm, đồng thời tốc độ tích luỹ vốn của doanh nghiệp cũng khá nhanh, giá trị cổ phiếu thường tăng từ 1,5 đến 2 lần (sau 1 đến 2 năm hoạt động). Chẳng hạn như: công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận chuyển , sau 4 năm hoạt động giá trị cổ phiếu đã tăng 7 lần, còn công ty cơ điện lạnh cũng trong thời kỳ như vậy giá trị cổ phiếu tăng hơn 6 lần.
Mặc dù cho đến nay số doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện cổ phần hoá còn ít và đang trong ở trong giai đoạn thí điểm, thời gian hoạt động chưa dài, song cũng nhận thấy.
+ Các doanh nghiệp cổ phần hoá do huy động thêm được vốn để đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ siêu năng lực sản xuất kinh doanh, năng suất hiệu quả lợi nhuận cao hơn trước
Quyền lợi của người lao động trong công ty đồng thời là các cổ đông gắn với quyền lợi của công ty. Người lao động một mặt làm việc với tinh thần trách nhiệm cao vì quyền lợi của mình, mặt khác cũng yêu cầu hội đồng quản trị, giám đốc điều hành phải chỉ đạo công ty hoạt động có hiệu quả để có lợi nhuận cao hơn.
+ Phương pháp quản lý điều hành của doanh nghiệp thay đổi từ việc giám đốc doanh nghiệp nhà nước do cấp trên chỉ định sang hình thức cổ đông bầu hội đồng quản trị, ban kiểm soát và ban giám đốc.
II. Điều kiện để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt nam.
1. Thuận lợi
Hiện nay, chính phủ đã có chủ trương xây dựng trung tâm giao dịch chứng khoán và giao cho Uỷ ban chứng khoán nhà nước xúc tiến song vẫn đang còn nhiều tranh cãi xoay quanh vấn đề này. Nhiều chuyên gia nghi ngờ tính khả thi của trung tâm giao dịch chứng khoán ra đời trong giai đoạn này. Nếu vậy thì thời điểm nào là tốt nhất ? cũng chưa trả lời được sang ngồi chờ thì càng không. Vậy có nên vừa làm vừa điều chỉnh bổ sung hoàn chỉnh được chăng? có thể nhìn nhận về những thuận lợi mà Việt nam có được hiện nay đối với vấn đề này.
Nền kinh tế nước ta đã ra khỏi khủng hoảng với mức tăng trưởng cao và liên tục trong một vài năm gần đây. Yếu tố này đã kích thích sự tăng lên về nhu cầu vốn đầu tư, nhất là đầu tư dài hạn. Bên cạnh đó, với những chính sách phù hợp , chúng ta đã kìm hãm được lạm phát và giữ ở mức độ cho phép trên cơ sở ổn định giá trị đồng tiền nội tệ và tỷ giá hối đoái cũng như kiểm soát được cán cân thanh toán quốc tế. Nhờ vậy, người đầu tư có thể yên tâm để đầu tư vào các mục đích sinh lời khác nhau, trong đó có các chứng khoán mua bán trên thị trường . Mặt khác trước khi hình thành thị trường chứng khoán hoàn chỉnh ở Việt nam, chúng ta đã có một số công cụ tài chính ngắn hạn như tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng và các thị trường vốn ngắn hạn khác. Sự hoạt động thường xuyên, ổn định của thị trường vốn ngắn hạn này sẽ có ý nghĩa rất quan trọng đối với thị trường vốn dài hạn, chúng ta cũng đã có những công cụ của thị trường vốn dài hạn, tuy sự phát triển của nó chưa cao như các loại trái phiếu chính phủ, trái phiếu công trình, trái phiếu ngân hàng và một số trái phiếu của các công ty cổ phần và của các doanh nghiệp nhà nước đã cổ phần hoá toàn bộ hoặc một phần. Một yếu tố không kém phần quan trọng trong quá trình hình thành thị trường chứng khoán ở Việt nam là sự giúp đỡ của một số nước, một số tổ chức quốc tế , các công ty chứng khoán nước ngoài đã có thị trường chứng khoán lâu năm quan tâm giúp đỡ chúng ta về nhiều mặt . Việc hình thành và ra mắt cơ quan quản lý. điều hành thị trường chứng khoán vào tháng 8/1997 vừa qua đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử hình thành thị trường chứng khoán ở Việt nam.
Về cơ cấu vốn cho vay đã có sự thay đổi tích cực, Tỷ trọng vốn cho vay trung và dài hạn, và cho vay khu vực kinh tế tư nhân tuy còn rất nhỏ nhưng xu hướng ngày càng gia tăng. Hiệu quả tín dụng đã được nâng lên rõ rệt , tình trạng nợ quá hạn đã giảm đáng kể. Những năm từ 1993 về trước nợ quá hạn thường từ 15-20 % trong tổng dư nợ, mấy năm gần đây con số đó không quá 10% .
2. Khó khăn.
Hoạt động của các ngân hàng và công ty tài chính Việt nam hiện vẫn còn những tồn tại khá lớn đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự hình thành và phát triển một thị trường tài chính nói chung và thị trường vốn nói riêng.
Số lượng ngân hàng đã khá nhiều nhưng vốn của mỗi ngân hàng quá thấp. Các ngân hàng quốc doanh có số vốn khá lớn (1000-3000 tỷ đồng) . một vài ngân hàng cổ phần có vốn điều lệ trên 200 tỷ. Còn lại hầu hết các ngân
hàng khác từ 70-100 tỷ. Thậm chí có ngân hàng chỉ có từ 10 đến 50 tỷ. Vơí số vốn pháp định quá nhỏ như vậy, các ngân hàng không thể đa năng hoá nghiệp vụ và cũng không thể thực hiện tín dụng đầu tư một cách an toàn.
Những thuận lợi thì đã có nhưng khó khăn vẫn còn nhiều và đây cũng chính là những nguyên nhân làm chậm lại quá trình hình thành thị trường chứng khoán ở Việt nam. Khó khăn thứ nhất là thu nhập người dân còn thấp, tỷ lệ giữa tiết kiệm và tiêu dùng còn quá chênh lệch. Tư tưởng “làm đồng nào xào đồng ấy” đang còn rất phổ biến trong dân và ngay trong cả một số doanh nghiệp trong khi tình hình lạm phát còn chưa ổn định và chứa đựng nhiều tiềm ẩn. Hệ thống pháp lý về thị trường chứng khoán cho đến nay vẫn chưa được hoàn chỉnh. Một số văn bản pháp quy, các luật có liên quan, chi phối hoạt động hoặc có ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán đã ban hành nhưng trong phần nội dung còn nhiều bất cập, mâu thuẫn với hệ thống pháp lý về thị trường chứng khoán. Luật về thị trường chứng khoán vẫn còn dự thảo. Tình hình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước rất chậm chạp, cầm chừng, số lượng đã cổ phần không đáng kể so với yêu cầu đề ra. Các công ty cổ phần đã được thành lập còn quá ít và phần lớn có vốn rất nhỏ, chưa đủ mạnh để tạo ra các hàng hoá cần thiết, tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức và các Công ty chứng khoán có uy tín hàng đầu thế giới, chúng ta đã ban hành được 02 văn bản pháp quy quan trọng là Nghị định 48/1998/NĐ - CP ngày 12/7/1998 và quyết định 127/1998/QĐ - TTg ngày 11/7/1998 làm cơ sở pháp lý cho hoạt động của thị trường chứng khoán, cũng như đào tạo được nhiều cán bộ dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm phục vụ cho sự ra đời và hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam. Tuy vậy, lượng cán bộ đã được đào tạo vừa qua vẫn chưa đủ về số lượng và do chưa có thị trường chứng khoán nên chất lượng còn chưa được kiểm chứng.
3. Ba điều kiện thiết yếu để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
ở Trung Quốc, thị trường chứng khoán Trung Quốc ra đời năm 1992 trên cơ sở 5 điều kiện chủ lực. Đó là:
- Thị trường chứng khoán phi tập trung phải hoạt động sôi động. Đây là điều kiện về mặt kinh tế vô cùng quan trọng, là tiền đề cho sự hình thành, hoạt động và phát triển thị trường chứng khoán.
- ổn định chính trị trong nước để kích thích đầu tư phát triển.
- ổn định trật tự xã hội và an ninh quốc phòng.
Đây là cơ sở tâm lý cho mọi cá nhân, tổ chức tham gia hoạt động của thị trường chứng khoán.
- Thiết lập hành lang luật pháp. Đây là điều kiện đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động theo đúng hướng tích cực của nó; hạn chế các diễn biến phức tạp khác phát sinh.
- Phát triển hệ thống thông tin tin học.
Trung Quốc là vậy, còn Việt Nam thì sao? Nhiều ý kiến cho rằng Việt nam phát triển thị trường chứng khoán phải có 7 điều kiện. Vậy Việt nam đã đủ 7 điều kiện đấy chưa, có nên chăng là phải chờ đợi đến lúc đủ các điều kiện này mới phát triển thị trường chứng khoán hay chăng vừa thực hiện xây dựng thị trường chứng khoán vừa tạo điều kiện cho đủ để rút ngắn thời gian phải chờ đợi. Có thể đưa ra 3 điều kiện phải thực hiện để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam là:
3.1. Chuẩn bị điều kiện vật chất tiền đề.
Trung tâm giao dịch chứng khoán hoạt động như một sở giao dịch chứng khoán thu nhỏ, có quy mô và hình thức thích hợp với giai đoạn phát triển ban đầu của thị trường chứng khoán ở nước ta. Hệ thống giao dịch chứng khoán sẽ được tự động hoá với các trạm làm việc được kết nối bởi các máy tính cá nhân với một số máy chủ thông qua mạng giao diện cục bộ liên kết với các máy tính của các thành viên trung tâm.
3.2. Khuôn khổ pháp lý ban đầu cho thị trường chứng khoán.
Bước đầu việc ra đời một tổ chức Nhà nước - Uỷ ban chứng khoán quốc gia là một việc làm cần thiết. Tổ chức này trực thuộc Chính phủ, có chức năng quản lý các mặt hoạt động liên quan đến phát hành chứng khoán và kinh doanh chứng khoán trong giai đoạn đầu của tiến trình hình thành thị trường chứng khoán, Uỷ ban chứng khoán quốc gia sẽ là tổ chức Nhà nước chịu trách nhiệm soạn thảo các văn bản pháp quy liên quan đến chứng khoán và thị trường chứng khoán để trình Chính phủ phê duyệt. Bên cạnh yếu tố quản lý Nhà nước, vấn đề môi trường pháp lý cho sự ra đời và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam cần được xác lập dựa trên cơ sở nền tảng pháp lý sẵn có của các mối quan hệ kinh tế - xã hội. Từ đó đi sâu vào chi tiết hoá các mối quan hệ kinh tế - xã hội. Từ đó đi sâu vào chi tiết hoá các mối quan hệ trên thị trường chứng khoán, biểu hiện bằng những văn bản luật pháp cụ thể về phát hành chứng khoán, giao dịch chứng khoán, tác nhân tham gia và vận hành từng cơ sở giao dịch. Hệ thống các văn bản pháp quy này được hoàn thiện trên cơ sở sự đồng bộ của các bộ luật liên quan hiện có và những bộ luật cần phải có trong quá trình phát triển như luật thương mại, luật kinh doanh...
3.3. Chuẩn bị về con người:
Đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý, kinh doanh cho các nhà điều hành thị trường, các nhà môi giới chứng khoán và thương gia chứng khoán là việc làm hết sức cần kíp trong giai đoạn đầu. Tạo điều kiện để nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước trong công tác điều hành thị trường cũng như việc nâng cao năng lực pháp lý và năng lực hành vi cho các chủ thể tham gia. Bảo đảm sự thành công và hạn chế đến mức thấp nhất những rủi ro trong quá trình vận hành và phát triển thị trường chứng khoán.
III. Phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam là tất yếu.
Tình hình triển khai chương trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước cần được trợ lực và Nhà nước huy động vốn vào phát triển nền kinh tế, trong khi các điều kiện cho việc hình thành sở giao dịch chứng khoán chưa được chín muồi, thì việc hình thành trung tâm giao dịch chứng khoán là một giải pháp cấp bách trước mắt, không những tạo tiền đề cho việc huy động vốn, thúc đẩy tiến trình đổi mới doanh nghiệp mà còn tạo bước đệm cho việc hình thành sở giao dịch chứng khoán Việt Nam. Bài học kinh nghiệm của các nước trong khu vực như Trung Quốc hoặc các nước ngoài khu vực như Quy bec (Canada) thành lập trung tâm giao dịch chứng khoán trước khi hội đủ các điều kiện để tiến tới thành lập sở giao dịch chứng khoán, cho thấy sự kế thừa của Việt Nam là một bước đi đúng đắn.
Trong thời gian đầu của thị trường chứng khoán Việt Nam, đa số các giao dịch sẽ là giao dịch về trái phiếu Công ty và trái phiếu chính phủ. Tuy nhiên, các Công ty phát triển hơn chắc chắn muốn bán cổ phiếu để đảm bảo tỷ lệ đầu tư giữa cho vay và vay cân bằng hơn. Những công ty cổ phần được thành lập từ quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước có uy tín sẽ là những công ty đầu tiên bán cổ phiếu ở thị trường này, sau đó sẽ là cổ phiếu của những công ty cổ phần nước ngoài đang hoạt động ở Việt Nam, có thể sử dụng một thị trường chính thức để định giá cổ phiếu và giúp bán cổ phiếu rộng rãi. Trong trường hợp chưa có đủ điều kiện thành lập sở giao dịch chứng khoán thì Nhà nước có thể cho phép thành lập một trung tâm giao dịch cổ phiếu để giúp cổ đông chuyển nhượng cổ phiếu một cách hợp pháp và công khai. Nếu không thực hiện điều này sớm thì một thị trường phi chính thức đã hình thành từ khi có luật Công ty sẽ có điều kiện mở rộng qua nhiều hình thức, đem lại nhiều tiêu cực cho công chúng và cho công tác quản lý thị trường chứng khoán sau này. Cụ thể đối với trái phiếu, về cơ bản tất cả các trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình, trái phiếu ngành có thời hạn phát hành thông qua phương thức đấu thầu hoặc thông qua tổ hợp phân phối chứng khoán và sẽ được đăng ký giao dịch trên Trung tâm. Tuy nhiên, việc phát hành các trái phiếu hiện nay có kỳ hạn và thời gian phát hành không đồng nhất, do bản thân các đơn vị tự phát hành và phát hành một cách riêng lẻ mà chưa thông qua một tổ chức bảo lãnh phát hành, nên việc đưa vào đăng ký giao dịch các trái phiếu này rất khó thực hiện. Đối với các nước, các chứng khoán này sẽ được giao dịch trên thị trường phi tập trung (OTC), còn đối với Việt Nam việc phát triển thị trường phi tập trung lúc này là rất phức tập trong khâu tổ chức, quản lý và thực sự chưa cần thiết. Tuy nhiên để tạo điều kiện cho việc lưu hành số trái phiếu này trung tâm giao dịch sẽ tổ chức thành một khu vực riêng dành cho giao dịch các trái phiếu không được phép đăng ký.
Tất cả các loại trái phiếu tham gia giao dịch trên trung tâm đều phải được tập trung đăng ký để xác nhận sở hữu chứng khoán hợp pháp. Trong thời gian đầu, khi chưa hình thành trung tâm đăng ký, thanh toán bù trừ và lưu ký chứng khoán độc lập thì bộ phận đăng ký, thanh toán bù trừ và lưu ký chứng khoán độc lập thì bộ phận đăng ký, thanh toán bù trừ và lưu giữ chứng khoán của trung tâm sẽ đảm nhận phần đăng ký, thanh toán bù trừ, bảo quản lưu giữ và làm các dịch vụ về chi trả lãi cổ tức, theo dõi chuyển quyền sở hữu chứng khoán cho các nhà đầu tư.
Chương III
Phương hướng và những giải pháp chủ yếu để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
I. Phương hướng phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam
Thị trường chứng khoán ở Việt nam là cần thiết hơn bao giờ hết đối với giai đoạn hiện nay. Thực tế cho thấy, Việt Nam đã có những điều kiện cơ bản có tính tiền đề, cơ sở hạ tầng về luật pháp cũng như tài chính cho hoạt động có hiệu quả của một thị trường chứng khoán tập trung cũng đã có, nhưng vẫn còn quá mỏng. Chính vậy, vấn đề phát triển thị trường chứng khoán đòi hỏi Việt Nam phải có một giải pháp toàn diện; phải đồng thời giải quyết tất cả các yếu tố cần thiết của một thị trường chứng khoán. Trong đó trước hết phải tổ chức được một số công ty môi giới chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư với những hoạt động môi giới mua bán và bảo lãnh phát hành chứng khoán và làm trung gian đầu tư chứng khoán cho người đầu tư; phải quan tâm đặc biệt đến việc tạo ra một khối lượng chứng khoán có chất lượng, có khả năng thu hút người mua và đơn giản trong giao dịch. Và phải tổ chức một thị trường chứng khoán bước đầu đơn giản về kỹ thuật công nghệ, nhưng phải chặt chẽ trong tổ chức và quản lý.
Có thể tổ chức một sở giao dịch chứng khoán tại thành phố Hồ Chí Minh, trong đó diễn ra đồng thời hai loại cơ cấu thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp. Giai đoạn đầu chú trọng phát triển và hoàn thiện thị trường sơ cấp nhằm thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước qu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0788.doc