Đề tài Thực trạng và thách thức của Việt Nam trong việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế

MỤC LỤC

A - PHẦN MỞ BÀI 1

I. Tình hình Việt Nam nói chung và nền kinh tế nói riêng. 1

II.Tình hình thế giới. 2

B - PHẦN THÂN BÀI 3

I. Một số vấn đề lý luận về hộinhập kinh tế quốc tế. 3

1. Nói đến kinh tế quốc tế phải đề cập đến vấn đề toàn cầu hoá. Vậy toàn cầu hoá là gì ? Nó có phải là quá trình tất yếu khách quan không ? 3

2. Chúng ta thử đi sâu phân tích cơ sở khách quan của xu thế toàn cầu hoá. 6

3. Xét vai trò của các chủ thể trong xu hướng toàn cầu hoá, ta thấy có hai vai trò chính. 8

4. Bây giờ ta xét các tác động của toàn cầu hoá đối với kinh tế - chính trị. 10

II. Thực trạng và thách thức của Việt Nam trong việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. 16

III. Một số giải pháp sau đây được coi là hữu hiệu qua thử thách trước bối cảnh thế giới của Việt Nam. 21

C. PHẦN KẾT BÀI 23

TÀI LIỆU THAM KHẢO 24

 

doc25 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1447 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và thách thức của Việt Nam trong việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ết qua nhận định của một số chuyên gia kinh tế : Toàn cầu hoá kinh tế chính là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia, khu vực, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới thống nhất. Sự gia tăng của xu thế này được thể hiện ở sự mở rộng mức độ và quy mô mậu dịch thế giới, sự lưu chuyển của các dòng vốn và lao động trên phạm vi toàn cầu. Sự thực toàn cầu hoá là hiện tượng phức tạp, chứa đựng rất nhiều mâu thuẫn trong nó. 2. Chúng ta thử đi sâu phân tích cơ sở khách quan của xu thế toàn cầu hoá. Trước hết đó là sự phát triển cao của lực lượng sản xuất : thời phong kiến lực lượng sản xuất và giao thông kém phát triển cho nên hoạt động trao đổi, sản xuất chỉ giới hạn trong phạm vi hẹp. Mác và Ăngghen viết “Đại công nghiệp đã tạo ra thị trường thế giới…” Trong thời kỳ đầu quá trình quốc tế hoá, các hoạt động kinh tế giữa các quốc gia mang nặng tính chất phụ thuộc một chiều. Các quóc gia phát triển hơn thường đàn áp các nước kém (Anh, Mỹ, Pháp…) và giành cho mìnhmột khu vực và thị trường kinh tế riêng. Tuy vậy sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất cùng với ý thức độc lập đã đưa lại sự phát triển mới của phân công lao động. Các quốc gia trước kia vốn phụ thuộc, là thuộc địa của các đế quốc, nay giành được độc lập đã tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế. Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai gắn liền với sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc là hiện tượng khoa học phát triển mạnh mẽ và ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Nó đã được nhanh chóng áp dụng vào sản xuất, thúc đẩy phân công lao động phát triển lên một bước mới. Dưới sự tác động của khoa học công nghệ các ngành kinh tế truyền thống dần những bước cho các ngành đại diện cho tiến bộ khoa học kỹ thuật : mạng máy tính quốc tế Internet, truyền hình cáp, khám phá vũ trụ,… tóm lại chính sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật đã làm phá vỡ hàng rào ngăn cản địa giới, thúc đẩy quốc tế hoá kinh tế lên một thời kỳ mới. Thứ hai là sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường : quá trình quốc tế hoá, toàn cầu hoá có sự gắn bó chặt chẽ với tiến trình phát triển kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường càng phát triển thì phân công lao động càng sâu sắc. Sự phát triển của kinh tế thị trường đã mở ra điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ của sức sản xuất, đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá. Lợi ích đem lại của kinh tế thị trường : tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và đưa lại cơ chế thống nhất cho xử lý các mối quan hệ kinh tế, đó là cơ chế thị trường. Mô hình Đức được gọi là mô hình kinh tế thị trường xã hội, của Mỹ là nền kinh tế thị trường phân tán. Nhà nước thông qua các công cụ phát triển bảo đảm cạnh tranh thị trường. Nhiều quốc gia vốn trước đây từ chối nền kinh tế thị trường đã thực hiện mở cửa cải cách. Có thể nói ngày nay nền kinh tế thế giới thống nhất ở cơ chế vận hành : cơ chế thị trường. Đây chính là cơ sở cho sự gia tăng của xu thế toàn cầu hoá kinh tế. Sự phát triển của nền kinh tế thị trường không chỉ ở sự mở rộng quy mô về không gian, về sự xâm nhập ràng buộc lẫn nhau giữa các thị trường mà còn thể hiện ở sự phát triển của thị trường tài chính gắn liền với sự xuất hiện của một loạt công cụ mới trong thanh toán giao dịch. Nhìn chung các quốc gia trên toàn thế giới ngày nay đều dựa trên cơ chế thị trường, sử dụng các phương tiện và công cụ của kinh tế thị trường trong hoạt động kinh doanh, đưa lại một không gian rộng lớn, không gian toàn cầu cho các hoạt động sản xuất và lưu chuyển các yếu tố của chính quá trình sản xuất ấy. Thứ ba là sự gia tăng của các vấn đề toàn cầu trong bối cảnh thế giới kết thúc chiến tranh lạnh, bước vào thời kỳ hoà bình, hợp tác và phát triển. Tình hình chạy đua vũ trang khốc liệt điển hình là các quốc gia với tiềm lực kinh tế mạnh : Mỹ, Nga, Pháp, Đức,… Trong suốt mấy thập kỷ chạy đua vũ trang, nhất là vũ khí hạt nhân. Các bên đều nhận thấy một cuộc chiến tranh hiện đại nổ ra sẽ không có người chiến thắng. Nhìn chung các vấn đề toàn cầu đều có quan hệ nhân quả với nhau cho nên phải có quan hệ tổng thể khi giải quyết và đòi hỏi phải có sự nỗ lực của mọi quốc gia. Các vấn đề toàn cầu là liên quan mọi quốc gia, tác động trên phạm vi thế giới. Trong bối cảnh chiến tranh lạnh thị trường thế giới bị chia cắt không cho phép các quốc gia thống nhất hành động, liên kết sức mạnh. Sự kết thúc chiến tranh lạnh, sự phân chia thế giới thành hai cực đối lập đã và đang chuyển sang trật tự theo hướng đa cực, thế giới vận động trong xu thế hoà dịu hợp tác và phát triển. Đây cũng xem là cơ sở quan trọng cho sự gia tăng mạnh mẽ xu thế quốc tế hoá lên một trình độ mới, đó là toàn cầu hoá. 3. Xét vai trò của các chủ thể trong xu hướng toàn cầu hoá, ta thấy có hai vai trò chính. Thứ nhất : là sự bành trướng của các công ty xuyên quốc gia (TNC). Sự phát triển mạnh mẽ của các Công ty xuyên quốc gia trong những thập niên qua vừa phản ánh đặc điểm của quá trình toàn cầu hoá, vừa là nhân tố thúc đẩy quá trình quốc tế hoá gia tăng mạnh mẽ lên một bước mới toàn cầu hoá. Quá trình phát triển mạnh mẽ của sản xuất trong CNTB tất yếu dẫn đến sự tập trung sản xuất và dẫn đến độc quyền. Nếu vào cuối những năm 60 có khoảng 7000 Công ty xuyên quốc gia, thì đến những năm 80 có khoảng 20 nghìn. Với một mạng lưới rộng khắp đối với Việt Nam ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị đã ban hành nghị quyết về hội nhập kinh tế quốc tế. Mục tiêu của hội nhập là mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ,… để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN. Quán triệt chủ trương được xác định tại Đại hội IX, hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, đề ra kế hoạch và lộ trình hợp lý và kết hợp chặt chẽ quá trình họi nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh quốc phòng. Có như vậy chính phủ và toàn dân ta mới có điều kiện tiếp cận với hình thức độc quyền, đối phó với sự bành trướng của nó. Việc gia tăng các hoạt động TNC ở các quốc gia đang phát triển còn đóng góp quan trọng vào việc đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao trình độ quản lý và chuyển giao các công nghệ hiện đại. Đây là những mặt rấ quan trọng để các quốc gia đang phát triển nâng cao trình độ phát triển của mình từng bước rút ngắn khoảng cách phát triển. Các TNC đã dựa vào vốn, kỹ thuật, nguồn thông tin để thiết lập các chi nhánh khác nhau ở các nơi có điều kiện thuận lợi nhất cho việc sản xuất gia công, lắp ráp. Sự phát triển và xâm nhập ngày càngmạnh mẽ của các Công ty xuyên quốc gia vào các nền kinh tế dân tộc đã góp phàan xoá bỏ sự ngăn cách, biệt lập trong phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. Các quốc gia dân tộc từng bước tham gia, thích ứng với các chuẩn mực của nền kinh tế quốc tế, đồng thời nó cũng đem lại nét mới từ những bản sắc riêng của các quốc gia bổ sung vào nền kinh tế toàn cầu, làm gia tăng tính đa dạng của nó. Thứ hai, là vai trò cua các định chế kinh tế toàn cầu và khu vực. Các định chế kinh tế toàn cầu ra đời nhằm đáp ứng đòi hỏi của xu thế quốc tế hoá, toàn cầu hoá kinh tế. Trong các tổ chức kinh tế - thương mại - tài chính toàn cầu và khu vực có ảnh hưởng lớn tới quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá về kinh tế : WTO, IMF, WB, liên hợp quốc, các tổ chức khu vực : EU, ASEAN… Ngoài những lý do chủ yếu đã nêu thúc đẩy mạnh mẽ quá trình toàn cầu hoá trong những thập kỷ gần đây, chúng ta có thể kể một số lý do khác : sự phát triển về dân chủ, về văn hoá… 4. Bây giờ ta xét các tác động của toàn cầu hoá đối với kinh tế - chính trị. Trên phương diện kinh tế nó đóng góp to lớn cho sự phát triển kinh tế thế giới. Thực chất của những tác động được biểu hiện trên một số điểm : Thứ nhất toàn cầu hoá kinh tế thúc đẩy rất nhanh, mạnh sự phát triển và xã hội hoá lực lượng sản xuất, đưa tốc độ tăng trưởng của thế giới lên mức cao. Toàn cầu hoá kinh tế góp phần làm chuyển biến cơ cấu kinh tế thế giới, đặc biệt làm tăng mạnh tỷ trọng hàng chế tạo, dịch vụ. Thứ hai dưới tác động của toàn cầu hoá, các thị trường thế giới từng bước được thống nhất và ngày càng phát triển. Với xu thế đó nó sẽ tạo nên một sự loại bỏ các rào cản và có sự điều chỉnh trong sự vận hành. Khi thị trường thế giới thống nhất và phát triển thì các rào cản thương mại sẽ từng bước bị loại bỏ, một trong những thành công của phương diện này là sự ra đời của các hiệp định buôn bán thông thường (hiệp định thương mại ký kết giữa Việt Nam - Mỹ là một điển hình trong quan hệ buôn bán song phương). Trong Hội nghị tổ chức thương mại thế giới, thương mại, dịch vụ là một trong ba đề tài lớn. Trên phương diện chính trị, nguy cơ can thiệp nội bộ, trong đó can thiệp chính trị được thấy rất rõ (Mỹ can thiệp vào Nam Tư là một ví dụ điển hình trong thập kỷ 90 vừa qua). Sự can thiệp này được tổ chức rất quy củ theo những điều kiện ràng buộc, đặc biệt của các nước có tiềm lực kinh tế lớn (Mỹ, Pháp,…) và các tập đoàn xuyên quốc gia. Về cơ bản có hai hình thức can thiệp chính trị thường thấy trong quá trình toàn cầu hoá : Thứ nhất, mượn chiêu bài duy trì chuẩn mực và quy tắc quốc tế để can thiệp vào công việc nội chính và ngoaị giao của nước khác. Thứ hai, lấy lý do bảo vệ an ninh quốc tế và thực thi chủ nghĩa nhân đạo để thực hiện can thiệp xuyên quốc gia đối với các nước khác, bất chấp cả việc có vi phạm chuẩn mực và nguyên tắc quốc tế hiện hành hay không ? Thực chất, can thiệp chính trị trong quá trình toàn cầu hoá là hành vi phản ánh rõ nét đặc trưng của lợi ích nước lớn (tính cường quốc, bá chủ). Mượn danh nghĩa là người nắm vai trò chủ đạo trong tiến trình phát triển toàn cầu hoá, các nước lớn, tập đoàn kinh tế mạnh đã dựa vào ưu thế kinh tế, chính trị va sức mạnh quân sự của mình để thực hiện lợi ích bản thân”. Biểu hiện cụ thể của toàn cầu hoá kinh tế đối với chính trị gồm nhiều mặt : cán cân sức mạnh của các nước lớn, các tập đoàn kinh tế mạnh sẽ quyết định cục diện chính trị toàn cầu hoá. Bởi họ dựa vào sức mạnh của họ mà chi phối phần lớn thị trường thế giới, nắm vị trí chủ chốt trong sản xuất kinh doanh (phân phối, giao lưu,…). Hai đại diện lớn Mỹ và phương Tây luôn hô hào toàn cầu hoá, thông thoáng thị trường thế giới song Mỹ và một số nước khác lại lôi kéo, đồng loã các nước khác rong việc sử dụng các chính sách và vũ khí kinh tế (cấm vận,…). Ví dụ, có 75 nước dân số chiếm 52% dân số thế giới chịu sự cấm vận của Mỹ. Do đó nhiều nhà nghiên cứu về vũ khí kinh tế rút ra kết luận “Kinh tế là một công cụ bạo lực” Quá trình quốc tế hoá mà đỉnh cao là TCH kinh tế, vậy thì các đặc trưng cơ bản của nó là gì ? Có 6 đặc trưng cơ bản, đặc trưng thứ nhất là giai đoạn phát triển cao của quốc tế hoá kinh tế. Hiện nay ta thấy CNTB đã tạo ra sự phát triển sản xuất mà chưa nền văn minh nào trước đó đạt được. Các cuộc chiến tranh giành giật thị trường không ngừng bùng nổ : Anh mạnh trong kinh tế hàng hải, … Vào thế kỷ XIX đế quốc Anh có sự phát triển mạnh, khống chế gần như toàn bộ thế giới. Vào nửa sau thế kỷ XIX, mậu dịch giữa các nước trở thành một hệ thống nhất. Từ nửa sau thế kỷ XIX cho đến nay quá trình quốc tế hoá đã trải qua ba thời kỳ : Làn sóng đầu tiên diễn ra trong khoảng 50 năm trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Trong thời kỳ này, những sự trao đổi quốc tế và liên lục địa đã phát triển nhanh hơn cả sự sản xuất trên toàn thế giới, những dòng tài chính tăng lên nhanh hơn nhiều trên quy mô thế giới so với sự tăng trưởng của việc trao đổi và sự sản xuất trên toàn thế giới. Làn sóng thứ hai của quốc tế hoá diễn ra vào những năm 50,60 và 70 của thế kỷ XX. ở giai đoạn này đã có một sự tăng trưởng về trao đổi quốc tế lớn hơn nhiều so với sản xuất trên thế giới, đã có sự bùng nổ thực sự những dòng tài chính trên phạm vi toàn cầu, đã có sự bùng nổ hoạt động của các Công ty quốc gia. Làn sóng thứ ba bắt đầu từ cuối những năm 80 trở đi và lúc này thuật ngữ TCH được sử dụng phổ biến. Đặc trưng thứ hai là trong thời kỳ TCH kinh tế hiện nay hội nhập kinh tế quốc tế gắn liền với tự do hoá các hoạt động kinh tế. Trước đây giai đoạn quốc tế hoá chỉ là sự bành trướng kinh tế ra khỏi khuôn khổ biên giới, không gắn với việc tự do hoá. Ví như Nhật Bản mãi tới nửa sau của thập kỷ 70 Nhật mới hoàn thành quá trình tự do hoá thị trường vốn và thị trường gạo (vì sau chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật mới khôi phcụ kinh tế và tiến tới bành trướng). Sự tách rời giữa tự do hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là đặc điểm của giai đoạn quốc tế hoá trước đây. Trong giai đoạn mới, TCH, việc hội nhập quốc tế gắn liền với quá trình tự do hoá. Không hể hội nhập quốc tế mà không có tự do hoá nền kinh tế dân tộc. Đây là điểm mới của quá trình TCH. Quá trình TCH gắn với phân công lao động quốc tế làm cho quá trình TCH gắn bó chặt chẽ với nhau. Điều này cho thấy không thể có hội nhập mà lại không có tự do hoá và ngược lại, hai mặt này của quá trình TCH thống nhất gắn bó chặt chẽ với nhau. Thử tìm hiểu Hàn Quốc, Quốc gia này chính thức bắt đầu hội nhập vào nền kinh tế quốc tế từ đầu thập kỷ 60. Vào cuối thế kỷ XIX, Hàn Quốc đứng trước yêu cầu phải cải cách, chấm dứt sự cô lập..Trong lĩnh vực thương mại, đầu những năm 60 Chính phủ Hàn Quốc đã có cải cách theo hướng hoà nhập vào nền thương mại quốc tée. Nhìn chung cho đến nay Hàn Quốc đã đạt tỷ lệ tự do hoá nhập khẩu 99,9% theo kế hoạch đến 1/2001, Hàn Quốc sẽ tự do hoá 100%. Văn hoá và tư cách tư duy phải được TCH. Người Hàn Quốc phải phát huy sự phong phú vốn có của nền văn hoá truyền thống của mình. Ngoài ra chúng ta có thể tham khảo thêm nền kinh tế Trung Quốc. Đối với các quốc gia này thay vì hội nhập một cách triệt để và toàn diện với nền kinh tế thế giơí, họ chỉ hội nhập có mức độ và theo những hướng nhất định có lợi cho sự phát triển của nền kinh tế trong suốt tiến trình công nghiệp hoá. Đó chính là kiểu hội nhập có tính chiến lược và trong quá trình này vai trò của nhà nước được chú trọng với tư cách là người điều tiết nhịp độ hội nhập. Đặc trưng thứ ba là TCH kinh tế là xu thế khách quan nhưng đang chịu tác động lớn từ Mỹ và một số nước tư bản phát triển. Quá trình TCH gắn liền với sự phát triển của CNTB. Họ lợi dụng những thành tựu của khoa học – kỹ thuật tạo ra sự phát triển sản xuất mạnh mẽ. Với mục tiêu lợi nhuận các tổ chức độc quyền cạnh tranh với nhau gay gắt. Kết quả là hình thành những liên minh độc quyền không chỉ trong phạm vi quốc gia mà cả trên phạm vi quốc tế (Sự hình thành các tập đoàn độc quyền, bọn đầu sỏ tài chính). Với sự thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga và tiếp sau đó là sự ra đời của các quốc gia XHCN đã thu hẹp phạm vi thống trị và chi phối của CNTB. Vì lý do chính trị, nhiều nước TBCN đã sử dụng các biện pháp hạn chế quan hệ với các nước XHCN (như ở Việt Nam ta trước đây đã từng bị cấm vận bởi Mỹ gây thiệt hại về kinh tế rất nhiều ). Cấu trúc mô hình XHCN bị sụp đổ (điển hình là sự tan rã của Liên Bang Nga, các quốc gia còn lại đang đẩy mạnh quá trình đổi mới, cải cách nhằm tìm ra phương thức mới xây dựng CNXH. Các nước TBCN tìm mọi cách trong quá trình TCH để loại bỏ các nước XHCN. Rõ ràng là xét về lôgic và lịch sử toàn cầu hoà là một xu thế tất yếu, là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất, của kinh tế thị trường song cũng cần thấy toàn cầu hoá kinh tế hiện nay không phải không có tính chất chính trị do việc tham gia vào toàn cầu hoá xuất phát từ lợi ích khác nhau, đôi khi đối nghịch nhau giữa các chủ thể của chính quá trình toàn cầu hoá”. Toàn cầu hoá chính là Mỹ hoá, bởi ưu thế của Mỹ thể hiện trên một số nét : Mỹ là quốc gia có nền kinh tế thị trường và khoa học phát triển cao, sức mạnh kinh tế và quân sự thì Mỹ đóng vai trò lãnh đạo trong khối các nước tư bản (cụ thể là NATO), các TNC của Mỹ trong nền kinh tế toàn cầu hoá đã khống chế một tỷ phần lớn mậu dịch - đầu tư và tài chính quốc tế, trong nhiều năm qua Mỹ vẫn dẫn đầu về các phát minh và triển khai chúng (đặc biệt là công nghệ thông tin), cuối cùng đó là sự chi phối về an ninh, quân sự đối với các cường quốc. Tuy nhiên sự ảnh hưởng và thống trị này chủ tạm thời bởi nhân loại đang trên con đường phát triển vũ bão của khoa học không chỉ riêng ở Mỹ và đặc biệt là sự đoàn kết dân tộc ngày càng cao. Chính trong TCH chủ nghĩa tư bản (CNTB) sẽ phải biến đổi. Tham gia vào quá trình TCH không chỉ có Mỹ và các nước tư bản phát triển mà còn có hàng loạt các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Do vậy quá trình TCH không phải đơn giản là sự phổ biến các giá trị, luật chơi của CNTB, mà là quá trình đấu tranh thoả thuận, sàng lọc, trong đó các giá trị văn minh – nhân đạo của loài người sẽ được chấp nhận. Cũng không thể xem quá trình TCH hiện nay thuần tuý mang tính chất TBCN. Sự đan xen các lợi ích trong quá trình tham gia hội nhập của các chủ thể phản ánh tính phức tạp và đầy mâu thuẫn của chính quá trình này. Đặc trưng thứ tư : TCH kinh tế là quá trình mang tính hai mặt, nó cũng đặt ra những thách thức đối với các quốc gia. Toàn cầu hoá là quá trình tất yếu. Việc hội nhập tham gia vào toàn cầu hoá kinh tế sẽ tạo cho các bên tham gia những cơ hội, đồng thời nó cũng đặt ra những thách thức. Có ý kiến cho rằng : “TCH là thanh gươm hai lưỡi”, có thể tạo ra những đòn bẩy làm tăng tốc độ phát triển kinh tế, đưa lại kỹ thuật mới làm nâng cao mức sống của người dân hoặc có thể làm xói mòn văn hoá dân tộc. Có thể đưa ra những tác động của TCH như sau : Thứ nhất sự phát triển của toàn cầu hoá kinh tế phá bỏ những cản trở, hàng rào ngăn cách giữa các quốc gia, mở ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển quan hệ kinh tế quốc tế, từ đó có thể tận dụng từ thị trường bên ngoài. Thứ hai : Toàn cầu hoá kinh tế mở ra cơ hội cho các quốc gia chậm phát triển nhanh chóng hội nhập vào phân công lao động quốc tế, từ đó hình thành một cơ cấu kinh tế – xã hội hiệu quả, rút ngắn quá trình hiện đại hoá. Hình thức này đem lại hiêun quả khi phân công lao động theo chiều dọc chuyển sang phân công lao động theo chiều ngang (phân công theo bộ phận cấu thành sản phẩm). Thứ ba : Quá trình TCH tạo ra cơ hội cho các quốc gia tiếp cận với nguồn vốn và công nghệ kỹ thuật, công nghệ quản lý. Thứ tư : Nó cho phép các quốc gia thành viên được hưởng những ưu đãi về thuế quan, hàng hoá có thể nhanh chóng tiếp cận. Thứ năm : Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra sự tiếp nhận những thông tin, tri thức mới, góp phần nâng cao trình độ dân trí, tạo nền tảng cho dân chủ phát triển. Thứ sáu : Nó mở ra khả năng phối hợp nguồn lực của các quốc gia dân tộc để giải quyết những vấn đề có tính toàn cầu : Hoà bình, môi trường… Đó là những cơ hội trong quá trình này, còn các thách thức của nó ? Thứ nhất toàn cầu hoá làm gia tăng tình trạng bất công, sự phân hoá giàu nghèo, thứ hai là cạnh tranh gay gắt giữa các khu vực, công ty thuộc quốc gia hay nảy sinh vấn đề phá sản, thất nghiệp. Thứ ba hạn chế khả năng phát huy nguồn nội lực do mải tranh thủ nguồn lực bên ngoài. Thứ tư là hậu quả về môi trường xã hội, không bền vững trong phát triển. Thứ năm nó đặt ra những hậu quả mang tính chất phi kinh tế. Đại dịch (HIV/AIDS, văn hoá ngoại lai (đặc biệt là mạng Internet..) Tóm lại TCH tạo cơ hội cho phát triển song cũng có nhiều thách thức đối mặt : kinh tế, chính trị, xã hội và môi trường. Đặc trưng thứ năm là : Toàn cầu hoá kinh tế là quá trình mở rộng sự hợp tác kinh tế đồng thời với sự gia tăng cạnh tranh ngày càng quyết liệt. Quá trình toàn cầu hoá bắt buộc các quốc gia phải hợp tác, phụ thuộc lẫn nhau sự hợp tác kinh tế quốc tế trở thành điều kiện tồn tại và phát triển. Đặc tính mở rộng sự hợp tác sự gắn bó của nền kinh tế toàn cầu vừa là điều kiện bảo đảm cho sự phát triển bền vững của kinh tế toàn cầu cũng như kinh tế các quốc gia. Sự mở rộng trong quá trình TCH đưa đến sự cạnh tranh quyết liệt cả bề rộng lẫn chiều sâu trở thành động lực cho phát triển. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là tin học đã và đang làm thay đổi vai trò của các nguồn lực tăng trưởng, hướng vào thoả mãn tốt nhất nhu cầu con người. Điểm mới trong cạnh tranh của quá trình này là cạnh tranh trong một khuôn khổ được quản lý. Đặc trưng thứ sáu đó là TCH kinh tế hiện nay đang gia tăng mạnh mẽ gắn liền với xu thế khu vực hoá diễn ra cũng không kém phần nhộn nhịp. Nét mới trong quá trình TCH là xu thế khu vực hoá. Đó là bước chuẩn bị cho TCH và nó phản ánh sự co cụm nhằm bảo vệ lợi ích tương đồng của một vài nước. Khu vực hoá có nhiều mức độ khác nhau , từ một vài nước đến nhiều nước tham gia thành một tổ chức. Ví dụ Liên Minh Châu Eu, khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình dương (APEC), khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA). Như vậy có thể thấy xu thế TCH và những đặc trưng của nó hết sức phong phú, nhạy cảm. Nó là xu hướng tất yếu, vấn đề đặt ra là hội nhập ra sao ? tiến trình và cách thức thế nào để tận dụng được những mặt tích cực, hạn chế tác động tiêu cực. Đây quả là vấn đề hết sức bức xúc với Việt Nam hiện nay. II. Thực trạng và thách thức của Việt Nam trong việc chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Với Việt Nam, một đất nước còn nghèo và đang trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế là một thách thức lớn. Nó “lớn” bởi do nhiều yếu tố : trình độ dân trí còn thấp, dân số đông nhưng đa phần hoạt động trong nông nghiệp, các chính sách còn chưa phù hợp với tốc độ hội nhập,….Trước tiên chúng ta thử nhìn lại quá trình hội nhập và nhiệm vụ trước mắt. Hội nhập kinh tế quốc tế đã gõ cửa tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế, các địa phương và từng doanh nghiệp. Cùng với việc thực hiện cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, Đảng ta chủ trương phát huy nội lực, thu hút các nguồn lực bên ngoài. Vào những năm 80 nước ta đã hội nhập quốc tế với tư cách là thành viên của Hội đồng tương trợ kinh tế của các nước XHCN (SEV). Ta chủ trương chuyển hướng các hoạt động kinh tế đối ngoại theo phương châm độc lập, tự chủ, đa dạng và đa phương hoá. Cùng với việc mở rộng quan hệ song phương trong buốn bán và đầu tư với nhiều nước, từ năm 1989, Việt Nam đã nối lại quan hệ với IMF,WB. Tháng 7/1995 nước ta gia nhập ASEAN và từ 11/1996 bắt đầu thực hiện cam kết với AFTA. Tháng 11/1998 là thành viên của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APEC) và đang xúc tiến tham gia vào WTO. Thực ra TCH và hội nhập kinh tế Quốc tế không chỉ riêng một nước nào dù Mỹ với GDP cao nhất, Trung Quốc dân số đông nhất thế giới thì vẫn phải tham gia vào “vòng xoáy này”. Nếu ở cuối thập kỷ 70, nước ta lâm vào tình trạng khó khăn, suốt thập kỷ 80 chúng ta tìm cách khắc phục nhưng không thành công. Kết thúc năm 1999, năm thứ 9 của chiến lược 10 năm (1991 –2000) thế và lực đã được nâng lên rõ rệt : Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao, bình quân GDP hàng năm trong thời kù 1991 –1995 là 8,2%, giá trị sản lượng công nghiệp tăng trên 10% và nông nghiệp tăng trên 4%, tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cao gấp 2 đến 3 lần tốc độ tăng GDP. Du lịch và dịch vụ quốc tế đã được phát triển nhanh chóng, hàng năm khách sạn, nhà hàng, trung tâm du lịch đã hình thành một mạng lưới có thể thu hút hàng năm nhiều triệu khách quốc tế. Đã thu hút được hơn 2400 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với vốn đăng ký 36 tỷ USD. Nổi trội lên đó là hoạt động của các doanh nghiệp. Nhà nước và các ngân hàng Việt Nam Hội nhập buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải cạnh tranh, một cuộc đua khốc liệt trên thương trường. Số lượng các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) tăng nhanh, chất lượng và loại hình ngày càng đa dạng. Vốn đầu tư nước ngoài vào các doanh nghiệp tăng dần theo mức độ mở cửa của nền kinh tế, độ thông thoáng của Luật Đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh nhưng đa phần là các doanh nghiệp nhỏ, trình độ hạn chế, sức cạnh tranh yếu. Sau nhiều năm đổi mới số lượng đã giảm song đã chuyển biến quan trọng trong việc thích ứng với cơ chế kinh tế mới. Cho đến nay DNNN vẫn nắm giữ những ngành, lĩnh vực then chốt, hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá đảm bảo cho sự phát triển của nền kinh tế theo định hướng XHCN. Tỷ trọng GDP phần lớn nằm trong tay các DNNN (hơn 40%), các dự án đầu tư và hợp tác với nước ngoài chiếm phần lớn số vốn đổ vào trong nước. Như thế DNNN chẳng những có vai trò nòng cốt của nền kinh tế mà còn giữ vai trò là lực lượng chủ yếu tham gia cạnh tranh quốc tế hiện nay . Tuy nhiên DNNN còn nhiều hạn ché trong việc thích ứng với hội nhập thị trường Quốc tế. Nhiều DNNN bị lỗ, số nợ lớn, tồn đọng từ nhiều năm. Cơ cấu ngành và sản phẩm còn dàn trải, chưa tập trung vào ngành then chốt. Chưa tạo sự đổi mới mạnh mẽ trong tổ chức quản lý, phân công và hiệp tác theo cả chiều dọc và chiều ngang. Một số cán bộ quản lý doanh nghiệp yếu kém chuyên môn, thoái hoá, biến chất. Phần lớn các DNNN chưa nhận thức đầy đủ về yêu cầu cấp bách của hội nhập thị trường, còn thờ ơ chờ đợi sự bảo bảo trợ của Nhà nước. Tình hình chung của DNNN ở Việt Nam là thế, vậy thì các ngân hàng Việt Nam hiện nay ra sao ? Hệ thống này đã trải qua một quá trình phát triển, bao gồm nhiều loại hình ngân hàng thương mại, với những hình thức sở hữu khác khau và hoạt động dưới một hành lang pháp lý với văn bản quy phạm pháp luật cao nhất là Luật các tổ chức

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34644.doc
Tài liệu liên quan