Hệ số ICOR của Việt Nam bình quân trong 3 năm 1996-1998 là 3,035. Tức là cần giữ ở mức tăng thêm hơn 3% vốn đầu tư bỏ ra để tạo ra mức tăng của1% GDP. Đây là mức trung bình của các nước mới bước vào thời kỳ cnông nghiệp. Hệ số này hoàn toàn có thể được cải thiện bằng các biện pháp quản lý đầu tư nghiêm ngặt và hiệu quả. Đối với Việt Nam hiện nay sự buông lỏng quản lý là nguyên nhân chính gây ra sự kém hiệu quả của chính sách đầu tư thì việc cải thiện hệ số này là hoàn toàn có thể.
Như vậy chính sách huy động phải đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với chính sách đầu tư, tín dụng. Cần phải biết kết hợp giữa khối lượng vốn huy động và chất lượng, hiệu quả của các khoản tín dụng, đầu tư .Có như vậy chúng ta mới tạo ra được một cơ chế huy động vốn và đầu tư có hiệu quả, đảm bảo tính bền vững trong phát triển kinh tế.
41 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1715 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng vấn đề vốn và huy động vốn cho công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c tiêu chiến lược: Giá trị sản lượng nông nghiệp tăng khoảng 4% năm,trong 5 năm đầu và 4,5 % năm trong 10 năm; tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần còn 20-21% năm2005 và 16-17% năm 2010... Theo kinh nghiệm quốc tế để tăng sản lượng thu hoạch phải bỏ vốn đầu tư với hệ số từ 3,3 đến 3,5 lần, trong nông nghiệp, nông thôn có thể còn phải lớn hơn nữa ,tức là vốn đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn phải tăng từ 15-20% năm để ít nhất trong 5 năm tới phải tăng đầu tư tín dụng gấp đôi so với cuối thập niên 90. Để có đủ vốn đầu tư cho cnông nghiệp, nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn tới đòi hỏi Chính phủ phải có một chính sách huy động vốn toàn diện và hiệu quả cao.
Có hai loại chính sách huy động vốn được các nước trên thế giới sử dụng trong quá trình phát triển kinh tế ,đó là huy động vốn hướng nội và huy động vốn hướng ngoại .
Chính sách huy động hướng nội: Nội dung chính của chính sách này là tạo dựng vốn chủ yếu bằng tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Để có thể tích luỹ được vốn lớn các nước theo theo chính sách này thực hiện 3 hướng tạo vốn cơ bản là :Phát triển thương mại, xây dựng các ngân hàng kinh doanh hiện đại và xây dựng một cơ cấu nhà nước thực quyền để đảm bảo cho các chính sách có thể được thực thi. Chính sách huy động vốn hướng nội giúp cho Chính phủ có thể chủ động trong việc huy động vốn theo đúng các mục tiêu và định hướng đã chọn, không chịu sức ép của nước ngoài. Tuy nhiên chính sách này rất khó thực hiện được đối với các nước đang phát triển như Việt Nam ,có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế rất nhỏ bé.
Chính sách huy động vốn hướng ngoại: Các nước theo nhóm này thông qua kêu gọi vốn đầu tư của tư bản nước ngoài và tích cực vay vốn nước ngoài với mục đích cơ bản là để tạo ra “cú hích” từ bên ngoài để đẩy nền kinh tế trong nước phát triển. Chính sách huy động vốn hướng ngoại phù hợp với các nước phát triển kinh tế sau. Ngày nay cùng với quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế đã tạo ra những tiền đề và cơ hội mới cho các nước đi sau có thể huy động được các nguồn lực từ bên ngoài phục vụ cho phát triển kinh tế nước mình. Tuy nhiên do những mục đích khác nhau mà các khoản vay vốn nước ngoài thường kèm theo những điều kiện không có lợi cho các nước đi vay. Bên cạnh đó các nguồn vốn nước ngoài thường không ổn định, chúng chịu tác động của nhiều yếu tố kinh tế, chính trị...Điều này đã làm giảm tính chủ động của các Chính phủ trong việc thực thi các chính sách kinh tế của mình và do đó hạn chế tính tích cực của chính sách huy động vốn hướng ngoại.
Hướng tiếp cận của Việt Nam: Kinh nghiệm lịch sử của các nước đi trước cho chúng ta những gợi ý tham khảo về chiến lược tạo vốn ở Việt Nam, trong việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại ,kết hợp giữa chiến lược tạo dựng vốn hướng nội với chiến lược chiến lược tạo dựng vốn hướng ngoại. Một chính sách huy động vốn như vậy giúp chúng ta có thể huy động được những nguồn vốn lớn, rất phong phú. Đó là con đường “rút ngắn” lịch sử phát triển kinh tế và phù hợp với thời đại mới. Thực hiện chính sách này chúng ta cần phải phát triển thương mại, tạo dựng một môi trường tài chính tín dụng thích hợp , cần có một chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài hấp dẫn, chú trọng và nâng cao hiệu quả các nguồn vốn vay nợ.
Hiện tại ở Việt Nam còn rất nhiều tiềm năng về vốn chưa được khai thác và sử dụng hiệu quả. Theo nhiều chuyên gia thì hiện tiềm năng về vốn tín dụng trong dân cư là khá lớn, khoảng 7-10 tỷ USD. Tuy nhiên chúng thường được tích tụ dưới dạng tiền ,vàng, ngoại tệ mà chưa được đưa vào lưu thông trong nền kinh tế. Điều này gợi ý cho các nhà hoạch định chính sách cần có chính sách phù hợp để huy động mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư, đưa chúng vào hệ thống tài chính, tín dụng phục vụ cho phát triển kinh tế.
Phải khẳng định rằng huy động vốn cho cnông nghiệp nông nghiệp, nông thôn là một bộ phận cấu thành quan trọng của chiến lược huy động vốn quốc gia . CNH nông nghiệp, nông thôn cần nhiều vốn ,và vốn cho nông nghiệp, nông thôn có những đặc trưng riêng nên việc huy động và đầu tư vốn vào khu vực này cũng phải có những chính sách thích hợp.Trước mắt huy động vốn thông qua thị trường tài chính, đặc biệt qua hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng là một hướng đi chủ yếu. Cần chú trọng huy động vốn trung và dài hạn , trong thời gian tới phấn đấu huy động được khoảng 40- 50% tổng nguồn vốn huy động là vốn trung dài hạn.
Sử dụng linh hoạt các chính sách huy động như chính sách lãi suất, chính sách ưu đãi tín dụng..., cũng như các công cụ của chính sách để thúc đẩy nhanh quá trình huy động vốn. Hệ thồng các công cụ của chính sách huy động vốn rất phong phú, đa dạng.
Hệ thống các công cụ của chính sách huy động vốn
+ Lãi suất: Lãi suất được xem như là yếu tố “cầu nối” giữa ngân hàng với khách hàng . Là giá cả của vốn lãi suất có tác động rất lớn đến quy mô, thời hạn của các nguồn vốn huy động. Lãi suất phải có khoảng cách phù hợp giữa lãi suất huy động và lãi suất cho vay,tạo điều kiện để khách hàng chấp nhận được. Cần phải xem lãi suất là giá cả duy nhất trên thị trường tài chính- tiền tệ,bắt đầu từ lãi suất trên thị trường tiền tệ và phải mang tính định hướng thị trường. Việc hoạch địng lãi suất phải tính toán đến các yếu tố lạm phát ,tỷ giá để đảm bảo và khuyến khích khách hàng đến gửi tiền.
Việc điều hành lãi suất thuôc về Ngân hàng Nhà nước thông qua 4 loại : lãi suất tái chiết khấu,lãi suất thị trường mở, lãi suất thị trường liên ngân hàng và lãi suất tái cấp vốn. Lãi suất là yếu tố lúc cao,lúc hạ theo sự biến động của cung và cầu về vốn trên thị trường. Do đó không thể có một chiến lược dài hạn cho vấn đè này. Trái lại nó là vấn đề mang tính chiến thuật thúc đẩy quá trình huy động vốn cho phù hợp với yêu cầu trong từng giai đoạn.
+ Các công cụ thị trường tài chính : Như các công cụ vay nợ ngắn hạn ,trung hạn và dài hạn,các chứng chỉ tiền gửi và đặc biệt là các trái phiếu, tín phiếu . Đây là những phương tiện huy động vốn chủ yếu trong nền kinh tế. Ở Việt Nam, với đặc điểm tình hình chính trị ổn định cao thì huy động vốn bằng con đường phát hành trái phiêú Chính phủ tỏ ra là ưu thế nhất. Bên cạnh đó cần đa dạng hoá các hình thức huy động vốn thông qua các kênh và các hình thức huy động vốn khác nhau theo cơ chế thị trường như phát hành các chứng chỉ tiền gửi có thể trao đổi được. Thiết kế các công cụ phải dựa trên đặc điểm của khu vực huy động, của lĩnh vực và đối tượng huy động cũng như cho vay.
+ Ưu đãi tín dụng : Được Chính phủ sử dụng như là các biện pháp nhằm khuyến khích các nhà đầu tư, các NHTM và các tổ chức tín dụng khác tham gia vào việc huy động và cung cấp tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn. Thông thường Chính phủ hay sử dụng lãi suất ưu đãi, các ưu tiên trong các chương trình tín dụng chỉ định hay các biện pháp bảo hiểm hạn chế rủi ro cho các nhà đầu tư.
2.3- Kinh nghiệm tạo dựng vốn các nước.
Nhìn vào lịch sử phát triển các nước trên thế giới, hầu như tất cả các nước trước khi bước vào quá trình cnông nghiệp và phát triển kinh tế đều trải qua một giai đoạn chuẩn bị các điều kiện cần thiết, trong đó trước hết là vốn cho quá trình đó. Tuy nhiên, mỗi nước tuỳ vào lựa chọn lợi thế so sánh , chiến lược phát triển kinh tế và thời đại để tìm ra con đường đi phù hợp. Như đã trình bày ở trên thì có hai chiến lược chủ yếu được các nước sử dụng trong qúa trình huy động vốn cho cnông nghiệp nông nghiệp, nông thôn nói riêng và phát triển kinh tế nói chung. Đó là chiến lược huy động vốn hướng nội và huy động vốn hướng ngoại.
Đài Loan là một quốc gia đã tiến hành CNH, HĐH và phát triển kinh tế bằng con đường phát triển nông nghiệp. Việt Nam và Đài Loan có rất nhiều điểm tương đồng về vị trí địa lý ,điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội. Đài Loan cũng bắt đầu quá trình phát triển kinh tế từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu như Việt Nam. Những kinh nghiệm tạo dựng vốn cho nông nghiệp, nông thôn của Đài Loan sẽ rất có ý nghĩa đối với quá trình huy động vốn của nước ta hiện nay.
Là một nước phát triển kinh tế sau Đài Loan đã chọn chiến lược huy động vốn hướng ngoại . Để tạo ra những tiềm lực cần thiết cho quá trình cnông nghiệp nông nghiệp, nông thôn Đài Loan đã đi tìm “ cú hích” từ bên ngoài kết hợp với tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Từ năm 1950-1965 Mỹ đã viện trợ cho Đài Loan theo kiểu cho vay ưu đãi và viện trợ không hoàn lại mỗi năm khoảng 108 triệu USD. Khoản viện trợ này mãi đến năm 1968 mới rút hẳn. Cũng trong thời gian trên đầu tư trực tiếp của Mỹ vào Đài Loan là trên 2 tỷ USD ,ngay từ những năm 1950 Chính phủ Đài Loan đã có chính sách thu hút đầu tư nước ngoài rất linh hoạt. Ngân sách của Chính phủ và phần lớn nguồn vốn viện trợ nước ngoài được dành cho phát triển nông nghiệp,nông thôn. Hơn 2/3 viện trợ của Mỹ được đầu tư cho xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn, trong khi đó công nghiệp chỉ nhận được ít hơn 1/5.
Đài Loan đã thực sự thành công trong việc biến nguồn vốn bên ngoài thành nội lực của nền kinh tế. Việc đầu tư có trọng điểm và hợp lý bằng vốn tài trợ đã làm cho nguồn ngoại lực thực sự trở thành “cú hích” hiệu quả thúc đẩy nông nghiệp, nông thôn phát triển nhanh. Đồng thời với chính sách khuyến khích tiết kiệm có hiệu quả, số dư tiết kiệm trong nông nghiệp đã tạo ra một lượng tiền vốn cần thiết cho đầu tư sản xuất quy mô nhỏ.Với tư cách là người thực sự thu ngoại tệ từ sản phẩm xuất khẩu, nông nghiệp đã tạo điều kiện nhập khẩu công nghệ hoặc vật tư đầu vào phục vụ cho ngành nông nghiệp. Chính nhờ chính sách này mà Đài Loan đã đảm bảo có sẵn vốn cho phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời tích luỹ được một lượng ngoại tệ lớn, ngày nay Đài Loan là nước có thặng dư vốn đứng thứ hai trên thế giới với khoảng 72 tỷ USD và trở thành một nước xuất khẩu tư bản hàng đầu ở Châu á.
Trong chiến lược huy động vốn của các nước ASEAN các nguồn vốn được phân biệt rõ thành hai loại nguồn vốn: Nguồn vồn huy động cho đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn và nguồn vốn đầu tư cho sản xuất của các ngành kinh tế nông thôn.
Đối với nguồn vốn đầu cho phát triển, các nước đều sử dụng vốn ngân sách là chủ yếu. Quy mô vốn đầu tư từ ngân sách dành cho nông nghiệp, nông thôn thường khác nhau trong mỗi thời kỳ phát triển và khác nhau theo mỗi nước , nhưng nhìn chung các nước đều dành tỷ lệ thấp nhất là khoảng 10% tổng số đầu tư từ ngân sách trung ương hàng năm. Các nguồn vốn ngoài ngân sách chủ yếu gồm vốn đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước trong ngành nông,lâm,ngư ,vốn của các hộ gia đình và tư nhân, nguồn vốn tín dụng đầu tư Nhà nước và các nguồn vốn vay và tài trợ của các ngân hàng và các tổ chức nước ngoài như SIDA, UNDP, PAM, WB, ADB...
Đối với nguồn vốn đầu tư cho sản suất của các ngành kinh tế nông thôn, chủ yếu thực hiện theo phương thức cho vay tín dụng từ nhiều nguồn: Tín dụng từ các chương trình tín dụng nông thôn của Chính phủ, từ các ngân hàng thương mại trong đó đặc biệt quan trọng là Ngân hàng Nông nghiệp và từ các quỹ khác. Trong số các nước ASEAN Thailand được xem như là thành công hơn cả trong việc huy động vốn cho đầu tư sản xuất của các ngành kinh tế nông thôn. Tuy nhiên trong giai đoạn đầu Thailand lại bị các nhà kinh tế phê phán là ít chú trọng đầu tư phát triển cơ sở hạ tâng cho nông nghiệp, nông thôn.
Chính phủ Indonesia mới đây cũng đã chỉ thị cho 9 NHTM nước này hỗ trợ tín dụng cho nông dân trong năm 2001 theo kế hoạch cải thiện lương thực (KKP). Trong năm tài chính 1999-2000 Chính phủ Indonesia đã cung cấp khoảng 8,6 ngàn tỷ Rupiah để hỗ trợ kế hoạch tín dụng nông trại cho nông dân. Năm tài chính 2000-2001 các NHTM Indonesia dự kiến sẽ cung cấp khoảng 8 ngàn tỷ Rupiah cho kế hoạch KKP. Nông dân Indonesia sử dụng các nguồn tín dụng được vay chủ yếu để đầu tư cho phân bón, thuốc trừ sâu, hạt giống nhằm nâng cao năng suất cây trồng, gia tăng sản lượng. Theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp Indonesia , các chương trình hỗ trợ tín dụng cho nông dân là một trong những nhân tố quan trọng đưa sản lượng lương thực của Indonesia tăng nhanh từ 47,5 triệu tấn năm 1998 lên 50,7 triệu nấn năm 2000 và dự đoán sẽ tăng lên 53,5 triệu tấn năm 2001. (5)
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ VỐN VÀ HUY ĐỘNG VỐN CHO CÔNG NGHIỆP HOÁ NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
I - Thực trạng về vốn và tín dụng trong nông nghiệp , nông thôn ở nước ta hiện nay.
Quá trình CNH, HĐH ở nước ta cần một lượng vốn rất lớn,đặc biệt là vốn trung và dài hạn. Theo tính toán của các chuyên gia kinh tế vĩ mô , vốn đầu tư cho toàn bộ nền kinh tế trong giai đoạn 1996-2000 là khoảng 40 tỷ USD, riêng khu vực nông nghiệp, nông thôn cần khoảng 8 tỷ USD, chiếm 20% (khoảng 112 ngàn tỷ VND ). Trong giai đoạn 2001-2010 để đẩy nhanh quá trình cnông nghiệp nông nghiệp, nông thôn thì nhu cầu về đầu tư vốn cho khu vực này là rất lớn. Mức đầu tư mỗi năm dự tính vào khoảng 3 đến 3,5 tỷ USD. Để có thể đáp ứng được nguồn vốn này Chính phủ cần động viên tất cả các thành phần kinh tế đầu tư vào nông ,lâm ,ngư nghiệp, nâng cao tỷ trọng vốn đầu tư xã hội vào nông nghiệp, nông thôn ,tạo thêm nguồn lực phát triển, thực hiện cnông nghiệp.
Trong vài năm gần đây Chính phủ đã cố gắng cải thiện tình hình huy động vốn và cung cấp các dịch vụ tài chính , tín dụng cho khu vực nông nghiệp, nông thôn và đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Năm 1999 mặc dù NHNôNG NGHIệP đã liên tục hạ lãi suất ( 5 lần trong năm) nhưng tổng tiền gửi vẫn tăng 34% so với năm 1998.Tiền gửi bằng ngoại tệ tăng mạnh ( 54,5 % ), cao hơn mức tăng năm 1998 (33,4 %) . Tính đến cuối năm 1999, tổng nguồn vốn huy động trong nước của ngành Ngân hàng Việt Nam đạt trên 170 ngàn tỷ đồng, gấp 80 trên lần so với 1990. Số dư nợ tín dụng ngân hàng trong nông nghiệp, nông thôn đã chiếm trên 30 % tổng dư nợ tín dụng trong nền kinh tế. Nhìn chung, tăng trưởng tín dụng ngân hàng là khá cao , góp phần tích cực phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn .(6)
Nếu diễn biến lãi suất trong năm 1999 có xu hướng giảm dần, nguồn vốn ứ đọng , thì quan hệ lãi suất, cung- cầu vốn năm 2000 có chiều hướng khác. Lãi suất VND tiếp tục giảm trong 2/3 thời gian của năm nhưng đã tăng trong những tháng cuối năm, vốn VND ứ đọng đã được giải toả, lãi suất huy động bằng USD tăng cao trong khi đó lãi suất cho vay lại giảm xuống. Mặc dù có những biến động phức tạp nhưng chỉ têu huy động vốn tăng 20-22%, tăng trưởng tín dụng 15-16% của ngành Ngân hàng năm 2000 vẫn thực hiện được. Đã chuyển từ cơ chế điều hành lãi suất trần cho vay sang cơ chế điều hành bằng lãi suất cơ bản đối với cho vay bằng VND và cơ chế lãi suất thị trường có quản lý của Nhà nước đối với các khoản vay bằng ngoại tệ.
Sau Khoán 10 và Nghị định 14 của chính phủ năm 1993 , ngày 30/3/ 1999 Chính phủ ban hành Quyết định 67 /1999/ QĐ- TTg về chính sách tín dụng ngân hàng phục vụ phat triển nông nghiệp, nông thôn. Đây cũng có thể coi là một bước tiến mạnh mẽ, cấp thiết và đúng đắn của Đảng và Nhà nước sau khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực đã tác động đến tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nước ta chững lại, không hấp thụ được vốn. Quyết định này góp phần khơi thông nguồn vốn tín dụng vào khu vực nông nghiệp, nông thôn. Thực tế khảo sát hệ thống NHNôNG NGHIệP&PTNôNG THôN trên cả nước, kể từ khi có QĐ 67 của Chính phủ đến tháng 7/2000, về huy động vốn tăng thêm 107 tỷ đồng, sử dụng vốn cho vay tăng lên đến 209 tỷ đồng. Cho nên, có thể nói QĐ 67 như cái chà khoá mở thị trường cho tín dụng Ngân hàng Nông nghiệp tiến một bước xa,đến được với hàng chục triệu hộ nông dân đang thiếu vốn để phát triển kinh tế.
Trong vài năm trở lại đây Chính phủ đã thực hiên cải cách hệ thống tài chính,công cuộc cải cách đã tạo ra những tiền đề cho việc huy động vốn và cung cấp tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn. Sự ra đời của các định chế tài chính mới như hệ thống Quỹ tín dụng nhân dân ( QTDND ), Ngân hàng phục vụ người nghèo và sự đổi mới hoạt động của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn cộng với sự ra đời của các thị trường tài chính mới , đặc biệt là thị trường chứng khoán đã góp phần cải thiện khả năng tiếp cận với các dịch vụ tín dụng.
Mặc dù đã đạt, thậm chí vượt các chỉ tiêu về huy động vốn và tăng trưởng tín dụng trong những năm qua nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, tồn tại đòi hỏi Chính phủ phải có biện pháp khắc phục.
Thứ nhất: Dù huy động vốn có tăng nhanh nhưng vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ và hiệu quả nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn. Tỷ trọng vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn trong tổng vốn toàn xã hội vẫn còn ở mức thấp mới chỉ vào khoảng 12%. Bên cạnh đó vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn thiếu đồng bộ,còn dàn trải, hiệu quả đầu tư thấp, chiến lược đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn chưa rõ ràng, dẫn đến đầu tư chệch hướng, đầu tư ồ ạt vào một số ngành, lĩnh vực mà không tính đén hiệu quả kinh tế lâu dài. Sự thất bại trong việc phát triển ồ ạt ngành mía đường đã để lại những bài học đáng nhớ.
Thứ hai : Thực hiện đầu tư bằng vốn ngân sách còn thấp. Tốc độ giải ngân chậm, hiện tượng thất thoát vốn đầu tư xây dựng cơ bản hiện nay là khá phổ biến. Hàng năm có khoảng 40 % vốn xây dựng cơ bản bị thất thoát. Phần lớn vốn đầu tư được đầu tư cho các công trình lớn, cho các DNôNG NGHIệPN tỏ ra kém hiệu quả thì vốn đầu tư cho phát triển kinh tế hộ lại mang lại nhẽng kết quả khă quan.
Thứ ba: Sự chênh lêch về cung cầu trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn là rất lớn. Theo các nhà kinh tế thì luôn tồn tại một khoảng cách như vậy trong việc cung cập vốn tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn. Trong khi hàng triệu hộ nông dân đang thiếu vốn thì các NHTM lại không muôn đầu tư vào khu vực này. Hiên nay ở nước ta không những nguồn vốn cho nông nghiệp, nông thôn đã bị hạn chế mà nó lại còn bị phân tán vàkhông có một kênh dẫn vốn thực sự hiệu quả cho khu vực này. Cơ chế hoạt động của thị trường tài chính nước ta ,mà trước tiên là thị trường liên ngân hàng chưa thực sự theo đúng cơ chế thị trường. Lãi suất trên thị trường vốn chưa mang tính thương mại. Do đó việc huy động và cung cấp vốn tín dụng cho khu vực nông nghiệp, nông thôn chưa thực sự đạt hiệu quả cao.
Thứ tư : Sự can thiệp của Chính phủ trong việc cung cấp tín dụng cho khu vực nông nghiệp, nông thôn vẫn là rất lớn. Phải khẳng định rằng đôi khi vai trò trợ giúp của chính phủ là rất quan trọng .Tuy nhiên điều đó không đông nghĩa với việc Chính phủ bao cấp ,bù lỗ cho những doanh nghiệp Nhà nước những NHTM quốc doanh và đặc biệt là sự tham gia khá sâu của Chính phủ trong các chương trình tín dụng chỉ định và trong việc cung cấp tín dụng ưu đãi cho người nghèo. Do những lý do đó đã hạn chế khu vực tư nhân tham gia vào việc cung cấp tín dụng và các dịch vụ tài chính cho nông nghiệp, nông thôn.
Thứ năm: Một vấn đề nữa đòi hỏi Chính phủ phải quan tâm xem xét đó là chúng ta nên chọn tăng nhanh quy mô vốn đầu tư hay nâng cao hiệu quả vốn. Có nhiều phương án định lượng nguồn vốn cho CNH, HĐH trong 10 năm tới. Đáng chú ý là phương án cần phải có khoảng 150 tỷ USD vốn đầu tư toàn xã hội. Nếu như phương án này là đúng thì tỷ lệ tiết kiệm phải đạt tới xấp xỉ 1/3 GDP,và tỷ trọng vốn đầu tư toàn xã hội phải vượt trên 1/3 GDP. Điều này có thể sẽ làm hạn chế tiêu dùng và do đó chưa chắc đã kích thích được tổng cầu, sản lượng và việc làm và thu nhập. Như vậy việc sử dụng quy mô lớn chưa phải là một hướng đi hiệu quả để huy động nguồn lực cho phát triển kinh tế. Thay vào đó nếu chúng ta tiếp tục nâng cao hiệu quả vốn đầu tư ,nâng cao tỷ lệ vốn hoá thay kết hợp với quy mô vốn hợp lý trong từng thời kỳ. Để đấnh giá hiệu quả vốn đầu tư giữa các thời kỳ lý thuyết kinh tế hiện đại thường sử dụng hệ số ICOR để kiểm tra xem muốn tăng được 1% GDP thì cần (và đã) đầu tư tăng thêm bao nhiêu % vốn đầu tư.
Hệ số ICOR của Việt Nam bình quân trong 3 năm 1996-1998 là 3,035. Tức là cần giữ ở mức tăng thêm hơn 3% vốn đầu tư bỏ ra để tạo ra mức tăng của1% GDP. Đây là mức trung bình của các nước mới bước vào thời kỳ cnông nghiệp. Hệ số này hoàn toàn có thể được cải thiện bằng các biện pháp quản lý đầu tư nghiêm ngặt và hiệu quả. Đối với Việt Nam hiện nay sự buông lỏng quản lý là nguyên nhân chính gây ra sự kém hiệu quả của chính sách đầu tư thì việc cải thiện hệ số này là hoàn toàn có thể.
Như vậy chính sách huy động phải đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với chính sách đầu tư, tín dụng. Cần phải biết kết hợp giữa khối lượng vốn huy động và chất lượng, hiệu quả của các khoản tín dụng, đầu tư .Có như vậy chúng ta mới tạo ra được một cơ chế huy động vốn và đầu tư có hiệu quả, đảm bảo tính bền vững trong phát triển kinh tế.
II - Các nguồn vốn và hình thức huy động .
2.1-Vốn ngân sách.
Đây là nguồn vốn quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến sự thành công của CNH nông nghiệp, nông thôn. Nguồn vốn này chiếm khoảng 40 % tổng nguồn vốn đầu tư cho nông nghiệp , nông thôn. Nguồn vốn ngân sách nhà nước chủ yếu dùng để xây dựng cơ sở hạ tầng nông nghiệp ,nông thôn như hệ thống đường xá,hệ thống điện,và đặc biệt là hệ thống thuỷ lợi. Ngân sách nhà nước tài trợ cho các chương trình khuyến nông, khuyến ngư, các chương trình nghiên cứu, triển khai khoa học công nghệ hiện đại cho sản xuất nông nghiệp, và phát triển kinh tế nông thôn. Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách có tác động lan toả, tạo dựng môi trường để thu hút tư nhân tham gia vào phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Theo “ Việt Nam Đánh giá chi tiêu công” thì mức chi tiêu công cho nông nghiệp vẫn còn ở mức thấp, vào khoảng 5-6 % ngân sách nhà nước (6,3% năm 1998). Mức này thấp hơn một số nước châu Á như Trung Quốc, Ân Độ và Thailand nơi tỷ trọng ngân sách cho nông nghiệp là khoảng 8 đến 16% trong giai đoan 1990-1993. Tính theo tỷ lệ trong GDP, chi của Nhà nước trong nông nghiệp chỉ chiếm 1,3% GDP năm 1998. Tuy nhiên nếu tính cả vốn đầu tư vào khu vực nông thôn thông qua các ngành Y tế , giáo dục và giao thông vận tải ,thì nguồn vốn ngân sách đầu tư cho phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn lớn hơn một chút.
Lĩnh vực thuỷ lợi chiếm khoảng 50 % ngân sách nông nghiệp. Hai chương trình quốc gia về trồng rừng và khai hoang chiếm tương ứng 14% và 17 % , các dịch vụ lâm nghiệp và trồng rừng chiếm khoảng10%. Chi cho khuyến nông và nghiên cứu khoa học vẫn ở mức thấp chỉ ở mức khoảng 80 tỷ đồng một năm tương đương với 1,7 % ngân sach nông nghiệp cho nghiên cứu, trong khi chi của các nước khác cho các chương trình này rất đáng kể. Trung Quốc chi khoảng 6% ngân sách nông nghiệp cho nghiên cứu, Malaysia và Thailand khoảng 10%,các nước Châu á khác ít nhất cũng khoảng 3%. Về các dịch vụ khuyến nông mỗi năm ngân sách chi khoảng 405 tỷ đồng năm 1998 ,tương đương với 8,8% (7)
Như vậy có thể thấy trong thời gian qua tỷ lệ vốn ngân sách dành cho nông nghiệp, nông thôn còn rất hạn chế. Bên cạnh đó cơ cấu chi tiêu cũng không phù hợp. Đơn cử như ,lợi suất chi cho nghiên cứu và các dịch vụ khến nông được biết là rất cao trên thế giới , nó góp phần tích cực giúp nâng cao năng saúut , cẩi thiện đời sống dân cư nhưng mức độ chi cho hai hoạt động này còn thấp. Trong những năm tới để có thể đẩy nhanh quá trình cnông nghiệp nông nghiệp, nông thôn thì yêu cầu phải tăng tỷ lệ đầu tư vốn ngân sách hơn nữa vào khu vực này. Đồng thời phải có một cơ cấu chi tiêu hợp lý hơn . Và để làm được điều này chúng ta cần thực hiện một số biện pháp sau:
+ Thực hiện nghiêm ngặt chính sách thuế ,nguồn thu chính của ngân sách nhà nước. Cần phải xem xét và hoàn thiện chính sách thuế ,phí để đảm bảo nguồn thu ổn định cho ngân sách, từ đó giúp Chính phủ chủ động hơn trong các chương trình chi tiêu của mình. Đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn chính sách thuế cần có những điều chỉnh cho phù hợp. Nên để lại 100 % thuế quyền sử dụng đất nông nghiệp để đầu tư xây dựng và duy trì hoạt động cho các công trình thuỷ lợi, xây dựng hệ thống kênh mương nội đồng.
+ Phát hành trái phiếu, tín phiếu kho bạc , công trái xây dựng tổ quốc để huy động mọi nguòn lực cho phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Với tình hình nước ta hiện nay thì phát hành trái phiếu là con đường có ưu thế hơn cả trong việc huy động vốn. Vơi sự ra đời của thị trường chứng khoán thì việc phát hành trái phiếu lại càng thuận tiện hơn. Công trái xây dựng tổ quốc cần được thiết kế sao cho có mệnh giá đa dạng, lãi suất cần tính toán hợp lý. Trong việc này lấy đòn bẩy là lãi suất công trái để khuyến khích dân cư mua, tuyệt đối tôn trọng tính tự nguyện của nhân dân, không thúc ép ,chạy theo thành tích như đã từng diễn ra.
+ Ngoài ra để tạo dựng vốn ngân sách còn có các biện pháp khác như thu thông qua xổ số kiến thiết, qua các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả...
2.2-Vốn tín dụng.
Trong những năm qua cùng với sự cải thiên của hệ thống tài chính, ngân hàng hoạt động huy động vốn và cung cấp tín dụng cho phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã có những chuyển biến đáng mừng. Mạng lưới ngân hàng , các tổ chức tín dụng được mở rộng và hoạt động rộng đã tạo điều kiện cho người nông dân có thêm nhiều cơ hội hơn trong việc tiếp cận với các dịch vụ tài chính chính thức, hạn chế một phần sự phát triển đang có xu hướng ra tưng của các hoật động tài chính phi chính thức.
Nguồn vốn tín dụng đóng vai trò tích cực trong phát triển kinh tế hộ, kinh tế trang trại , nó cũng đóng góp một phần đáng kể trong việc giảm đói nghèo. Ngu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng vấn đề vốn và huy động vốn cho công nghiệp hóa nông nghiệp , nông thôn ở nước ta hiện nay.docx