Đề tài Thực trạng về chất lượng của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay

Phần I: Chất lượng sản phẩm và vai trò của chất lượng sản phẩm trong hội nhập kinh tế khu vực . 2

1. Các khái niệm về chất lượng sản phẩm. 2

2. Chất lượng sản phẩm trong mối quan hệ với các yếu tố khác của sản xuất kinh doanh.

3. Xu thế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới 11

3. 1 Xu hướng hợp tác kinh tế 11

3. 2 Giới thiệu chung về AFTA

- các nguyên tắc và đòi hỏi khi tham gia vào AFTA

- Yêu cầu về chất lượng ,

4. Vai trò của chất lượng sản phẩm đối với khả năng cạnh tranh và đối với xu thế hội nhập kinh tế nói chung và AFTA

Phần II: Thực trạng về chất lượng của các Doanh nghiệp Việt Nam hiện nay 20

1. Thực trạng 20

1.1. Thực trạng chung 20

1. 2. Một vài đánh giá và các nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên.

2. Thách thức về chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia AFTA

 

doc39 trang | Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 1115 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng về chất lượng của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chung về thuế quan và thương mại GATT, Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương APEC khu vực mậu dịch tự do bắc mỹ NAFTA tổ chức hợp tác A-ÂU ASEM Và hiệp ước các quốc gia Đông Nam A : AEAN với AFTA – khu vực mậu dịch tự do Đông Nam á. Ngoài ra còn có các tổ chức kinh tế tài chính mang tính chất Quốc tế khác như:Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, ngân hàng thế giới WB . Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam á là một dạng thức liên kết thương mại của ASEAN – Hiệp hội các Quốc Gia Đông Nam á, ý tưởng thanhf lập và thực hiện AFTA được Thái Lan đề xuất tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 4 tại Singapore tháng 1 năm 1992. Nhằm tiến tới thúc đẩy sự thực hiện AFTA tại hội nghị các bộ trưởng kinh tế ASEAN (AEM) năm 1992. Các thành viên trong hiệp hội đã thống thất ký hiệp định thực hiện chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung CEPT. Đối với ASEAN, có thể nói , nhu cầu liên kết kinh tế thương mại đã được manh nha từ khá sớm. Năm 1977, một chương trình nhằm thúc đẩy mậu dịch gữa các thành viên đã được đưa vào thoả thuận với ưu đãi thương mạI, khác với TPA, quan hệ thương mại ASEAN theo CEPT được thực hiện trong môi trường mà các hàng rào thuế quan và phi thuế quan dần được loại bỏ hoàn toàn. Việc thành lập AFTA và thực thi hiệp định CEPT đương nhiên cũng chịu một số ảnh hưởng do bối cảnh lịch sử tạo ra. Trước hết đó là do trên thế giới , xu hướng toàn cầu hoá đang diễn ra một cách sâu rộng tác động mạnh mẽ tới mọi quốc gia, mọi nền kinh tế, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đặc biệt là tới lĩnh vực thương mại – kinh tế, dịch vụ và đầu tư. Sự ra đời của nhiều tổ chức liên kết và liên minh kinh tế với những thoả thuận thương mại khu vực hay song phương như EU ở Tây Âu, NAFTA của khu vực Bắc Mỹ là một thách thức không nhỏ đối với tăng trưởng của ASEAN. Trong khu vực, xu thế hoà bình và hữu nghị đang là xu hướng chung cùng cới xu hướng chung của thời đại, đó là xu hướng hoà bình, đối thoại và hợp tác. Cùng với những nguyên nhân tồn tại đó là các đòi hỏi và các yêu cầu của các nền kinh tế trong khu vực, sự tác động mạnh của tình hình thế giới, sáng kiến thành lập AFTA có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng nó vừa là một giải pháp tình thế vừa là một bước đi chiến lược nhằm tạo ra một khối thống nhất về thương mại mạnh hơn rộng hơn trong môi trường thế giới mới. Với việc thành lập AFTA, mục đích chính của các nước thành viên là nhằm thúc đẩy sự hợp tác kinh tế, trao đổi buôn bán trong khu vực, tạo sức cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Từ đó, thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, nâng cao năng lực sản xuất hàng hoá và bổ xung nguần lực giữa nền kinh tế của các nước thành viên, nâng cao khả năng thích ứng một cách chủ động với những thay đổi về điều kiện chung của tình hình thế giới nói chung và tình hình thương mại nói riêng, thúc đẩy sự phát triển của ASEAN và các nước thành viên. Để đạt được điều đó, các nước thành viên ASEAN cần phải tiến hành giải quyết các vấn đề chủ yếu mang tính nguyên tắc và kỹ thuật. Đó là việc cắt giảm các loại thuế nhập khẩu, loại bỏ hàng rào phi thuế quan và hài hoà các thủ tục hải quan trong nội bộ khối. Để xây dựng thành công AFTA cũng như thực thi hiệp định CEPT . Các thành viên tham gia AFTA phải thực hiện một số quy định mang tính chất nguyên tắc như sau: Cam kết cắt giảm các loại thuế nhập khẩu cho hàng hoá nội bộ ASEAN đạt mức thuế xuất từ 0 à 5% sau 15nămTheo điều khoản trên của nguyên tắc khi tham gia AFTA , từ tháng 1-1993 đến tháng 2-2008. hiệp định CEPT được áp dụng cho tất cả các loại hàng hoá có xuất xứ từ các nước thành viên ASEAN nằm trong danh mục cắt giảm thuế của cả nước nhập khẩu và nước xuất khẩu có thuế xuất bằng hoặc dưới 20%. Tháng 9 – 1995. Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 5 đã quyết định đẩy nhanh tiến độ thực hiện và xây dựng AFTA, đạt thuế xuất xuống mức 0 à 5% sau 10 năm từ tháng 1-1993 đến tháng 1-2003 và quết tâm đưa thuế xuất dự kiến đến năm 2015 là 0%. Trong quá trình thực hiện các nguyên tắc trên các chủng thuế của 6 nước thành viên của ASEAN đã được cắt giảm liên tục và đang hướng tới mức thuế xuất 0à5% vào năm 2002. Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 6 đã quyết định rút ngắn 0thời hạn thực hiện CEPT đối với 6 nước là thành viên cũ của ASEAN xuống còn 9 năm. Dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, hội nghị cũng đi tới quyết định gia tăng thời hạn đối với các thành viên mới cụ thể là sau 10 năm kể từ khi gia nhập AFTA. Như vậy cho đến nay thời hạn để hình thành AFTA đối với các nước Singapore, Thai Lan, Philipine, Indonesia, Malaysia, và Brunei là vào năm 2002, của Việt Nam là 2006 của Lào và là 2008 Campuchia là 2010 khi đó thuế quan trong thương mại nội bộ ASEAN giảm còn khoảng 0à5%. Đồng thời các nước thành viên cũng thoả thuận và loại bỏ các hạn chế về định lượng, các hàng dào phi thuế quan vốn là nhân tố cản trở nhiều đến tự do hoá thương mại khu vực và thế giới. Như vậy với sự ra đời của AFTA. Các rào cản trở về thuế quan và phi thuế quan của các nước trong khu vực sẽ tiến tới hoàn toàn bị xoá bỏ tạo thuận lợi cho việc tự do buôn bán và thống nhất hàng hoá thị trường khu vực. Đây có thể nói là một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp, các tổ chức sản xuất kinh doanh Trong nội bộ ASEAN. Trong một thị trường thống nhất ấy, các Doanh nghiệp mà trong đó có cả các Doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội để khẳng định mình thông qua một thị trường cạnh tranh tương đối hoàn hảo và đây cũng là một cơ hội mà không chỉ các doanh nghiệp Việt Nam mà cả nền kinh tế nước ta có được một sự tăng trưởng cao và ổn định. Tuy nhiên, để đạt được điều đó chúng ta cần phải thực hiện một số các biện pháp nhằm đáp ứng được các yêu cầu và đòi hỏi của một nền kinh tế thị trường quốc tế đạt đến một trình độ tương đối cao như thị trường AFTA tiến tới một thi trường rộng lớn hơn trong WTO, APEC Đối với các Doanh nghiệp Việt Nam và đối với cả nền kinh tế nước ta. Các đòi hỏi chủ yếu và duy nhất khi ra nhập AFTA có thể là: Xây dựng một hệ thống pháp luật tạo một hành lang pháp lý vững chắc vừa đảm bảo thúc đẩy tự do thương mại, và kinh tế vừa là những căn cứ vững chắc trong việc kiểm soát các hoạt động kinh tế nói chung và các hoạt động thương mại nói riêng. Khẩn trương tiến hành việc cắt giảm các loại thuế xuất nhập khẩu tiến tới huỷ bỏ hoàn toàn các cản thương mại trong hệ thống về thuế. Việc thực hiện yêu cầu này chính là bước khởi động đầu tiên trong tiến trình qua nhập AFTA của nước ta và cũng là của xu hướng hội nhập kinh tế – xu hướng chủ đạo trong phát triển và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hiện đại. Trên đây là hai đòi hỏi và yêu cầu đối cới sự quản lý vĩ mô nền kinh tế của nhà nước trong quá trình tham gia vào AFTA và quá trình hội nhập kinh tế thế giới. Đối với các Doanh nghiệp, tổ chức sản xuất kinh doanh của Việt Nam, việc ra nhập AFTA có thể là một cơ hội lớn cho sự phát triển, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, mở rộng thị phần sản phẩm ra ngoài biên giới quốc gia, đẩy mạnh tiêu thụ hành hoá, ra tăng doanh thu và lợi nhuận Doanh nghiệp cũng còn phải thực hiện một số yêu cầu và đáp ứng các đòi hỏi cụ thể là: Tìm hiểu kỹ pháp luật và tập quán thương mại quốc tế, tìm tòi và nghiên cứu các nhu cầu của thị trường, đặc biệt là thị trường cuối năm trong các nước thành viên của ASEAN – AFTA. Việc này có một ý nghĩa rất quan trọng bởi vì tự do thương mại Tự do thương mại sẽ không có ý nghĩa gì nếu như Doanh nghiệp không hiểu biết gì về luật pháp quốc tế, đặc biệt là các bộ luật về thương mại hay các tập quán thương mại. Chúng ta (các Doanh nghiệp Việt Nam) cũng có thể tham gia một thị trường chung và thống nhất trong khu vực nếu như ta không biết khách hàng của chúng ta là ai ? ở đâu ? và họ cần những sản phẩm gì ? Bằng mọi biện pháp và lổ lực nâng cao chất lượng sản phẩm và dịnh vụ hạ giá thành sản phẩm từ đó giảm giá bán sản phẩm. đây là nguyên tắc đầu tiên trong cạnh tranhcó hiệu quả, là một khối thị trường chung của các nền kinh tế các doanh nghiệp với các trình độ khác nhau đăc biệt với nước ta là một nước đang phát triển trình độ về khoa học kỹ thuật công nghệ còn hạn chế khả năng về vốn và quản lý chưa cao do vậy các vấn đề cạnh tranh từ phía thị trường là rất lớn nếu không có khả năng cạnh tranh thì cơ hội tham gia thị trường tự do sẽ biến thành một nguy cơ vì không những trên thị trường thế giới, ta còn bị cạnh tranh mạnh ngay cả trên thị trường trong nước - thị trường truyền thống. Thực hiện tốt các biện pháp maketing nhằm khuếch trương sản phẩm và thu hút sự chú ý của khách hàng người tiêu dùng trên thị trường mới. Ngoài các yêu cầu trên, chúng ta còn cần đến phải đáp ứng các yêu cầu khác về trình độ quản lý, cả ở tầm vĩ mô của nhà nước và tầm vi mô ở các Doanh nghiệp. Bởi hiệu quả sản xuất kinh doanh có vai trò quan trọng của trình độ quản lý cả quản lý nhà nước lẫn quản lý tại nghiệp trong các doanh nghiệp . * Yêu cầu về chất lượng sản phẩm. Ra nhập thị trường AFTA, các sản phẩm do các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất (hay có xuất xứ từ Việt Nam) sẽ có nhiều cơ hội tiếp cận với một thị trường rộng lớn hơn với các nhu cầu đa dạng của mọi tầng lớp người tiêu dùng, khách hàng với một khả năng thanh toán lớn hơn. Ngoài ra, việc tiếp cận với một thị trừơng mới cũng đem lại cho Doanh nghiệp Viêt Nam các cơ hội mới về thị phần tiêu thụ đó là các cơ hội cho một sự phát triển bền vững và lâu dài. Tuy nhiên, để sản phẩm của Việt Nam thực sự là một vũ khí, một phương tiện đi đến thành công cho các Doanh nghiệp thì cần phải trang bị cho chúng một sức mạnh, sức mạnh đó chính là khả năng cạnh tranh được ẩn chứa bằng một chất lượng cao, thoả mãn người tiêu dùng và khách hàng. Chất lượng sản phẩm - Đó chính là yêu cầu của thị trường chung đối với các loại sản phẩm của Việt Nam. Trước các sức ép về cạnh tranh từ nhiều phía, với các đặc tính chất lượng nổi bật của các đối thủ cạnh tranh như chất lượng cao, kiểu dáng, mẫu mã đẹp, giá cả rẻ chất lượng dịch vụ và bảo hành tốt thực sự là một nguy cơ đối với các loại sản phẩm của các Doanh nghiệp Việt Nam. Cần phải tạo ra các ưu thế ít nhất là ngang bằng đôi với các đối thủ cạnh tranh nếu như muốn cạnh tranh với họ trên cả thị trường khu vực và thị trường trong nước. Đó là một đòi hỏi một yêu cầu bức xúc và không thể không đáp ứng. 4. Vai trò của chất lượng sản phẩm đối với khả năng cạnh tranh và xu thế hội nhập vào AFTA. Vai trò của chất lượng sản phẩm đối với khả năng cạnh tranh. Một đặc trưng cơ bản dễ nhận biết nhất và cũng là một ưu điểm lớn nhất của cơ chế thị trường đó chính là tính cạnh tranh đặc biệt là cạnh tranh hoàn hảo. Về cạnh tranh, đã có nhiều định nghĩa khác nhau về cạnh tranh thể hiện các quan điểm khác nhau và các mức độ khác nhau của tính chất quyết liệt trong cạnh tranh. Theo từ điển giải thích về kinh tế thị trường xuất bản lần thứ 2 tại Nga năm 1993 đã định nghĩa:” cạnh tranh là sự ganh đua, thi đua trên thị trường giữa các doanh nghiệp có cùng một mục đích là đảm bảo những khả năng tốt nhất về tiêu thụ sản phẩm của mình nhằm thoả mãn những yêu cầu đa dạng của người mua. Trên thị trường thế giới luôn tồn tại sự cạnh tranh gay gắt giữa các nhà sản xuất hàng hoá để tham gia thành công vào thị trường nước ngoài, cần phải nâng cao đáng kể sức cạnh tranh của hàng hoá được sản xuất trong nước. Khi nhập khẩu nếu vận dụng tốt quy luật cạnh tranh đối với các nhà cung cấp nước ngoài thì sẽ có khả năng thu được những lợi ích đáng kể trong giao dịch mua hàng “. Theo từ điển thương mại Anh- Pháp Việt do nhà xuất bản khoa học kỹ thuật xuất bản năm 1995 tại Hà Nội thì vấn đề cạnh tranh lại được nói đến một cách mạnh mẽ và quyết liệt hơn:” Cạnh tranh là tình trạng giành giật nhau về khách hàng và thị trường ”. Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng nói chung cạnh tranh có thể hiểu là sự đấu tranh của hai hay nhiều bên cùng tham gia vào một hoạt động với cùng một mục đích. Mục đích áy có thể là quyền hành, là vị thế có lợi cho mình trên các phương diện. Trong kinh tế thị trường đó là sự dành giật về thị phần, quyền kiểm soát mua hoặc bán các loại sản phẩm. Là một phạm trù phức tạp cạnh tranh có liên quan đến nhiều khía cạnh, lĩnh vực khác nhau của nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một hiện tượng tất yếu xẩy ra đặc biệt là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Trong thời đại ngày nay, kinh tế thị trường hiện đại đang len lỏi vào tất cả các ngành, các lĩnh vực của đời sống sản xuất xã hội. Với đất nước ta, đặc biệt là từ sau chính sách đổi mới và mở cửa hợp tác của đại hội VI (1986). Kinh tế thị trường với đặc trưng cơ bản là sự cạnh tranh đang ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc Công Nghiệp Hoá và Hiện Đại Hoá đất nước đặc biệt là trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường và một cơ chế thị trường mang tính chất quốc tế cao luôn mở ra các cơ hội và đồng thời cũng đặt ra không ít những thách thức lớn lao cho các doanh nghiệp. Để chiến thắng trong cạnh tranh, để tồn tại và phát triển các Doanh nghiệp phải luôn tạo ra cho mình một khả năng cạnh tranh đối với mỗi sản phẩm hàng hoá. khả năng cạnh tranh hay sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá và dịch vụ bao gồm các yếu tố: Mức chất lượng, giá cả, điều kiện cung cấp, hình thức thanh toán, phương thức vận chuyển và giao nhận môi trường canh tranh, vị thế so sánh vv. . Trong đó hai yếu tố mức chất lượng và giá cả là những yếu tố quan trọng hàng đầu. Hai yếu tố này luôn gắn liền với các thuộc tính vốn có của bản thân mỗi sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Để nâng cao khả năng cạnh tranh đối với mỗi loại sản phẩm của mình. Doanh nghiệp có thể sử dụng một loạt các biện pháp tác động đồng thời vào các yếu tố trên. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, hai yếu tố mức chất lượng và giá cả vẫn được ưu tiên hàng đầu và coi như là một nền tảng quyết định tới toàn bộ quá trình. Ngày nay, trước tác động của sự phát triển của khoa học kỹ thuật sự thay đổi nhanh trong nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng. Cạnh tranh về giá trên thị trường đang có xu hướng chuyển dần sang cạnh tranh phi giá đặc biệt là cạnh tranh về chất lượng. Vai trò quyết định của chất lượng còn được thể hiện ở tác động to lớn của nó tới khả năng sinh lời và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Những số liệu thống kê cho thấy rằng những công ty có vị thế cao hơn về chất lượng có thể thiết lập một mức giá bán cao hơn đến 8% so với các sản phẩm cùng loại của các công ty khác mà họ vẫn bán chạy hàng hơn. Ngoài ra, mức thu hồi vốn đầu tư giữa hai loại công ty này cùng có một mức chênh lệch khá lớn đó là 20% và30%. như vậy, vấn đề chất lượng ngày nay không chỉ còn là một vấn đề kỹ thuật thuần tuý nữa mà đã chở thành một vấn đề mang tính chiến lược hàng đầu trong sản xuất – kinh doanh của các DN, tổ chức. Nó là yếu tố quyết định và cơ bản làm nên sức cạnh tranh của các loại sản phẩm hàng hoá dịch vụ mà DN hay tổ chức đang tham gia cung ứng, trên thị trường. 4.2 Vai trò của chất lượng sản phẩm trong tiến trình gia nhập AFTA. Khi nền kinh tế nước ta thực sự tham gia vào AFTA cùng với các nước trong khu vực. Các doanh nghiệp Việt Nam và cả nền kinh tế Việt Nam sẽ đứng trước một thách thức lớn lao đó chính là vấn đề chất lượng sản phẩm và vấn đề cạnh tranh, sức cạnh tranh của các loại sản phẩm hàng hoá dịch vụ do ta sản xuất và cung cấp. So với các đối thủ cạnh tranh, các doanh nghiệp Việt Nam cũng như cả nền kinh tế nước ta còn bị hạn chế bởi trình độ phát triển, trình độ công nghệ, khoa học kỹ thuật và khả năng về vốn cũng như trình độ quản lý vvVà do vậy chất lượng sản phẩm của các Doanh nghiệp nước ta cũng như khả năng cạnh tranh còn yếu so với các đối thủ trong khu vực. Trong một thị trường chung rộng lớn được quốc tế hoá cao. Vấn đề chất lượng sản phẩm ngày càng trở nên vô cùng quan trọng bởi tính chất cạnh tranh đặc biệt là cạnh tranh quốc tế đang có nhiều thay đổi và các thay đổi này lại đang hướng theo chiều hướng cạnh tranh bằng chất lượng. Theo hướng ấy, để có thể tồn tại và phát triển không những trên thị trường trong nước mà cả thị trường quốc tế. Các Doanh nghiệp Việt Nam cần phải hướng các nỗ lực của mình vào các vấn đề cải tiến và nâng cao chất lượng, đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu và thị hiếu của khách hàng. không chỉ khách hàng trong nước mà còn có cả khách hàng trong khu vực và quốc tế. Phần II . Thực trạng về chất lượng của các Doanh nghiệp Việt Nam hiện nay 1. Thực trạng 1.1. Thực trạng chung Khi đánh giá những thực trạng chung về chất lượng sản phẩm của các Doanh nghiệp Việt Nam một cách khách quan có thể thấy. Các Doanh nghiệp Việt Nam hiện nay còn yếu cả về thế và lực. Hơn 90% các doanh nghiệp là các doanh nghiệp vừa và nhỏ với số lương vốn dưới 5 tỷ đồng. Trong khi đó, cơ sơ hạ tầng, máy móc thiết bị cũng như các dây truyền công nghệ còn thiếu đồng bộ và lạc hậu. Hơn các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay còn đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu và cơ cấu lại. Do vậy năng lực sản xuất còn thấp khả năng cạnh tranh, chât lượng của các sản phẩm sản xuất ra còn kém do chi phí sản xuất lớn, nguyên vật liệu phải nhập từ nước ngoài, công xuất sử dụng máy móc thấp, kỹ năng và trình độ quản lý, tay nghề công nhân còn thấp. Mặt khác các doanh nghiệp Việt Nam mới tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới do đó gặp nhiều khó khăn về kinh nghiệm tiếp cận thị trường cũng như các thông tin cần thiết liên quan tới quá trình hội nhập. Trong khi đó, các DN Việt Nam hiện nay, cho đến nay, vẫn chưa xây dựng được nội dung hoạt động và chiến lược kinh doanh của DN trước sự cạnh tranh của các đối thủ cạnh tranh và của các đối tác và của các doanh nghiệp trong khu vực. Với thực trạng trên của toàn bộ hệ thống sản xuất của các doanh nghiệp Việt Nam đã ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng của các loại hàng hoá và dịch vụ. Những ảnh hưởng đó trước tiên bắt nguần từ vấn đề công nghệ sản xuất. Với dây truyền công nghệ sản xuất lạc hậu, các loai sản phẩm của ta thường có một chất lượng cả về nội dung lẫn hình thức rất yếu so với các sản phẩm cùng loại được sản xuất từ các doanh nghiệp trong khu vực. Một ví dụ điển hình về mặt đó là các sản phẩm cơ khi hoá của Viêt Nam. Được trang bị công nghệ sản xuất của Liên Xô từ những năm 60 –70 của thế kỷ 20, các sản phẩn cơ khí của ta thường tỏ ra kém ưu thế hơn so với các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Kích thước cồng kềnh hình thức không đẹp, hiệu xuất thấp hao phí nhiên liệu lớn đó là các đặc điểm chính của các sản phẩm này. Ngoài sản phẩm cơ khí, còn một số rất lớn các loại sản phẩm của ta được sản xuất ra với chất lượng chưa đạt yêu cầu trong hôị nhập kinh tế và thậm chí chưa đạt yêu cầu tiêu chuẩn cho phép. Hội nhập kinh tế khu vực và thế giới đang mở ra một cơ hội lớn về thị trường cho các Doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên, cho đến nay, khi khả năng hội nhập sắp thực sự mở ra cho các hàng hoá, sản phẩm và dịch vụ của ta thì các sản phẩm này phần lớn lại chưa đạt yêu cầu về các tiêu chuẩn mang tính chất pháp lý mà các thị trường ở các nước phát triển đòi hỏi. Đối với các nước đang phát triển như nước ta, may mặc là một ngành có nhiều lợi thế về cạnh tranh do tận dụng được các ưu thế về nguồn lao động rồi dào . Có thể nói đây là một ngành mũi nhọn của nền kinh tế trong xuất khẩu sau Dầu Mỏ, đem lại một nguần ngoại tệ rất lớn cho nền kinh tế. Tuy nhiên, mặc dù là một hướng xuất khẩu mạnh của ta trong thời kỳ Công nghiệp Hoá, Hiện Đại Hoá Đất Nước nhưng chính các sản phẩm May Mặc của ta nhiều khi lại chưa đạt được đến một tiêu chuẩn cho phép thâm nhập vào các thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật và chưa kể tới sức cạnh tranh ngày một lớn của các sản phẩm may mặc của Trung Quốc. Ngoài thực trạng về các loại sản phẩm kể trên, có thể nói các vấn đề về quản lý (Bao gồm cả quản lý về chất lượng) cũng đóng một vai trò ảnh hưởng lớn tới các thực trạng trên. Do mới chuyển tư một cơ chế quản lý tập chung quan liêu sang một nền kinh tế thị trường đầy năng động nên vấn đề về quản lý trong các doanh nghiệp còn nhiều bỡ ngỡ và tồn tại nhiều bất cập trong quản lý. Những bất cập đó có thể thấy do ở cơ cấu tổ chức cồng kềnh, kém hiệu quả. Bản thân đã là một cơ chế quản lý mang tính chất kế hoạch hoá nhưng trong các quyết định quan trọng lại thường thiếu tính kế hoạch hoặc không thể hiện một định hướng kế hoạch rõ ràng đặc biệt là các kế hoạch dài hạn mang tính chiến lược. Hiện tượng “giật gấu vá vai” là hiện tượng thường thấy trong kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Có thể thấy rõ, việc thiếu tác chiến lược dài hạn, thiếu các kề hoạch kinh doanh trong quản lý sản xuất kinh doanh ảnh hưởng rất lớn đế sức cạnh tranh trong các loại sản phẩm và chất lượng của chúng. Vốn và lao động – trong sản xuất kinh doanh là một phần rất quan trọng có thể nói đây là hai nhân tố đầu tiên khi bước vào quá trình sản xuất, kinh doanh các loại sản phẩm hàng hoá dịch vụ phải có. Mặc dầu vậy , như đã nói ở trên đây lại là một vấn đề nan giải cho các doanh nghiệp nước ta. Lượng vốn không đủ lớn, cơ cấu vốn bất hợp lý đã có ảnh hưởng không nhỏ tới hệ thống sản xuất kinh doanh và chất lượng sản phẩm làm ra do không kịp để đổi mới và cải tiến công nghệ sản xuất. Phần nhiều trong lực lượng lao động rồi dào ở nước ta là lao động phổ thông chưa qua đào tạo luật đào tạo không cơ bản cũng là một nguyên nhân ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm sản xuất ra. 1. 2. Một vài đánh giá và các nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn và tồn tại nhưng các doanh nghiệp việt nam trong nỗ lực nhằm nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh, cải tiến đổi mới hệ thống quản lý nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo ưu thế trong cạnh tranh đã thu được một số thành tựu đáng kể. Về chất lượng sản phẩm. Sau khi chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập chung sang nền kinh tế thị trường và hội nhập vào xu hướng phát triển chung của thế giới. Chất lượng sản phẩm của ta có nhiều tiến bộ đáng kể các sản phẩm của Việt Nam từ chỗ được sản xuất theo các kế hoạch của nhà nước, xa rời các nguyên tắc thị trường và thị hiếu cũng như các nhu cầu của người tiêu dùng dẫn đến chất lượng biến dáng cũng như tính năng và công dụng chậm được đổi mới và cải tiến. Giờ đây khi phát triển trong kinh tế thị trường dưới tác động của các chính sách đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài, các sản phẩm này đã có những tiến bộ ro rệt chất lượng sản phẩm được nâng cao, đổi mới một cách toàn diện và hiệu quả hơn dần đáp ứng được các nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng trong nước và hướng dần ra xuất khẩu. Việc áp dụng việc quản lý chất lượng ở tầm vĩ mô bằng các tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn hiệu quả cũng góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam lên một tầm cao mới, bước đầu cho phép các sản phẩm này có khả năng cạnh tranh vơi các sản phẩm cùng loại của các đối thủ cạnh tranh trong khu vực. Theo đà phát triển hiện tại , các sản phẩm của việt nam rất có thể sẽ chiếm lĩnh được một thị trường quốc tế rộng lớn không những trong khu vực mà còn trên cả các thị trường quốc tế khác như thị trường Mỹ, Thị trường EU, thị trường Nhật. v. v. . Điều này được thể hiện rõ nét trong mức tăng của kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng sang các thị trường trên hàng năm. Về vấn đề vốn và công nghệ cũng như các lĩnh vực và quản lý, lao động và đào tạo lao động. Nền kinh tế thị trường mở theo xu hướng hội nhập quốc tế và tạo điều kiện cho các đồng vốn đầu tư nước ngoài chạy vào . Theo đó là sự phát triển của vấn đề khoa học- kỹ thuật và công nghệ đã làm thay đổi toàn bộ thị trường vốn, thị trường công nghệ và sau đó là thị trường sản phẩm. Đây là những thay đổi mang tính chất tích cực cho toàn bộ nền kinh tế nói chung và cho các doanh nghiệp Việt Nam nói riêng trong việc sản xuất và kinh doanh các loại sản phẩm với chất lượng cao hơn. Nó cho phép quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực thực sự sẽ là những cơ hội phát triển mới cho không chỉ các sản phẩm của Việt Nam mà cho cả các Doanh nghiệp và toàn bộ hệ thống sản xuất của nền kinh tế quốc dân 2. Thách thức đối với chất lượng sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam trước ngưỡng cửa của AFTA. 2. 1. Đòi hỏi của việc ra nhập AFTA đối với các sản phẩm của Việt Nam. Do đòi hỏi của các hiệp ước cũng như các nguyên tắc khi tham gia vào hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và AFTA nói riêng. Nền kinh tế Việt Nam và do đó cả thị trường Việt Nam là một nền kinh tế mở và một thị trường mở rộng dãi đối với các nhà đầu tư nước ngoài cũng như các nhà sản xuất cùng với các loại sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ của họ. Với việc gia nhập AFTA, các doanh nghiệp việt nam cùng với các sản phẩm, dịch vụ mà họ cung ứng sẽ phải chịu một sức ép lớn hơn trong cạnh tranh từ phía các nhà cung ứng và sản xuất trong khu vực cũng như từ phía sản phẩm của họ. Với ưu thế vượt chội về vốn, công nghệ, khả năng thanh toán và về các đảm bảo dịch vụ sau bán, các sản phẩm của các nhà cung cấp đến từ các nước trong khu vực sẽ tràn vào thị trường nước ta khi chúng ta thực sự hoà nhập vào một khối thị trường chung, thống nhất. Đó là thị trường AFTA vào năm 2003 và tạo ra một sức ép cạnh tranh lớn đối với các sản phẩm nội địa cùng loại. Như vậy, đối với các sản phẩm của Việt Nam, đây sẽ là một nguy cơ nếu chúng ta không đổi mới, cải tiến và nâng cao chất lư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV217.doc
Tài liệu liên quan