MỤC LỤC
Lời nói đầu
CHƯƠNG I: Những lý luận cơ bản về nhu cầu vốn cho TTKT ở Việt Nam
I. Vai trò của vốn đầu tư với tăng trưởng kinh tế 3
II. Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và hệ số ICOR 3
III. Các quan điểm cơ bản về vốn đầu tư cho tăng trưởng và
phát triển kinh tế ở Việt Nam 4
CHƯƠNG II: Thực trạng đảm bảo nhu cầu vốn đầu tư cho mục tiêu TTKT trong thời kỳ 1996-2000
I. Nhu cầu và thực trạng 7
II. Kết luận 13
CHƯƠNG III: Dự báo về đảm bảo nhu cầu vốn đầu tư cho mục tiêu TTKT trong kế hoạch 5 năm 2001-2005.
I. Mục tiêu và nhu cầu vốn đầu tư cho TTKT Việt Nam giai
đoạn 2001-2005 16
II. Những dự báo về đảm bảo nhu cầu vốn 17
III. Kết luận 26
KẾT LUẬN 27
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1662 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng về đảm bảo vốn đầu tư cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1996-2000, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tư cần tập trung cao cho các ngành chế biến có hàm lượng vốn và kỹ thuật nhiều thì tỷ lệ này tăng lên từ 1,5 đến 2 đồng vốn trong nước.
Huy động và định hướng vốn đầu tư phục vụ cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế :
Hội nhập là xu thế tất yếu, là một nội dung của công cuộc đổi mới, là một nhân tố quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã tham gia vào AFTA và APEC, đồng thời đang tích cực chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết để gia nhập WTO. Việc tham gia vào các tổ chức quốc tế đòi hỏi chúng ta phải thực hiện Chương trình ưu đãi thuế quan, thực hiện những điều khoản chung, ...
Để đảm bảo mục tiêu tăng trưởng phải dự báo được nhu cầu vốn đầu tư, lượng vốn huy động được trong nước và quốc tế trong thời kỳ thực hiện kế hoạch. Như vậy, bối cảnh quốc tế là một trong những yếu tố quan trọng có ảnh hưởng rất lớn tới mục tiêu tăng trưởng.
chương II :
thực trạng đảm bảo nhu cầu vốn đầu tư
cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở việt nam
trong thời kỳ 1996 - 2000
Nhu cầu và thực trạng đảm bảo vốn đầu tư cho mục tiêu phát triển kinh tế trong thời kỳ 1996 - 2000:
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời kỳ 1996-2000:
Trong thời kỳ 1996-2000 mục tiêu tăng trưởng kinh tế là phải đạt được từ 9% - 10%/năm và GDP bình quân đầu người tăng gấp đôi vào năm 2000 so với năm 1990.
Một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô
1996
1997
1998
1999
ước 2000
Tăng trưởng GDP
9,3
8,2
5,8
4,8
6,7
Lạm phát
4,5
3,6
9,2
0,1
1,0
Xuất khẩu tăng
33,1
26,6
1,9
23,1
21,4
Thu ngân sách tăng
16,9
4,7
6,8
6,2
0,45
Tích lũy/GDP
17,2
20,1
21,4
24,6
25
Đầu tư nhà nước
-2,8
10,2
7,5
14,2
Nhu cầu vốn đầu tư:
Để đạt mục tiêu tăng trưởng 9%-10%/năm thì cần phải có ít nhất 41 - 42 tỷ đô la Mỹ, trong đó cơ cấu vốn đầu tư được phân chia như sau:
Vốn đầu tư trong nước: 52%
Vốn đầu tư ngoài nước: 48%
Trong phần vốn đầu tư trong nước:
Vốn ngân sách Nhà nước chiếm 21% tương đương 8,6 tỷ đô la
Vốn tích luỹ từ hộ gia đình và lợi nhuận doanh nghiệp chiếm 31% tương với 12,8 tỷ đô la,
Trong phần vốn đầu tư nước ngoài :
ODA: 17%
FDI: 30%
Vay thương mại nước ngoài:1%
Thực trạng đảm bảo vốn đầu tư bằng nguồn vốn trong nước trong thời gian qua:
Mặc dù nguồn thu ngân sách của Việt Nam có xu hướng ngày càng giảm về tỷ trọng so với GDP, đến năm 1998 chỉ còn chiếm 19%, năm 1999 là 18% nhưng Chính phủ vẫn cố gắng tìm mọi cách để đảm bảo nguồn chi cho xã hội, chi cho đầu tư vẫn được duy trì khoảng 5,5%GDP. Tuy vậy con số này vẫn còn thấp hơn so với nhiệm vụ đặt ra cho thời kỳ này là 6%.
Tỷ trọng vốn đầu tư do các DNNN trong thời kỳ 1996-1999 chỉ chiếm khoảng 13% tổng vốn đầu tư xã hội. Như vậy thấp hơn nếu so với nhiệm vụ
đặt ra là đảm bảo 16% tổng tích lũy nội bộ.
Khu vực tư nhân của Việt Nam có xu hướng phát triển tương đối mạnh mẽ, khu vực này đã tạo nên 51% tổng GDP của cả nước, tỷ lệ đóng góp vào ngân sách nhà nước lên đến 26,4 tổng thu ngân sách. Tổng vốn đầu tư của các DNTN lên tới khoảng 12.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 3% GDP và 15% tổng đầu tư toàn xã hội. Từ năm 1997 đến nay nguồn tiết kiệm của dân cư theo ước tính hiện tại khoảng 90,46% các hộ gia đình có tiết kiệm và tổng tiết kiệm dân cư cả nước khoảng 66.000 tỷ đồng tương đương 21% GDP. Lượng vốn huy động ngày càng tăng, mỗi năm ước tính vào khoảng 18-19% thông qua đa dạng hóa hình thức huy động vốn, thực hiện chính sách lãi suất thực đương cho người gửi tiết kiệm. Tuy nhiên, nếu so sánh với con số tổng tiết kiệm dân cư thì vẫn còn rất khiêm tốn. Theo các chuyên gia ngân hàng ước tính thì khoảng 60% tiết kiệm của dân cư vẫn còn tồn đọng trong chính khu vực dân cư. Theo con số của Tổng cục thống kê và Ngân hàng Thế giới năm 1997-1998 thì khoảng 76% nguồn tiết kiệm dân cư còn tồn đọng, chưa được đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
Thực trạng đảm bảo vốn đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài :
Từ nguồn FDI:
Theo kế hoạch đặt ra 1996-2000 thì lượng vốn FDI cần phải huy động là 12.450 triệu đô la (30% tổng đầu tư toàn xã hội), nhưng trên thực tế chỉ huy động được 9352 triệu đô la (75% nhu cầu) và xu hướng từ sau khủng hoảng tài chính khu vực thì lượng FDI càng giảm đi. Nếu thời kỳ 1995-1997, bình quân luồng vốn FDI đạt bình quân 2 tỷ đô la một năm thì đến năm 1999 chỉ còn 1,2 tỷ đô la. Đặc biệt là sự giảm sút đầu tư từ Nhật Bản và các nước Đông Nam á khác.
Nguyên nhân chủ yếu của sự giảm sút FDI trong thời kỳ qua một phần do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính của các nước Châu á. Lượng vốn đầu tư từ các nước này chiếm 25% tổng vốn FDI vào Việt Nam nên khi các nước này gặp khó khăn về tài chính thì ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình thu hút FDI của Việt Nam. Ngoài ra, còn một số nguyên nhân chủ quan khác về phái Việt Nam. Đó là hệ thống pháp luật và chính sách đối với đầu tư nước ngoài của Việt Nam chưa hàn thiện, kết cấu hạ tầng yếu kém, lạc hậu, các thủ tục hành chính còn rườm rà, nhiều cửa, ...
Cơ cấu vốn FDI theo ngành giai đoạn 1996-1999
NGàNH
Tỷ TRọNG VốN FDI
Công nghiệp và xây dựng
Trong đó: Công nghiệp nặng
Dầu khí
Công nghiệp nhẹ
Xây dựng
Nông - Lâm - Ngư nghiệp
Trong đó: Nông lâm nghiệp
Thủy sản
Dịch vụ
Trong đó: Khách sạn du lịch
Dịch vụ
Xây dựng văn phòng, căn hộ
Xây dựng hạ tầng khu CN
GTVT và bưu điện
Văn hóa - Y tế - Giáo dục
Tài chính, ngân hàng
62,1
19,0
12,2
13,8
4,8
11,9
6,9
6,3
0,6
10,7
0,2
9,4
3,3
2,9
1,0
3,4
tổng số
100,0
Qua bảng trên ta thấy cơ cấu đầu tư vẫn còn mất cân đối giữa các ngành và các vùng, tỷ trọng đầu tư chủ yếu và các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, ... Đầu tư chủ yếu vào các lĩnh vực nhà hàng, khách sạn, kinh doanh du lịch,... có xu hướng tăng, trong khi đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất lại có xu hướng giảm.
Từ nguồn vốn ODA :
Để đảm bảo nức tăng trưởng kinh tế thời kỳ 1996-2000 thì nhiệm vụ đặt ra đối với nguồn ODA là phải thu hút được 7,5 tỷ đô la đầu tư có hiệu quả. Khác với nguồn FDI, mặc dù dưới áp lực của khủng hoảng kinh tế châu á các nhà tài trợ vẫn cam kết không giảm nguồn vốn đối với Việt Nam. Bình quân mỗi năm, lượng ODA cam kết vẫn giữ ở mức 2,2-2,3 tỷ đô la, tức là nguồn vốn ODA cam kết cho Việt Nam giai đoạn 1996-2000 là khoảng 10 tỷ đô la. Tuy nhiên mức độ giải ngân so với con số đã cam kết còn quá thấp. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì tỷ lệ giải ngân của thời kỳ 1995-1997 chỉ đạt khoảng 32-42%, thời kỳ 1998-1999 có mức cao hơn vào khoảng 60%. Với mức độ giải ngân như vậy chỉ đáp ứng được 70% nhu cầu về vốn ODA của Việt Nam trong cả thời kỳ. Lý do cơ bản của tình trạng mức giải ngân thấp là do sự thiéu đồng bộ giữa luồng vốn cam kết chảy vào so với tốc độ sử dụng chi tiêu. Mặt khác, còn có những ls do về thủ tục hành chính rườm rà về xây dựng, phê duyệt, các thủ tục thực hiện dự án. Những năm đầu, tiến độ giải ngân thấp còn do lý do lúng túng về việc tiến hành các thủ tục giải ngân.
Trong những năm vừa qua, lượng vốn ODA phân bổ theo ngành được sắp xếp theo thứ tự là năng lượng, giao thông, nông nghiệp và các lĩnh vực xã hội. Như vậy, có thể nói phần lớn ODA (80%) trong thời gian qua được sử dụng chủ yếu để đầu tư vào cơ sở hạ tầng của nền kinh tế. Lượng ODA đầu tư cho nông nghiệp - nông thôn và các lĩnh vực xã hội khác có tăng lên nhưng vẫn chưa thể hiện được sự ưu tiên của nhà nước. Theo đánh giá của UNDP, lượng ODA trong thời kỳ 1996-2000, đầu tư cho các lĩnh vực xã hội mới đạt 5,5% tổng ODA, trong khi đó theo quy định của Hội nghị Quốc tế về sử dụng ODA tại Hà Nội năm 1998 thì lượng này phải chiếm 20%.
Nguồn vốn ODA đã bắt đầu được phân bố đồng đều hơn theo vùng. Đặc biệt, kể từ năm 1997 ODA đã được dành nhiều hơn cho các vùng nghèo đói, vùng núi cao và nông thôn. Tuy vậy, nhìn tổng thể thì tỷ trọng ODA dành cho các thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh,... vẫn nhiều hơn đáng kể. Nếu tính chỉ tiêu ODA trên một người dân thì con số này ở Hà Nội là 16 đô la, ở Thành phố Hồ Chí Minh cao hơn, khoảng 7 đô la. Trong khi đó ở các vùng núi phía bắc, con số này chỉ khoảng 4 đô la, đồng bằng sông Cửu Long là 2 đô la.
Phân bổ ODA theo vùng lãnh thổ và một số tỉnh, thành phố
Vùng
ODA (Triệu USD)
Tỷ lệ phân bổ
1996
1997
1998
1996
1997
1998
Vùng núi phía Bắc
Đồng bằng sông Hồng
Không kể Hà Nội
Cả Hà Nội
Duyên hải Bắc Trung Bộ
Duyên hải Nam Trung Bộ
Tây Nguyên
Đông Nam Bộ
Không kể TP.HCM
Cả TP.HCM
Đồng bằng sông Cửu Long
Tổng cộng
51,3
78,4
48,8
29,6
43,9
39,2
23,8
54,2
29,9
24,3
36,1
327,2
77,9
89,0
56,3
32,7
62,8
61,9
17,6
69,6
32,2
37,4
58,0
437,1
128,6
192,6
120,6
72,1
61,1
62,3
26,5
118,6
68,5
50,0
105,1
695,2
15,6
23,9
14,9
9,0
13,4
11,9
7,2
16,5
9,1
7,4
11
100
17,8
20,3
12,9
7,4
14,3
14,1
4,0
15,9
7,3
8,5
13,2
100
18,5
27,7
17,3
10,3
8,8
8,9
3,8
17,0
9,8
7,2
15,1
100
Từ nguồn vốn vay thương mại nước ngoài:
Vay thương mại nước ngoài là một hình thức mới mẻ ở nước ta nên quy mô sử dụng nguồn vốn này còn khá khiêm tốn và thất thường trong thời kỳ từ 1991 đến nay. Hiện nay, theo số liệu của một số chuyên gia tài chính thì khoản vay nợ của các doanh nghiệp ở Việt Nam khoảng 4 tỷ đô la, chủ yếu là vay ngắn hạn.
Quy mô sử dụng nguồn vốn vay này ở Việt Nam còn thấp , chủ yếu là do cơ chế quản lý còn lỏng lẻo, kinh nghiệm và trình độ quản lý vốn vay và trả nợ của các doanh nghiệp còn yếu kém. Vì vậy, nhìn chung, các doanh nghiệp chưa dám mạnh dạn vay nợ. Mặt khác, ở Việt Nam, thị trường chứng khoán trong nước chưa xuất hiện và thị trường chứng khoán quốc tế cũng chưa có nên càng gây khó khăn trong việc thực hiện nguồn vốn vay thương mại.
II. Kết luận:
Từ việc phân tích các khía cạnh đảm bảo vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế giai đoạn 1996-2000 tôi có các kết luận chủ yếu sau đây:
Trong 5 năm vừa qua hoạt động thu hút vốn cho đầu tư phát triển kinh tế đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Lượng vốn huy động được từ các nguồn có xu hướng ngày càng gia tăng mặc dù có tác động từ các yếu tố trong nước và ngoài nước. Đồng thời quá trình cải cách kinh tế ngày càng vững chắc đã củng cố thêm nhiều niềm tin cho các nhà đầu tư và tăng thêm uy tín của Việt Nam trên thị trường vốn quốc tế. Đây là những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh quá trình thu hút vốn đầu tư tăng trưởng.
Tuy đạt được những thành tựu đáng kể nhưng trong 5 năm vừa qua vốn đầu tư chỉ đáp ứng hơn 60% nhu cầu vốn cho phát triển kinh tế. Vốn tồn đọng trong dân cư còn nhiều, vốn ngân sách nhà nước còn khá dàn trải và sử dụng chưa có hiệu quả, vốn ODA cam kết ở mức cao nhưng tốc độ giải ngân còn chậm,...
Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan gây ra. Về khách quan, phải kể đến trình độ phát triển kinh tế thấp, chưa thực sự hội nhập được của nền kinh tế nước ta. Ngoài ra cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực đã phần nào làm chậm quá trình cải cách. Về mặt chủ quan, thì đó là môi trường chính sách còn nhiều điểm chưa nhất quán, chưa phù hợp, hệ thống cơ sở hạ tầng thấp kém, trình độ quản lý còn non yếu,...
Tất cả những hạn chế trên đang dần được tháo gỡ với quyết tâm cao thực hiện một chiến lược phát triển kinh tế trong thập kỷ tới.
chương iii:
dự báo về đảm bảo nhu cầu vốn đầu tư
cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong kế hoạch 5 năm 2001-2005
cơ sở xác định mục tiêu và nhu cầu:
Bối cảnh trong nước:
Tích lũy vốn từ nội bộ nền kinh tế có tiến bộ, vốn nhàn rỗi trong dân còn khá nhiều là yếu tố thuận lợi trong chiến lược phát triển.
Thời gian qua nguồn vốn trong nước chiếm tới 60% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư còn nhiều, chưa được phát huy. Trong khi GDP bình quân đầu người của Việt Nam chỉ bằng 50% của Trung Quốc, thì tỷ lệ tích lũy nội bộ của Việt Nam khoảng 25% GDP cũng chỉ bằng gần bằng 2/3 tỷ lệ của Trung Quốc (tức là khả năng sử dụng vốn cho đầu tư phát triển tính bình quân đầu người của Trung Quốc gấp hơn ba lần nước ta). Do đó cần có những lựa chọn chặt chẽ, ưu tiên sử dụng vốn ngân sách vào phát triển có trọng điểm kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội là chính, không để nền kinh tế bị "sa lầy" vào nhiều công trình quy mô lớn, đặc biệt là công trình công nghiệp vượt sức cân đối của nền kinh tế, chậm mang lại hiệu quả khi nguồn tích lũy vốn còn thấp.
Bối cảnh quốc tế và khu vực:
Bối cảnh quốc tế và khu vực là điều kiện bên ngoài tác động rất lớn hoặc quyết định đến sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Tác động đó nhiều hay ít, mạnh hay yếu còn tùy thuộc vào trình độ phát triển của mỗi quốc gia trong những hoàn cảnh cụ thể. Dòng vốn đầu tư là một trong những khía cạnh chịu sự ảnh hưởng của sự tác động đó.
Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI đến các nước đang phát triển có suy giảm do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực, từ năm 1999 có xu thế phục hồi, song cạnh tranh thu hút FDI trên thế giới và khu vực diễn ra ngày càng gay gắt.
Trong những năm qua, toàn cầu hóa và tự do hóa đã tạo điều kiện thuận lợi cho các dòng vốn FDI đến với các nền kinh tế đang phát triển. Chỉ tính trong 8 năm từ 1991-1998, dòng vốn FDI đến các nước đang phát triển tăng 6 lần. Nếu năm 1991, tỷ lệ vốn FDI đến các nước đang phát triển chỉ chieems 25% trong tổng số vốn trên toàn thế giới thì đến năm 1998 con số này đạt 42%. Tỷ lệ vốn FDI so với GDP của các nước đang phát triển có xu hướng tăng, có 25 nước đang phát triển (có dân số trên 1 triệu người) đạt tỷ lệ này từ 2% trở lên.
Tính đến hết năm 1999, FDI từ các nước châu á vào Việt Nam chiếm 67% vốn FDI của Việt Nam, trong đó các nước ASEAN khoảng 23%; Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông chiếm 40,5%. Tuy vậy, từ sau khủng hoảng tài chính - tiền tệ, FDI của các nước trong khu vực giảm rõ rệt vì các công ty mẹ phá sản hoặc gặp khó khăn, từ 1999 bắt đầu phục hồi, song cạnh tranh trong thu hút FDI trên thế giới và trong khu vực diễn ra ngày càng gay gắt. Hiện nay 3/4 vốn FDI trên thế giới là đầu tư lẫn nhau giữa các nước phát triển, do có sự liên kết giữa các công ty đa quốc gia của Mỹ - Nhật Bản - Tây âu; 2/3 của số vốn FDI còn lại bị thu hút vào cấc thị trường đầu tư lớn như Trung Quốc, Braxin, Mêxico, Achentina, Ba lan, Chilê, Malaixia, Vênêzuêla, Nga, Thái Lan, trong khi đó các nước có thu nhập thấp chỉ tiếp nhận được khoảng 7% của số FDI còn lại, bằng 1/10 của 10 nước trên. Hàn Quốc và các nước ASEAN đã và đang cải thiện môi trường thu hút đầu tư FDI nhằm vươn lên trên các nước khác, coi đó là giải pháp chiến lược phục hồi và phát triển kinh tế. Chính điều này tạo nên sự cạnh tranh và thách thức to lớn đối với Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh môi trường đầu tư hiện nay so với các nước xung quanh bị đánh giá là mất dần tính cạnh tranh và độ rủi ro cao hơn các nước trong khu vực. Với thành tựu của công cuộc đổi mới, trong điều kiện hội nhập, nếu xử lý tốt các mối quan hệ đối ngoại, tạo ra tình thế mới cho đất nước thì khả năng thu hút FDI và gắn với nó là công nghệ tiên tiến hiện đại có thể tăng lên. Trái lại, nếu không phát huy tốt nội lực đi đôi với cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư kinh doanh thì có khả năng bị tiếp tục rơi vào thế yếu trong cạnh tranh thu hút vốn và công nghệ.
Dòng vốn hỗ trợ chính thức với các điều kiện ưu đãi ODA đến các nước đang phát triển có xu hướng giảm dần.
Trong năm 1998, nguồn vốn hỗ trợ chính thức với các điều kiện ưu đãi đến các nước đang phát triển chỉ còn 32,7 tỷ USD, thấp hơn 12 tỷ USD so với năm 1990. Nguồn vốn hỗ trợ chính thức giai đoạn từ 1994-1998 như sau:
1994
1995
1996
1997
1998
Nguồn vốn hỗ trợ chính thức với các điều kiện ưu đãi
45,8
44,7
40,1
33,4
32,7
Viện trợ
32,4
32,3
28,9
25,7
23,0
Mục tiêu và nhu cầu vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2005:
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong kế hoạch 5 năm 2001-2005:
Kế hoạch 5 năm 2001-2005 là bước rất quan trọng trong việc thực hiện chiến lược 2001-2010 nhằm mục tiêu tổng quát : Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nâng cao rõ rệt chất lượng, sức cạnh tranh và hiệu quả phát triển kinh tế. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Tạo chuyển biến mạnh mẽ về phát huy nhân tố con người, giáo dục - đào tạo - khoa học - công nghệ. Giải quyết có hiệu quả vấn đề việc làm, cơ bản xóa đói, giảm số hộ nghèo; đẩy lùi các tệ nạn xã hội; ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; xây dựng một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tạo tiền đề để cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Giữ vững ổn định chính trị và an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Phấn đấu đạt nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước ít nhất 7%/năm.
Xác định nhu cầu về vốn cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế:
Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế phải đạt tốc độ từ 7,0-7,5%và chuẩn mực hệ số ICOR khoảng 4,5 thì theo mô hình Harrod-Dorma nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển kinh tế giai đoạn 2001-2005 là 55 tỷ đô la. Tốc độ tăng vốn đầu tư hàng năm là vào khoảng 7,8%.
Để đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững, cần phải có sự tương ứng của vốn trong nước và vốn ngoài nước với tỷ lệ 1 đồng vốn nước ngoài cần có 1-1,2 đồng vốn trong nước. Như vậy nhu cầu vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế sẽ được đáp ứng bằng 55% vốn trong nước, 45% bằng vốn nước ngoài.
Các quan điểm để đảm bảo tăng trưởng:
Cố gắng đảm bảo đủ vốn theo nhu cầu đầu tư phát triển
Coi trọng đồng thời cả hai nguồn, trong đó vốn trong nước là quyết định, còn vốn đầu tư nước ngoài là quan trọng.
Chú trọng khai thác và tạo lập nguồn vốn của khu vực tư nhân, coi như đây là bộ phận chủ đạo của vốn đầu tư trong nước.
Tận dụng mọi cơ hội, khai thác triệt để các nguồn đầu tư nước ngoài.
Xác định chính xác các đặc điểm và sự vận động của từng loại nguồn vốn, đảm bảo tính hiệu quả kinh tế, cũng như các yêu cầu phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật cho đất nước.
Những dự báo về đảm bảo nhu cầu vốn đầu tư cho tăng trưởng kinh tế giai đoạn 2001-2005:
Khả năng tăng trưởng thời kỳ 2001-2005:
Để ước tính khả năng tăng trưởng GDP trong giai đoạn 2001-2005, ta xét các hướng tiếp cận sau đây:
Các kỷ lục về tăng trưởng kinh tế trong khu vực:
Một số nước và vùng lãnh thổ đã đạt được nhịp tăng trưởng kinh tế cao trong một thời gian daì 10-20 năm, điển hình trong số này phải kể đến: (Trong bảng sau).
Tình hình tăng trưởng cao ở một số nước và vùng lãnh thổ
1971-1980
1981-1990
1991-1995
Các nước và vùng lãnh thổ công nghiệp mới
Hàn Quốc
Đài Loan
Trung Quốc
Các nước Đông Nam á
Thái Lan
Malaixia
Inđônêxia
9,0
9,3
9,3
7,9
7,4
7,9
7,5
7,7
8,8
7,2
8,5
10,1
6,1
7,8
5,2
5,5
7,5
6,6
13,0
8,5
8,6
7,8
Nhận xét: Trong 10-20 năm liên tục, rất ít nước đạt mức tăng trưởng bình quân 9%-10%/năm, các nước Đông Nam á chỉ đạt mức trên dưới 7%.
Mặt khác đại đa số các nước trong khu vực đều có nhịp tăng trưởng thấp trong một thời gian dài.
b. Mô phỏng hạch toán tăng trưởng:
Để tính toán cho các nước đang phát triển, các chuyên gia quốc tế thường ước tính đối với các yếu tố đầu vào: vốn đóng vai trò lớn hơn, từ 60-70%, trong khi lao động đóng góp 30-40%. Trong mô hình tăng trưởng có thể lấy mức đóng góp của lao động là 30% và của vốn là 70% và TFP trong khoảng từ 2% đến 2,5% cho giai đoạn 2001-2005, mức tăng trưởng 7%-8% năm.
TT vốn
(1)
TT Lao động
(2)
TT TFP
(3)
TT GDP
0,7(1)+0,3(2)+(3)
6
7
8
2
2
2
2
2
2
6,8
7,5
8,2
6
7
8
2,5
2,5
2,5
2,5
2,5
2,5
7,45
8,15
8,85
Lựa chọn phương án tăng trưởng và cơ cấu kinh tế Việt Nam trong giai đoạn 2001-2005:
Những cách tiếp cận trên cho thấy, dưới những tiền đề khác nhau mức tăng trưởng GDP bình quân năm của giai đoạn 2001-2005 còn tùy thuộc vào các yếu tố nội lực và bối cảnh quốc tế. Các nhân tố sau đây là những nhân tố tích cực thúc đẩy sự tăng trưởng cao của đất nước:
Thực tiễn 5 năm vừa qua khẳng định tính đúng đắn của đường lối mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng. Tiếp tục đường lối đổi mới một cách sâu rộng sẽ là một tiền đề quan trọng cho sự phát triển đất nước ta trong thời gian tới.
Xem xét các yếu tố sản xuất có thể thấy, yếu tố thúc đẩy tăng trưởng cao trong giai đoạn 1991-1997 là vốn đầu tư. Yếu tố lao động (không tay nghề) đóng góp chủ yếu ở khu vực nông nghiệp và dịch vụ. Hàm lượng khoa học kỹ thuật trong tăng trưởng chưa cao, nếu có chính sách đầu tư đúng đắn để nâng cao hàm lượng này thì đây là một yếu tố tích cực tác động tới tăng trưởng cao.
Tiềm lực khu vực dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ sản xuất vẫn còn to lớn.
Các phương án tăng trưởng
Phương án tăng trưởng bền vững với mức khả thi cao:
Phương án này (gọi là phương án chủ) được thiết kế theo giả thiết hết nawm 2000 đất nước ta về cơ bản đã chặn được đà suy giảm tăng trưởng; trong giai đoạn đầu đến năm 2005 các yếu tố nội lực được phát huy tốt, các yếu tố ngoại lực ở mức trung bình (tương ứng với mức tăng trưởng vốn cố định khoảng 7% bình quân năm, thu hút lao động thêm vào các ngành kinh tế quốc dân khoảng 2,5% và đóng góp của khoa học công nghệ vào tăng trưởng khoảng 1,8%). Nhờ chuyển dịch cơ cấu đầu tư tốt nên hiệu quả vốn tăng dần.
Như vậy, theo phương án chủ, trong giai đoạn 2001-2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP hàng năm ở mức 7,0% - 7,5%. Trong đó, nông nghiệp 3,3% - 3,6%, công nghiệp và xây dựng tăng 9% - 10%, dịch vụ tăng 6,3% - 6,7%.
Với tốc độ tăng trưởng như trên, đến năm 2005 tỷ trọng các ngành nông lâm ngư nghiệp, công nghiệp và xây dựng dịch vụ trong GDP tương ứng là 21% - 36,9% - 42,1% và đến năm 2010 là 17,3% - 36,9% - 43,2%.
Các chỉ tiêu tương ứng:
2000
2005
2010
GDP/người
(USD giá hiện hành)
Các giả thiết
Đầu tư trong nước/ GDP(%)
400
17
620
18
1030
19,5
1996-2000
2001-2005
2006-2010
ICOR
Lạm phát (%)
Tốc độ tăng dân số (%)
4
6,5-7,0
1,3
4
6,2-6,7
1,2
Với mức ICOR ổn định ở mức 4, tốc độ tăng trưởng từ 7% - 7,5% thì theo công thức :
s
g = ––
k
s = g.k
Nhu cầu vốn đầu tư cho tăng trưởng từ 28 - 30 tỷ đô la.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) khoảng 10 - 12 tỷ USD, vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) khoảng trên dưới 9 tỷ USD cho kế hoạch 5 năm.
Với mức nhu cầu vốn đầu tư này tương đối hiện thực, giữ tỷ suất vốn ổn định ở mức 4 có thể thực hiện được bởi các lý do sau:
Tỷ suất vốn khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đang có xu thế giảm:
Năm 1996 là 5,82
Năm 1997 là 5,13
Năm 1998 là 3,94
Trong khi đó tỷ trọng GDP của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có hướng gia tăng: năm 1995 là 6,3%, năm 1996 là 7,39%, năm 1997 là 9,07% và năm 1998 là 10,12% tổng GDP cả nước.
Nâng tỷ lệ vốn đầu tư trong nước so với GDP khoảng 17% năm 2000 lên 18% vào năm 2005.
Để nền kinh tế đạt được mức tăng trưởng đòi hỏi mức tăng bình quân năm của ngành nông nghiệp từ 3,3% - 3,6%, công nghiệp và xây dựng 9% - 10%, dịch vụ khoảng 6,5 - 6,6%. Mức tăng trưởng đối với các ngành là không cao so với thời kỳ 1991-1996 và nhìn chung nhiều nước đã đạt được mức này trong quá trình phát triển.
Mức lạm phát trung bình khoảng 6,5 - 7,0% trong giai đoạn 2001-2005.
Nếu năng suất lao động (tính bằng GDP/lao động) vẫn giữ mức tăng như thời kỳ 1991-1997 là 5,41% bình quân năm thì tốc độ tăng trưởng GDP có thể đạt mức 6,9% - 7,4% (lao động nền kinh tế quốc dân tăng mức 1,5% - 2% tùy theo tỷ lệ đi học, đào tạo).
Nhìn chung, cơ cấu ngành kinh tế đến năm 2005 hợp lý nếu so sánh với số liệu quá khứ của các nước xung quanh lúc có trình độ phát triển như nước ta (nông nghiệp khoảng 17%, công nghiệp và xây dựng 40%, dịch vụ khoảng 43%).
Với mức k = 4 phương án tăng trưởng có thể thực hiện được, một mặt vừa đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế đặt ra, một mặt vừa có khả năng đáp ứng nhu cầu vốn cho phát triển và tăng trưởng kinh tế.
Tăng trưởng ở mức cao:
Phương án này (gọi là phương án so sánh) với giả thiết giai đoạn 2001-2005 cả hai yếu tố nội lực và ngoại lực đều ở mức rất thuận lợi ( tăng trưởng vốn cố định khoảng 8% bình quân năm, thu hút thêm 2,5% lao động và đóng góp của khoa học, công nghệ (bao gồm cả các yếu tố đổi mới chính sách và quản lý ) đóng góp khoảng 2% năm vào tăng trưởng GDP).
Theo phương án này, trong giai đoạn 2001-2005, GDP tăng trưởng bình quân năm 7,8% - 8,2%; trong đó : nông lâm ngư nghiệp tăng 3,8 - 4,2%, công nghiệp và xây dựng tăng 10,2% - 10,6%, dịch vụ tăng 7,6% - 8%. Trong giai đoạn 2006-2010, GDP tăng trưởng bình quân năm 7,4% - 7,6%; trong đó : nông lâm ngư nghiệp tăng 3,4% - 3,7%, công nghiệp và xây dựng tăng 9,2% - 9,7%, dịch vụ tăng 7% - 7,4%. Giai đoạn 2001-2010, nhịp tăng bình quân năm của GDP dự kiến trong khoảng 8,5% - 9%.
Các chỉ tiêu cơ bản tương ứng với phương án này như sau:
2000
2005
2010
Dân số (triệu người)
77,9
83,3
88,6
GDP / người
(USD theo giá hiện hành)
400
644
1095
Các giả thiết
Đầu tư trong nước/GDP(%)
17
19
21
1996-2000
2001-2005
2006-2010
ICOR
Lạm phát (%)
Tốc độ tăng dân số (%)
3,6
6,5-7
1,3
3,7
6,2-6,7
1,2
Với mức giả thiết k = 3,6 thì nhu cầu vốn đầu tư cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế 7,8% - 8,2% phải cần số vốn là 28,08 - 29,52 tỷ USD.
Tuy nhiên, trong 10 năm tới, đặc biệt là trong kế hoạch 5 năm từ 2001-2005 phương án này ít có khả năng h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 62820.doc