Đề tài Thực trạng về giải quyết việc làm ở Việt Nam

Có thể nói trong chặng đường phát triển của nước ta,đây là thời kỳ ngành lao động phải đối mặt với những khó khăn gay gắt do chiến tranh và hậu quả của chiến tranh kéo dài gây ra và cả cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp và cũng là thời kỳ nhưng có nhiều trăn trở trong chính sách lao động việc làm.

Nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, lạm phát ngày càng tăng,thu nhập thực tế và đời sống của công nhân viên chức và người dân bị giảm sút nghiêm trọng. Trước những khó khăn đó nhà nứơc ta đưa ra một phương án cải thiện tiền lương một cách tổng thể đã được xây dựng và trình để Chính phủ ban hành nghị định 235/HĐBT ngày 19/8/1985. Chính sách cải tiến tiền lương đã được thực hiện và cải thiện một phần đời sống của công nhân viên chức. Cùng với chế độ cải cách tiền lương, chính sách Bảo hiểm xã hội cũng được điều chỉnh sửa đổi cho phù hợp (Nghị định 236/HĐBT ngày 19/8/1985) Chính sách này nhằm tạo ra động lực mới để phát triển kinh tế xã hội cho đất nước.

 

doc27 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1661 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng về giải quyết việc làm ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sinh viên đại học, cao đẳng, tỷ lệ đặt ra là 25% vào năm 2005. 3.2./Sức khoẻ - yếu tố tác động đến chất lượng lao động Con người cần phải có sức khoẻ thì mới làm được mọi việc. Sức khoẻ làm tăng chất lượng của nguồn nhân lực cả hiện tại và tương lai, người lao động có sức khoẻ tốt có thể mang lại năng sức lao động cao, cho ra những sản phẩm tốt, tạo ra thu nhập cao cho xã hội. Cho nên việc nuôi dưỡng và chăm sóc sức khoẻ cho trẻ em là yếu tố làm tăng năng suất lao động trong tương lai, giúp trẻ em phát triển thành những người khoẻ mạnh cả về thể chất lành mạnh về tinh thần.Hơn nữa điều đó giúp trẻ em nhanh chóng đạt được những kỹ năng, kỹ xảo cần thiết cho sản xuất thông qua giáo dục ở nhà trường. Những khoản chi cho sức khoẻ còn làm tăng Nguồn nhân lực về mặt sản lượng bằng việc kéo dài tuổi thọ lao động. Một trong số những vấn đề cần giải quyết văn hoá xã hội trong giai đoạn 2000./2005 là: Cải thiện các chi tiêu cơ bản về sức khoẻ cho mọi người, từng bước nâng cao thể trạng và tầm vóc trước hết là nâng cao thể lực bà mẹ và trẻ em.Thực hiện chương trình dinh dưỡng quốc gia giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em dưới 5 tuổi từ 22% năm 2000 xuống còn dưới 10% năm 2005.Đưa tỷ lệ dân số có mức ăn dưới 2000calo/người xuống dưới 7%. II./ Giải quyết việc làm trong kế hoạch phát triển nguồn nhân lực. 1./Kế hoạch hoá phát triển nguồn nhân lực a./Kế hoạch hoá phát triển nguồn nhân lực là gì ? Là một bộ phận trong hệ thống Kế hoạch hoá phát triển Kinh tế Xã hội. Nó xác định quy mô, cơ cấu, chất lượng, bộ phận dân số tham gia hoạt động kinh tế.Xác định những chỉ tiêu nguồn nhân lực như:tỷ lệ lao động có việc làm, tỷ lệ % thất nghiệp và mức thất nghiệp trung bình của người lao động và xác định những chính sách chủ yếu để xây dựng và điều phối nguồn nhân lực một cách có hiệu quả nhằm thực hiện các mục tiêu tăng trưởng kinh tế và các mục tiêu phúc lợi xã hội khác của quốc gia trong thời kỳ kế hoạch. b./Kế hoạch hoá lực lượng lao động. Kế hoạch hoá lực lượng lao động là bộ phận kế hoạch biện pháp trong hệ thống kế hoạch phát triển,vì nó phục vụ cho một số kế hoạch mang tính chất kế hoạch mục tiêu, kế hoạch tăng trưởng, kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế, kế hoạch phát triển bền vững...Kế hoạch biện pháp là để thực hiện các kế hoạch đặc biệt là kkế hoạch tăng trưởng kinh tế. Kế hoạch lực lượng lao động là một bộ phận của kế hoạch mục tiêu, trong nội dung của kế hoạch có bao hàm các mục tiêu chỉ tiêu mang tính hướng đạo của nền kinh tế.Do đó, khi xác định kế hoạch hoá lực lượng lao động xét cả hai mặt bị tác động của nó, mặ thứ nhất nó mang tính bị động phụ thuộc vào các kế hoạch khác, lấy kế hoạch khác làm cơ sở để thực hiện vì nó là kế hoạch biện pháp, mặt khác nó mang tính chủ động, vì nó là kế hoạch mục tiêu, là nền tảng cho việc thực hiện các kế hoạch khác của xã hội. 2./Nội dung Một là: Nhận thức về việc làm và cách thức giải quyết việc làm của nhà nước,của người lao động và sử dụng lao động đã có sự thay đổi lớn. nhà nước xây dựng và thực hiện Bộ luật lao động tạo điều kiện thuận lợi để mọi người đều có cơ hội tự tạo việc làm cho mình, tìm việc theo đúng khả năng và giải quyết việc làm cho những người khác. Nhận thức mới này bắt đầu từ thưch tiễn, được thể hiện trong nghị quyết 120/HĐBT ngày 11/4/1992 đã được ghi nhận trong Bộ luật lao động năm 1994. Hai là: Mở rộng quan hệ kinh tế trong lĩnh vực lao động - việc làm để thu hút và sử dụng sự giúp đỡ về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm của nước ngoài và các tổ chức quốc tế để giải quyết việc làm cho người lao động,thông qua phát triển sản xuất nhờ đố nhiều người tìm kiếm được việc làm cụ thể hoặc tự tạo ra việc làm như: cho vay với lãi suất ưu đãi theo các dự án nhỏ giải quyết việc làm: thành lập các trung tâm xúc tiến việc làm, mở rộng sản xuất để tạo ra việc làm cho công việc thu hút nhiều người lao động. Ba là: Phát triển nhiều hình thức, mô hình giải quyết việc làm đã thu hút sử dụng hiệu quả sự giúp đỡ về vốn và kỹ thuật của nhà nước,đây là một cách làm mới về giải quyết việc làm trong cơ chế thị trường.Việc xác định các chuẩn mực và phương pháp quản lý, tổ chức các cuộc điều tra lao động-việc làm đã được nhà nước quan tâm trên các mặt:tài chính và nhân lực. Những kết quả đó tạo cơ sở cho việc xây dựng và tổ chức thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm theo Bộ luật lao động. 3./Yêu cầu giải quyết việc làm và vấn đề phát triển nguồn lao động 3.1./Trong ngắn hạn Trước mắt phải cung cấp đủ lực lượng lao động cho xã hội cả về số và chất lượng để đảm bảo cho sự phát triển kinh tế của xã hội. Vấn đề giải quyết việc làm ở nước ta được xem là vấn kinh tế xã hội rất tổng hợp và phức tạp. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2001 đã khẳng định: “Giải quyết việc làm sử dụng tối đa tiềm năng lao động xã hội là mục tiêu quan trọng hàng đầu của chiến lược,là một tiêu chuẩn để định hướng cơ cấu kinh tế và lựa chọn công nghệ” Trên phạm vi rông, giải quyết việc làm bao gồm những vấn đề liên quan đến phát triển nguồn nhân lực và số lượng có hiệu quả nguồn nhân lực còn trên phạm vi hẹp, giải quyết việc làm chủ yếu hướng vào đối tượng và mục tiêu giảm tỷ lệ thất nghiệp, khắc phục tình trạng thiếu việc làm, nâng cao hiệu quả việc làm và tăng thu nhập. 3.2./Lâu dài ở nước ta cung lao động > cầu lao động. cân đối lao động bằng cách giảm tỷ lệ tăng dân số để giảm cung lao động, hạn chế mức chênh lệch quá lớn giữa cung và cầu lao động là một yêu cầu để giải quyết việc làm. Đây là yêu cầu cơ bản, bao trùm là phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực. Phát triển nguồn nhân lực lại luôn được gắn với chênh lệch phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong giai đoạn hiện nay chênh lệch phát triển kinh tế xã hội ở nước ta phải từng bước được điều chỉnh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Điều đó đòi hỏi phải thay đổi cả về cơ cấu và chất lượng cung lao động cho phù hợp với nhu cầu về lao động hay nhu cầu về giải quyết việc làm trong tương lai. 4./Vai trò giải quyết việc làm với phát triển kinh tế xã hội a./Giải quyết việc làm với công bằng xã hội Giữa chính sách giải quyết việc làm với vấn đề công bằng xã hội (xét chủ yếu về mặt kinh tế có mối quan hệ qua lại gắn bó với nhau. Sự công bằng được xem như là hệ quả của việc thực hiện tốt các chính sách xã hội. Một xã hội sẽ khônh thể có sự công bằng nếu như xã hội đó không quan tâm giải quyết tốt các chính sách xã hội, chính sách giải quyết việc làm kể cả xã hội đó có mức tăng trưởng kinh tế cao. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đảng và nhà nước luôn xác định phải gắn liền nhiệm vụ bảo đảm công bằng xã hội trong từng bước, từng giai đoạn phát triển kinh tế với vấn đề giải quyết việc làm nói riêng và tăng trưởng kinh tế nói chung. b./ Giải quyết việc làm với phát triển kinh tế Giải quyết việc làm là một bộ phận của kế hoạch phát triển nguồn nhân lực, nó tạo ra đầu vào cho quá trình sản xuất, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động. Sự phát triển kinh tế suy cho đến cùng là tăng trưởng kinh tế để nâng cao đời sống vật chất tư tưởng cho con người. ở nước ta, giải quyết việc làm có vai trò rất quan trọng với phát triển kinh tế. Mức tiền công lao động ở nước ta hiện nay nói chung là thấp,nó phản ánh khả năng sản xuất chưa tăng lên làm ảnh hưởng tới phát triển kinh tế. Do đó trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000 ở Việt Nam đã xác định rõ: Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người và do con người. Phần II Thực trạng về giải quyết việc làm ở Việt Nam I./Phân tích các chính sách giải quyết việc làm 1./Thời kỳ 1986 trở về trước: Có thể nói trong chặng đường phát triển của nước ta,đây là thời kỳ ngành lao động phải đối mặt với những khó khăn gay gắt do chiến tranh và hậu quả của chiến tranh kéo dài gây ra và cả cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp và cũng là thời kỳ nhưng có nhiều trăn trở trong chính sách lao động việc làm. Nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, lạm phát ngày càng tăng,thu nhập thực tế và đời sống của công nhân viên chức và người dân bị giảm sút nghiêm trọng. Trước những khó khăn đó nhà nứơc ta đưa ra một phương án cải thiện tiền lương một cách tổng thể đã được xây dựng và trình để Chính phủ ban hành nghị định 235/HĐBT ngày 19/8/1985. Chính sách cải tiến tiền lương đã được thực hiện và cải thiện một phần đời sống của công nhân viên chức. Cùng với chế độ cải cách tiền lương, chính sách Bảo hiểm xã hội cũng được điều chỉnh sửa đổi cho phù hợp (Nghị định 236/HĐBT ngày 19/8/1985) Chính sách này nhằm tạo ra động lực mới để phát triển kinh tế xã hội cho đất nước. 2./Thời kỳ 1986 đến nay Đây là thời kỳ nền kinh tế đất nước chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trương có sự quản ký của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các chính sách kinh tế xã hội trong đó có chính sách lao động - việc làm đều hướng vào phát triển con người, lấy con người làm trung tâm. Chính sách về lao động việc làm đều nhằm mở rộng cơ hội cho mọi người có việc làm, được bảo vệ trong lao động và trong cuộc sống. a./Thuận lợi Có thể nói 15 năm qua chính sách lao động việc làm đã liên tục được bổ xung, hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp “Đổi mới” người lao động có thể làm việc ở mọi thành phần kinh tế mà không bị phân biệt đối xử. Nhiều chính sách về lao động đã góp phần rất lớn giải quyết vấn đề bức xúc trước mắt vừa có tính cơ bản lâu dài, vừa có ý nghĩa không chỉ có tính lý luận mà còn có tính thực tiễn rất lớn và để lại dấu ấn không phai mờ trong quá trình của người lao động. Vì vậy, các chính sách cho sự phát triển nguồn nhân lực thể hiện ở nhiều mặt với các mục tiêu cụ thể, trong đó các chính sách giải quyết trong phạm vi phát triển kỹ năng lao động và lao động thích nghi với việc làm như: - Phát triển lao động kỹ thuật - Phát triển việc làm tăng thu nhập - Trực tiếp và gián tiếp tác động tới số lượng, chất lượng nguồn nhân lực Trong thời kỳ này chính sách của ngành lao động đã phát triển đến một đỉnh cao trong lịch sử phát triển của ngành lao động nói chung và của lĩnh vực giải quyết việc làm nói riêng. Đó là việc quốc hội thông qua bộ luật lao động vào ngày 23/9/1994 và có hiệu lực vào ngày 1/1/1999. Bộ luật này bao gồm 17 chương 198 Điều đã được thể chế hoá nhiều nội dung của quan hệ lao động, phù hợp với cơ chế thị trường.Sau 5 năm thực hiện Bộ luật lao động đẫ chứng tỏ được tính đúng đắn về đường lối và chỉ đạo thực hiện của nhà nước ta trong lĩnh vực lao động. Có thể nói, các chủ trương chính sách về lao động việc làm trong thời ký đổi mới có vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề cơ bản về số lượng và chất lượng của nguồn nhân lực. Nó có tác động rất lớn đến tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội của đất nước, bảo đảm việc làm và ổn định đời sống cho hàng triệu lao động và gia đình họ. b./Khó khăn Bên cạnh những thuận lợi thúc đẩy cho chính sách giải quyết việc làm trước yêu cầu của sự nghịêp Công nghiệp hoá và Hiện đại hoá, hệ thống chính sách thể hiện những lỗ hổng và thiếu sót to lớn như: - Hệ thống chính sách chưa đầy đủ và đồng bộ Nhà nước ta đưa ra những chính sách về giải quyết việc làm nhưng chưa quan tâm đến hết mọi nguồn lao động. Ngoài ra, còn ưu tien đến một số người mà chưa quan tâm đúng mức đến các lao động có đời sống khó khăn. - Chính sách tiền lương chưa gắn với năng suất lao động xã hội - Chính sách tiền lương và bảo hiểm xã hội còn nhiều bất cập. - Sự thoái hoá biến chất của các cán bộ trong lĩnh vực lao động viẹc làm. Một số chính sách khác nữa, cũng xuất hiện những bất hợp lý. Vì vậy thời gian tới chúng ta phải tiếp tục sửa đổi một số điều khoản chưa phù hợp với luật lao đoọng cùng những văn bản liên quan. II./Hiện trạng nguồn nhân lực và giải quyết việc làm ở Việt Nam trong thời gian qua. 1./Hiện trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam trong thời gian qua 1.1./Tổng quan về nguồn nhân lực thời gian qua Nghị quyết đại hội VIII chỉ rõ: “Cùng với Khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sinh hàng đầu nhằm nâng coa dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Coi trọng cả 3 mặt: Mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả… phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH, tạo điều kiện cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên có việc làm. Để phát triển nguồn nhân lực, Nhà nước ta đề ra những chỉ tiêu phảI đạt được vào năm 2000 là: Nâng cao mặt bằng dân trí; Đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao chất lượng nhuồn nhân lực; Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học công nghệ đủ mạnh, đủ xức giải quyết những vấn đề dặt ratrong trương trình phát triển khoa học công nghệ. Phát triển bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài 1.2./Đặc điểm của nguồn nhân lực trong thời gian qua 1.2.1./Lợi thế so sánh về quy mô và chất lượng nguồn nhân lực. - Việt nam có quy mô dân số lớn và tháp dân số vào loại trẻ, số trẻ em dưới 16 tuổi chiếm tới 40% dân số, có nguồn lao động rất dồi dào, đặc biệt là lao động trẻ ở nhóm tuổi từ 16 á 35 chiếm 65,2% tổng số lực lượng lao động. Tốc độ tăng dân số tự nhiên có xu hướng giảm dần, trong mười năm qua (1989 á 1999) tỷ lệ tăng dân số là 1,7%/Năm. - Trình độ học vấn va dân trí của nguồn nhân lực cao, tỷ lệ dân số biết chữ chiếm 93%. Riêng lực lượng lao động biết chữ chiếm 97%. Tổng lực lượng lao động. Chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt nam vào loại khá (xếp thứ 110/175 nước năm 1999) so với nhiều nước chậm và đang phát triển. - Tỷ lệ lao động qua đào tạo có xu hướng tăng lên trong 4 năm từ 1996 đến 1999 bình quân hằng năm lao động qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật tăng 7,18%. Đến năm 1999 số lao động qua đào tạo là 18,9%, trong đó qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật chiếm 14,23% lực lượng lao động 1.2.2./ Những hạn chế - Dân số Việt nam trẻ về lâu dài là một thế mạnh, song trước mắt sẽ bất lợi về kinh tế, do bình quân số trẻ em phải nuôi dưỡng trên một lao động cao hơn các nước khác, gây trở ngại trong giải quyết việc làm và làm qua tải hệ thống giáo dục, y tế, cũng như các dịch vụ khác. - Số dân trong độ tuổi lao động ở Việt nam vẫn đang có xu hướng tăng lên. Theo dự báo đến năm 2005 chiếm khoảng 59,1% và 2010 chiếm khoảng 60.7% dân số, làm cho sức ép về việc làm càng gay gắt. - Lao động ở Việt nam tuy cần cù, tiếp thu nhanh khoa học kỹ thuật và công nghệ, có khả năng sáng tạo, song tính kỷ luật còn yếu, tác phong và văn hoá công nghiệp còn thấp. Với đặc điểm về số lượng và chất lượng lao động như trên đến năm 2005, để có thể giảm tỷ lệ thất nghiệp xuống còn 5% ở thành thị và nâng cao thời gian sử dụng lao động ở nông thôn lên 75% biến sự dư thừa lao động thành nguồn nhân lực chính tạo động lực cho phát triển kinh tế, và có khả năng tham gia một cách có hiệu quả vào hệ thống phân công lao động quốc tế. Nhà nước Việt nam cần và nhất thiết phải xây dựng được một hệ thống các biện pháp chính sách đồng bộ, hữu hiệu trong việc đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực, trong việc thu hút và giải quyết việc làm. 1.3./Hiện trạng phát triển nguồn nhân lực của Việt nam thời gian qua: a./ Hiện trạng phát triển nguồn nhân lực Thực hiện những chủ trương, trên sự phát triển nguồn nhân lực trong công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu quan trọng trên lĩnh vực giáo 1) Bảng 1 Bậc Thời kỳ Niên học 1985 – 1986 1998 – 1999 Học sinh tiểu học Học sinh PTCS Học sinh PTTH Sinh viên ĐH – CĐ 8168800 3142300 851300 121200 10247000 55777000 1653600 798857 Quy mô của dân số tương đối lớn (đứng thứ 13 trên thế giới), dự báo đến năm 2000 là 81000000 người. Cơ cấu của dân số thuộc loại trẻ, dân số hoạt động kinh tế: 50%; 60 tuổi trở lên 13%; Từ 0 đến 14 tuổi:37%. Các nguồn lao động đông đúc và hàng năm với tốc độ rất cao (Bảng 2) Bảng 2. Các nguồn lao động (đ.vị:người) Năm Vùng 1989 1997 2000 Thành thị Nông thôn 5208000 23536000 7332000 28965000 11977000 31437000 Tổng 28744000 36297000 43414000 Lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật đến nay có gần 5 triệu người, chiếm 13,5 % tổng số lao động, trong đó có trên 1 triệu tốt nghiệp đại học cao đẳng với 10000 thạc sỹ, 11127 phó tiến sĩ, 591 tiến sĩ, 800 giáo sư, 3000 phó giáo sư a1> Thực tiễn cho thấy cơ cấu nguồn lao động nước ta còn nhiều bất cập: trình trạng thừa lao động phổ thông, thiên lao động kỹ thuật thể hiện ở tỷ trọng lao động phổ thông trong tổng số lao động còn quá cao đạt 81% năm 1999 trong khi đó lực lượng lao động qua đào tạo rất ít, nước tính năm 1999 mới dạt 19% tổng số lao động a2> Nước ta đã bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH./HĐH song lực lượng lao động có chuyên môn kỹ thuật của ta không chỉ ít, mà cơ cấu còn rất bất hợp lý. Có thể thấy tình trạng đó ở bảng sau (Bảng 3) Bảng 3 . Cơ cấu lực lượng lao động ở Việt Nam giai đoạn 1979 á 1999 (đ.vị:%) Cơ cấu 1979 1989 1999 Cao đẳng,đại học Trung học chuyên nghiệp Công nhân kỹ thuật 9,7 21,7 68,6 19,9 35,2 44,9 32,9 36,8 30,3 Nhìn vào bảng trên ta thấy: Nếu như năm 1979 cơ cấu lực lượng lao động kỹ thuật của ta tương đối phù hợp với yêu cầu thực hiện công nghiệp hoá đất nước (tỷ lệ phổ biến của cơ cấu lực lượng lao động kỹ thuật của các nước đã thành công trong CNH là 1 đại học, cao đẳng/4 trung học chuyên nghiệp/10 công nhân kỹ thuật và lúc đó tỷ lệ tương ứng của ta là 1/ 2,2/7,1).Nhưng sau 10 nnăm (đến 1989),tỷ lệ đó đã chuyển dịch theo hướng chệch đI (1/1,8/2,2 )vào 10 năm tiếp theo (1989./1999) tỷ lệ này càng chênh hướng thêm nữa (1/1,2/0,92 ) bộc lộ rõ tình trạng “thừa thầy, thiếu thợ”, nó gần như lộn ngược so với các nước. a3> Xét về việc chuyển đổi cơ cấu theo không gian, theo vùng, lãnh thổ: thì cũng đang mất cân đối nghiêm trọng, lực lượng lao động khoa học kỹ thuật đang dồn tụ vào các thành phố, khu công nghiệp, tập trung và đồng bằng, vùng Tây Bắc, Đông bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ thì thiếu nghiêm trọng. Sự mất cân đối này không chỉ gây nên khó khăn cho vấn đề phát triển nguồn nhân lực mà còn ảnh hưởng xấu đến phát triển kinh tế - xã hội cũng như an ninh cuốc phòng của đất nước a4> Lực lượng lao động chiếm tỷ lệ quá cao trong cơ cấu lao động (thể hiện ở bảng 4) Năm Bảng 4. Tỷ lệ lao động trong các ngành (%) Ngành 1993 1999 Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ 71 12 17 66 13 21 Nhìn vào bảng trên, cơ cấu lực lượng lao động của ta như vậy còn rất lạc hậu. So với một số nước trong khu vực thì tỷ trọng lao động nông nghiệp của Mi-an-ma: 58%: Inđonexia: 39,2%; Thái Lan: 49,2% a5>Hiệu quả sử dụng lao động còn thấp:thể hiện lao động trong nông thôn, ngư nghiệp dồi dào nhưng chưa phát triển, phát triển được các nghề ở nông thôn, thời gian sử dụng lao động trong năm còn thấp (khoảng 70%). Lao động ở thành phố và khu công nghiệp thiếu việc làm và thất nghiệp cao, bình quân hàng năm khoảng 7%. Lao động cho công nghệ cao đáp ứng nhu cầu thị trường còn rất thấp, phải thuê lao động nước ngoài bởi vì lao động có tay nghề cao trong khu vực Nhà Nước có xu hướng chuyển dịch sang làm việc ở các liên doanh, các daonh nghiệp ngoài quốc doanh. b./ Nguyên nhân : Những tồn tại và thách thức nêu trên có nguyên nhân khách quan và chủ quan b1>Nguyên nhân khách quan : Về phương diện khách quan có thể thấy các tác nhân tài chính là: Nước ta còn nghèo lại bị chiến tranh kéo dài, hậu quả và tồn đọng sau chiến tranh cần khắc phục nhiều, thiên tai thường xuyên xảy ra. Những nghuyên nhân đó là trở ngại không nhỏ trong việc phát triển nguồn nhân lực ở nước ta. b2>Nguyên nhân chủ quan : Nước ta đang trong công cuộc đẩy mạnh CNH - HĐH phần lớn mọi người chưa có sự nhận thức sâu sắc, chưa thấy hết tầm quan trọng về phát trển nguồn nhân lực, thể hiện trước hết là thiếu hay chậm cụ thể hoá bằng các chính sách và cơ chế quản lý phù hợp để trong khi đào tạo nghề, nguồn vốn chủ yếu vẫn từ ngân sách Nhà nước hoặc từ doanh nghiệp nhà nước cũng như vậy đối với việc đào tạo ở bậc đại học và trên đại học. Trong quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội của các nơi, khu vực và địa phương thường coi nhẹ các chỉ tiêu các giải pháp phát triển nguồn nhân lực và sử dụng có hiệu quả cao lực lượng lao động. Công tác đào tạo nghề và tái đào tạo bồi dưỡng nâng cao chất lượng đào tạo trong một thời kỹ đã bị giảm sút và bị tụt hậu. 2./Hiện trạng giải quyết việc làm ở Việt Nam trong thời gian qua 2.1> Tổng quan về giải quyết việc làm: Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, thời kỳ 1990./1997 nền kinh tế Việt nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao và tương đối ổn định, bình quân 8,3%/năm. Bước sang năm 1998 trong bối cảnh hầu hết các nước trong khu vực Đông á dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ có mức tăng trưởng giảm xuống rất thấp thì Việt Nam vẫn đạt được tốc đọ tăng trưỏng kinh tế là 5,83%. Nhờ đó, thời kỳ 1991 á 1998 bình quân mỗi năm số việc làm mới tạo tăng thêm khoảng 2,95%, tương đương với số lao động tăng thêm. Như vậy, trong vòng 8 năm, trên 7,9 triệ việc làm đã được tạo ra, riêng năm 1998,giải quyết việc làm mới cho khoảng 1,3 triệu lao động. 2.2> Hiện trạng giải quyết việc làm ở Việt Nam trong thời gian qua Từ cuối năm 1997 tới nay, do tác động xấu của khủng hoảng kinh tế – tài chính khu vực, tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng tăng thêm, đổi lại số lao động được giải quyết việc tăng lên (Bảng 5) Bảng 5 1996 1997 1998 1999 Số lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế(triệu người) Tỷ lệ ở thất nghiệp thà(%)nh thị Tỷ lệ sử dụng thời gian lao động nông thôn 35,79 5.76 72.11 36,99 5.82 72,90 38,75 6,68 70.88 40,17 7,40 71,57 Nhìn vào bảng trên, ta thấy: Số lao động đang làm việc trong các nghành kinh tế có xu hướng tăng lên; tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị có xu hướng tăng lên và thiếu việc làm ở nông thôn do chiều hướng tăng lên. - Về cơ bản Việt Nam đã giải quyết được việc làm cho số lao động tăng thêm hàng năm khoảng 1,4 triệu người, nhưng chưa đủ để giả tỏa số lao động thất nghiệp đã tồn đọng từ những năm trước và số lao động dôi ra từ các doanh nghiệp Nhà nước do cơ cấu lại bộ máy sản xuất. Năm 1998, số lao động chưa giải quyết được việc làm chuyển sang năm 1999 là 1,75 triệu người - Xét theo địa bàn, tỷ lệ thất nghiệp tại đô thị ở Việt Nam là tương đối cao và đang có xu hướng tăng lên. Thêm vào đó là hiện tượng di dân tự phát từ nông thôn vào các thành phố với quy mô và tốc độ ngày càng tăng,tại Hà Nội thường xuyên có 20000và Thành phố HCM có khoảng 70000 lao động từ các tỉnh đến tìm việc làm. - Vùng nông thôn Việt Nam vẫn là nơi sử dụng phần lớn lao động xã hội (70%). Tuy nhiên, do diện tích đất canh tác trên đầu người ngày càng bị thu hẹp,tình trạng thiếu việc làm tạI các làng quê cũng rất nghiêm trọng. Hiện nay Việt Nam có 8,1 triệu ha đất nông nghiệp, với trình độ kỹ thuật hiện nay, số đất canh tác đó cũng chỉ có khả năng đáp ứng tối đa cho khoảng 19 triệu lao động. Nếu không phát triển mạnh việc làm phi nông nghiệp, lao đông dư thừa ở nông thôn đến năm 2001 ước tính sẽ vào khoảng 10 triệu người. 2.3./ Hiệu quả của giải quyết việc làm Nhờ chính sách giải quyết việc làm nêu trên chủ yếu là do phát triển các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ trên phạm vi cả nước. Tới nay có 5790 doanh nghiệp Nhà nước với tổng số lao động là 1,78 triệu người với 2575 dự án FDI với tổng số vốn đầu tư 35,84 tỷ USD; 21572 doanh nghiệp Nhà nước; 8937 công ty TNHH; 202 công ty cổ phần ;18284 hựop tác xã các loại đã thu hút hàng triệu lao động việc làm Trong nông nghiệp - nông thôn hiện có 13176 hợp tác xã nông nghiệp, 334 hợp tác xã thuỷ sản; 11,3 vạn trang trại các loại ra đời (với 270000 ha, khoảng 2700 tỷ đồng vốn tự có, tạo việc làm cho52 vạn lao động nông thôn). Sự phát triển các trung tâm dịch vụ và tư vấn việc làm trong các nước, các trung tâm tư vấn đã tư vấn cho 1,4 triệu lao động, dạy nghề cho 68 000 người, giới thiệu và cung ứng cho 76000 lao động, hướng dẫn cách làm ăn cho 9 vạn người. Các chương trình quốc tế về việc làm đều được triển khai và có kết quả. Phần III định hướng và các giải pháp giải quyết việc làm --- Thời kỳ 2001 á 2005 --- I . Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội: Hội nghị TW8 về vấn đề KT - XH đã đề ra mục tiêu tổng quát là: . Phát triển kinh tế với tốc độ cao, thể hiện: Đẩy mạnh sản xuất gắn liền với thị trường tiêu thụ,tháo gỡ được những tồn đọng, ách tắc trong sản xuất công nghiệp tập trung giải quyết những khó khăn về thị trường, về chất lượng sản phẩm, phát triển công nghiệp chế biến và dịch vụ Phấn dấu thực hiện cho các chỉ tiêu đã đề ra trong chiến lược 10 năm (1996./2005) và kế hoạch 5 năm (1996./2001). . Tạo được chuyển biến mạnh mẽ về nâưng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế, về phát triển khoa học - công nghệ, bồi dưỡng nguồn nhân lực và giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc .Huy động nội lực, tăng đầu tư cho phát triển. Cải thiện đời sống vật chất và văn hoá ở các tầng lớp dân cư, bảo vệ môi trường, ổn định chính trị xã hội để tạo đà phát triển cho các thời kỳ kế tiếp. II. Mục tiêu giải quyết việc làm thời kỳ 2001 á 2005: 1./ Mục tiêu cơ bản lâu dài: Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta về mục tiêu giải quyết việc làm đặt ra trong thời kỳ 2001./2005, nhằm tạo mở việc làm mới và đảm bảo việc làm cho người lao động có yêu cầu việc làm. Thực hiện các biện pháp để trợ giúp người t

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34973.doc
Tài liệu liên quan