Đề tài Thực trạng về hoạt động bảo hiểm xã hội đối với các hợp tác xã công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở Việt Nam trong những năm qua

Nhu cầu được tham gia BHXH của người lao động trong các HTX CN TTCN đã xuất hiện ngay từ khi các HTX mới được thành lập, đó là một nhu cầu chính đáng và khách quan. Nó xuất phát từ thực tiễn sản xuất và kinh doanh trong các HTX CN TTCN cũng thường xuyên xẩy ra các rủi ro xã hội như những ngành sản xuất, kinh doanh khác. Đặc biệt trong các HTX CN TTCN người lao động phải làm việc trên cơ sở công nghệ thô sơ, lạc hậu, chủ yếu là thủ công. Do đó, sức lực hao tổn nhiều, thu nhập nói chung lại thấp. Khi gặp rủi ro xã hội thì thu nhập giảm, hoặc mất thu nhập, sẽ nhanh chóng làm cho người lao động phải sống dưới mức sống tối thiểu. Do đó, nhu cầu được BHXH là rất cần thiết để bảo đảm ổn định cuộc sống cho họ khi gặp rủi ro xã hội và khi về già hoặc chết.

 

doc63 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1595 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng về hoạt động bảo hiểm xã hội đối với các hợp tác xã công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở Việt Nam trong những năm qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
; trình độ quản lý lao động, quản lý kinh doanh của các HTX CNTTCN; các chính sách về dân số, lao động và việc làm được thực hiện tại khu vực này; mức sống của xã viên và các thành viên trong gia đình họ; trình độ nhận thức xã hội của xã viên. . Tuỳ theo từng điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể mà có thể lựa chọn các chế độ BHXH sẽ thực hiện. + Điều kiện tài chính BHXH thuộc khu vực HTX CNTTCN: Trong hệ thống các điều kiện BHXH, điều kiện về tài chính BHXH giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Trong BHXH hiện đại, điều kiện tài chính được coi là điều kiện tiên quyết, làm cơ sở để lựa chọn các chế độ BHXH. Mối quan hệ tài chính trong BHXH thể hiện mối quan hệ nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu BHXH thông qua lượng vật chất nhất định của xã hội. Nhu cầu BHXH rất rộng và phong phú, nhưng khả năng đáp ứng lại phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tài chính. Khả năng tài chính, hay nói cách khác là nguồn tài chính (thường gọi là quỹ BHXH) phải do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH. Sự đóng góp này tạo ra sự ràng buộc giữa nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia BHXH. ở đây, thông qua việc đóng góp, BHXH đã kết gắn và điều hòa các mâu thuẫn về lợi ích của các bên tham gia BHXH. Tuy nhiên, trong mối quan hệ tài chính BHXH trong các HTX CNTTCN xác định được mức đóng góp của các bên sao cho hợp lý lại là một vấn đề rất phức tạp. + Cơ sở để xác định mức trợ cấp BHXH trong các HTX CNTTCN: Để xác định mức trợ cấp BHXH, phải dựa trên nhiều căn cứ khác nhau. Nhưng cơ sở chung nhất có thể gồm 2 nhóm sau : - Hệ thống các nhu cầu cần thiết trong các trường hợp BHXH. Trong BHXH nói chung và trong khu vực HTX CNTTCN Nói riêng, nhu cầu BHXH được thông qua các biểu hiện cụ thể được lượng hóa. Trước hết, BHXH phải đảm bảo đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu cho người lao động, người xã viên và gia đình họ khi có những phát sinh được BHXH. Những nhu cầu tối thiểu đó là: nhu cầu về dinh dưỡng (ăn), nhu cầu về ở; nhu cầu về đi lại, học hành, giao tiếp xã hội; nhu cầu về hưởng thụ các sản phẩm văn hoá, tinh thần; nhu cầu về chăm sóc y tế, khám chữa bệnh.. Những nhu cầu này, trong từng trường hợp BHXH đối với các HTX CNTTCN cụ thể có thể khác nhau về quy mô, cơ cấu giữa các nhu cầu và cơ cấu trong từng nhu cầu. Để xác định và lượng hóa được những nhu cầu này phải thông qua các cuộc điều tra về mức sống xã viên và các cuộc điều tra chuyên đề khác, không thuộc phạm vi xử lý của đề tài. Từ việc lượng hóa các nhu cầu này, kết hợp với các điều kiện kinh tế xã hội khác mới có thể xác định được lượng vật chất cần thiết phải đáp ứng. Tuy nhiên, không phải toàn bộ các nhu cầu này đều được đáp ứng đầy đủ mà phải mở rộng dần phù hợp với khả năng kinh tế của quốc gia, của cộng đồng, thậm chí của HTX. - Các cơ sở kinh tế xã hội để xác định các mức trợ cấp BHXH trong các HTX CNTTCN. Một số cơ sở dùng làm căn cứ xác định các mức trợ cấp là : . Những chi phí cần thiết để đáp ứng những nhu cầu BHXH trong từng trường hợp cụ thể. Đây là những chi phí cần thiết khách quan . . Mức độ giảm hoặc mất thu nhập do giảm hoặc mất khả năng lao động: Khi các sự kiện “rủi ro” xảy ra mức độ suy giảm khả năng lao động khác nhau dẫn tới việc suy giảm thu nhập khác nhau. Do đó mức trợ cấp BHXH cũng phải căn cứ vào mức độ suy giảm thu nhập để có thể “bù đắp” một cách hợp lý nhất. - Điều kiện lao động và môi trường sống : Điều kiện lao động và môi trường sống có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng lao động của người lao động, người xã viên. Điều kiện lao động và môi trường sống khác nhau thì mức độ tác động tới khả năng lao động khác nhau và do đó điều kiện để xét hưởng cùng một chế độ BHXH cũng phải khác nhau. - Mức thu nhập theo nghề nghiệp của người lao động, người xã viên : Đây cũng là cơ sở quan trọng để xây dựng mức trợ cấp BHXH. Thu nhập của dân cư trong xã hội là số lượng của cải vật chất và dịch vụ mà các thành viên trong XH có thể nhận được nhờ thu nhập của mình dưới hình thức tiền tệ, hiện vật cũng như dưới hình thức các khoản trợ cấp và ưu đãi từ quỹ tiêu dùng XH. ở nước ta, hình thức thu nhập cơ bản thường đi liền với các hình thức phân phối. Nguyên tắc phân phối theo lao động phát huy tác dụng trong khu vực kinh tế Quốc doanh và tập thể. Trong khu vực quốc doanh và các tổ chức kinh tế thuộc sở hữu Nhà nước, phân phối theo lao động được thực hiên dưới hình thức tiền lương. Còn các doanh nghiệp, các HTX dựa trên cơ sở chế độ sở hữu tập thể về TLSX thì phân phối theo lao động thường được thực hiện dưới hình thức tiền công lao động. Hình thức tiền công lao động là hình thức chủ yếu để trả công lao động cho các xã viên. Đặc điểm của hình thức này là tiền công không ổn định và thường không được xác định (mà nằm trong một khung dự kiến trước). Xã viên đi làm được chấm công lao động (cho điểm) tương ứng với từng công việc và thời gian lao động cụ thể. Khi công việc kết thúc, cuối mỗi công việc, cuối kỳ hoặc cuối năm, sau khi xác định được tổng giá trị thu nhập của HTX, tổng số công lao động, mới xác định được giá trị ngày công cụ thể mà xã viên đã thực hiện để trả công cho các xã viên. Hàng tháng, xã viên chỉ được HTX cho ứng tạm một phần tiền công để bảo đảm cuộc sống hàng ngày. Phần còn lại sẽ được thanh toán vào cuối kỳ hay cuối năm. Ngoài ra còn được phân phối thu nhập thông qua hình thức chia lợi tức, lợi tức cổ phần... Do đặc điểm và tình hình kinh doanh của HTX, nhiều khi tiền công còn được trả một phần dưới dạng hiện vật. Điều này dẫn đến mức tiền công thường không ổn định và đồng đều theo thời gian. - Mức sống của dân cư : Mức sống của người lao động, người xã viên dù muốn hay không, cũng phải được điều chỉnh một cách khách quan xung quanh mức sống của dân cư trên từng vùng, từng khu vực. - Mức và thời hạn đóng phí BHXH : Nhu cầu BHXH của các trường hợp BHXH là khách quan, nhưng khả năng đáp ứng nhu cầu này lại phụ thuộc vào khả năng kinh tế. Trợ cấp BHXH cao hay thấp phụ thuộc rất nhiều vào lượng vật chất (tài chính) có được của quỹ BHXH. Qũy này lại được tạo ra từ sự đóng góp của người lao động của xã viên và của HTX. Để thực hiện được sự tương đương giữa đóng và hưởng BHXH, các mức trợ cấp và thời hạn hưởng trợ cấp BHXH phụ thuộc nhiều vào mức và thời gian đóng phí BHXH của họ. Về nguyên tắc, ai đóng cao hơn và thời hạn đóng lâu hơn sẽ được hưởng trợ cấp cao hơn, dài hơn và ngược lại. Để mức trợ cấp BHXH không thấp hơn một mức nào đó (được gọi là mức chuẩn tối thiểu) thì mức đóng BHXH cũng không thể thấp hơn một mức nào đó tương đương (mức phí tối thiểu). Tuy nhiên, việc đóng và hưởng của từng cá nhân phải phù hợp với việc tạo nguồn quỹ và khả năng chi trả của cả hệ thống, trên cơ sở lấy số đông bù số ít và đảm bảo cân bằng thu - chi của quỹ BHXH. Tóm lại, để xác định và lựa chọn các mức trợ cấp BHXH phải dựa trên cơ sở tổng hợp các yêú tố đã nêu trên. Việc xây dựng cụ thể các mức, các thang bảng trợ cấp thuộc về những kỹ thuật nghiệp vụ cụ thể của BHXH. 2.3. Các chế độ BHXH sẽ thực hiện trong khu vực HTX CNTTCN: Căn cứ vào các cơ sở lý luận đã nêu trên, đối với các HTX CN TTCN ở nước ta trong thời gian tới cần thiết và đã có cơ sở pháp lý để thực hiện các chế độ BHXH sau: - Chế độ hưu trí; - Chế độ tử, tuất; - Chế độ ốm đau; - Chế độ thai sản; - Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Đây là những chế độ BHXH thiết yếu, là nhu cầu bức xúc nhất đối với xã viên và người lao động trong các HTX, phù hợp với điều kiện kinh tế, khả năng đóng góp của HTX, của xã viên và của người lao động. 2.4. Về loại hình BHXH: Chỉ nên áp dụng loại hình BHXH bắt buộc đối với các HTX CNTTCN đã chuyển đổi hoặc tuy chưa chuyển đổi nhưng sản xuất ổn định, làm ăn có hiệu quả, đã đăng ký kinh doanh theo Luật HTX. Đối với các HTX chưa qua chuyển đổi,sản xuất còn khó khăn, thu nhập của người lao động thiếu ổn định thì vận động và tạo điều kiện để họ tham gia BHXH dưới hình thức tự nguyện. 3. Vai trò của nhà nước đối với BHXN trong các HTX CNTTCN. Đối với các HTX CNTTCN, Nhà nước thông qua các chức năng của mình để xây dựng, điều tiết và định hướng các hoạt động BHXH trong khuôn khổ của pháp luật. Các chức năng này gồm chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các chức năng trên, thể hiện một quy trình khép kín từ việc xây dựng hệ thống Pháp luật, hoạch định chính sách, bảo hộ về tài chính, xử lý các tranh chấp, điều chỉnh các mối quan hệ trong lĩnh vực BHXH đối với xã hội nói chung và đối với các HTX CNTTCN nói riêng. Chức năng đó thể hiện trên các mặt chủ yếu sau đây: 1. Ban hành các chính sách quy định chế độ BHXH cho khu vực HTX CNTTCN. Thông thường chính sách của BHXH nói chung hay BHXH ở khu vực nào cũng vậy, phải xác định đối tượng, chế độ tham gia (tự nguyện hay bắt buộc) tiếp đến là phạm vi áp dụng các chế độ BHXH (ốm đau, thai sản, tai nạn, y tế, hưu trí...) sau đó là mức độ hình thức đảm bảo vật chất (nguồn và mức đóng góp), chế độ quản lý sử dụng nguồn, hệ thống tổ chức bộ máy. 2. Đối với việc đảm bảo nguồn lực vật chất cho BHXH nói chung và cho BHXH ở khu vực HTX CNTTCN nói riêng thì vai trò quản lý của Nhà nước còn phụ thuộc vào những qui định của chính sách BHXH thuộc khu vực này. Thông thường những qui định có liên quan đến vai trò quản lý gồm có: Nguồn đảm bảo vật chất và chi trả trợ cấp do bên nào đóng góp (hay cung cấp) chủ yếu thì bên đó có vai trò quản lý chủ yếu. Song cho dù phía nào quản lý chủ yếu đi nữa, nhà nước vẫn phải trục tiếp quản lý vì vai trò quản lý chung về chính sách tài chính quốc gia và sự bảo đảm về tư pháp cho những quyền lợi của các bên tham gia BHXH. Ngoài việc quản lý Nhà nước về đảm bảo nguồn lực vật chất cho BHXH ở khu vực HTX CNTTCN, Nhà nước còn có vai trò bảo trợ về mặt tài chính cho quỹ BHXH ở khu vực này. Trên nguyên tắc tài chính và hoạt động BHXH trong cơ chế thị trường cho dù có tuân thủ “ định hướng XHCN ”, quỹ BHXH vẫn phải thực hiện nguyên tắc hạch toán độc lập, tự chủ về tài chính và không thể không lường hết hay tránh khỏi những rủi ro, những tác động của các yếu tố thiên tai (bão lụt, hỏa hoạn) hay yếu tố xã hội (chiến tranh, khủng hoảng ....). Bản chất của BHXH là sự san xẻ rủi ro cho cộng đồng, chứa đựng tính nhân đạo, nhân văn rất cao, góp phần đảm bảo an toàn, trật tự xã hội. Do đó, Nhà nước có vai trò bảo hộ (bảo trợ) cho quỹ và tạo điều kiện cho chính sách BHXH ở khu vực HTX CNTTCN thực hiện có hiệu quả. Tuy nhiên, sự bảo trợ của Nhà nước được thực hiện bởi việc ban hành cơ chế chính sách để bảo tồn giá trị, phát triển quĩ, bảo trợ cho quỹ giảm thiểu những rủi ro thất thoát chứ không phải là sự bao cấp, chi phí cho các rủi ro ... CHƯƠNG II Thực trạng về hoạt động bhxh đối với các hTX cnttcn ở việt nam trong những năm qua. I. thực trạng về hoạt động bhxh đối với các HTX cnttcn trong thời gian qua. 1. Vài nét về quá trình đổi mới tổ chức, quản lý trong các HTX CNTTCN: Căn cứ vào sự ra đời các chủ trương, chính sách kinh tế quan trọng của Đảng và Nhà nước ta đối với sự phát triển của các HTX, có thể phân chia quá trình phát triển của các HTX thành các thời kỳ chính như sau: 1.1. Thời kỳ khôi phục kinh tế (1955 - 1960): Sau khi hoà bình được lập lại ở miền Bắc (năm 1954) ngành công nghiệp quốc doanh còn rất nhỏ bé, nên để đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất, mở rộng thị trường và cải thiện đời sống nhân dân, Đảng ta đã chú ý phát triển các ngành nghề CNTTCN vốn đã có truyền thống lâu đời ở Việt nam. Nghị quyết Bộ Chính trị (9/1954) đã ghi rõ : “ Đối với CNTTCN phải khôi phục và phát triển những ngành sản xuất hàng hóa cần thiết cho việc ăn, ở, mặc , đi lại và sản xuất của nhân dân” [15, số 220, 9/1996, trang 56]. Nhờ đó, năm 1955, ngành sản xuất CNTTCN ngoài quốc doanh ở miền Bắc đã có 51.688 cơ sở, sử dụng 128.622 công nhân. Từ đó đến 1956 Nhà nước đã sắp xếp lại các cơ sở trên thành 18 ngành nghề chính và tạo điều kiện giúp đỡ, nên số cơ sở sản xuất đã tăng lên đến 54.985, với 161.241 công nhân (bao gồm 20.736 công nhân làm thuê và 140.505 “công nhân” gia đình không phải thuê mướn [15, số 220, 9/1996, trang 56]. Đối với khu vực phi nông nghiệp, cuối năm 1958, cả Miền Bắc có khoảng 23 vạn người làm nghề thủ công cá thể. Từ năm 1958 - 1960 , chúng ta thực hiện công cuộc cải tạo XHCN đối với các thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể, đưa họ vào làm ăn tập thể trong các HTX. Ngành CNTTCN cũng tiến hành công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh một cách triệt để và rộng rãi, đến cuối năm 1960 đã đưa khoảng 20 vạn lao động thủ công cá thể vào làm ăn trong 2.760 HTX tiểu, thủ công nghiệp, chiếm 88 % tổng số lao động của ngành TTCN, [ 7, trang 18] 1.2. Thời kỳ kế hoạch hoá tập trung (1961-1985): Sau cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh, các HTX CNTTCN đã ra đời và phát triển nhanh chóng. Nhờ vậy, khu vực TTCN đã góp phần cùng với các xí nghiệp công nghiệp quốc doanh (khoảng 1.010 xí nghiệp) tạo ra sự tăng trưởng về giá trị sản lượng công nghiệp là 36 % ở thời kỳ này.Với đà thắng lợi đó, toàn Đảng, toàn dân ta đã hăng hái bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965). Măc dù đã đạt được những thành tựu trên, nhưng do chủ quan duy ý trí nên việc hợp tác hoá đã phát triển quá nhanh, tạo thành một phong trào lớn để lấy thành tích mà bỏ qua nguyên tắc tự nguyện và không xuất phát từ các yêu cầu khách quan của sự hợp tác nên hầu hết các HTX chỉ hoạt động tốt được thời gian đầu. Sau đó, đã bộc lộ những mặt khiếm khuyết phổ biến: Sản xuất chậm phát triển, chủ yếu do kỹ thuật còn lạc hậu, công cụ thô sơ, công nghệ vẫn lạc hậu, thiết bị cũ nát, cơ sở sản xuất bị phân tán, quản lý HTX có nhiều thiếu sót, cán bộ năng lực và trình độ kém, không biết điều hành, nên năng suất rất thấp, chất lượng hàng hóa kém. Để khắc phục tình trạng này, tháng 2/1961 Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 13 (khoá III) bàn về phương hướng củng cố HTX. Sau đó đã tiến hành hai cuộc vận động lớn trong các HTX: Một là: Xây dựng HTX theo tiêu chuẩn 4 tốt:” Đoàn kết tốt; sản xuất tốt; tăng thu nhập xã viên, tích luỹ xây dựng HTX tốt; làm tốt nghĩa vụ với Nhà nước tốt”. Hai là: Cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật trong các HTX. Nhờ vậy, phong trào HTX CNTTCN tiếp tục được củng cố và phát triển cả về mặt số lượng lẫn quy mô sản xuất. Trong những năm từ 1966 - 1976 quy mô chiến tranh, mức độ ác liệt ngày càng tăng, thì quy mô HTX cũng ngày càng lớn, quan hệ sở hữu ngày càng triệt để (tuyệt đại bộ phận tư liệu sản xuất thuộc sở hữu tập thể), người xã viên thực sự được “công nhân hoá - làm công ăn lương”, giống như công nhân trong các xí nghiệp, phân phối bình quân, với cơ chế điều hành theo kiểu tập trung, quan liêu bao cấp đã bộc lộ nhiều tiêu cực. Cuộc vận động cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật tuy có đem lại một số tiến bộ, nhưng tình trạng mất dân chủ, vi phạm các nguyên tắc quản lý trong các HTX vẫn ngày càng nhiều hơn và phức tạp, nghiêm trọng hơn. Trước tình hình đó, ngày 9/8/1972 Ban Liên hiệp HTX CNTTCN Trung ương đã phải ra chỉ thị số 180/BCN-CT, nhằm tăng cường quản lý, giữ vững và củng cố quan hệ sản xuất tập thể đối với các HTX CNTTCN trong thời chiến”. Nghị quyết 22 của Trung ương Đảng khóa III, đã chỉ rõ “HTX tiểu, thủ công nghiệp có sự quản lý đúng đắn của Nhà nước, là một thành phần kinh tế XHCN, có vai trò tích cực trong nền kinh tế quốc dân. Cần tăng cường lãnh đạo HTX tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp khắc phục những hiện tượng tiêu cực trong sản xuất và kinh doanh, hướng dẫn, giúp đỡ, củng cố tổ chức, phát triển sản xuất, phát triển ngành nghề. Nhà nước tích cực giúp đỡ HTX tăng cường và cải tiến trang bị, tổ chức tốt việc cung ứng vật tư và tiêu thụ sản phẩm”, [19, Số 30 tháng 1/1974]. Nhờ vậy, trang thiết bị trong ngành CNTTCN có khá hơn. Tính đến 1974, có khoảng 40% HTX được trang bị một vài khâu trong dây chuyền sản xuất, nhất là những cơ sở kim khí rồi đến chế biến gỗ, dệt, sản xuất vật liệu xây dựng, thủy tinh, sành sứ, hóa chất và tập trung ở những thành phố, thị xã lớn. Có nơi đã có hàng chục máy tiện, máy khoan, máy mài, máy cưa, máy chẻ nan, máy cắt tre, máy khuấy sơn mài v.v. Tuy nhiên, nhìn chung, công cụ sản xuất trang bị cho các HTX CNTTCN hầu hết vẫn chủ yếu chỉ là công cụ cầm tay, thô sơ. Máy công cụ đã ít, lại kém chính xác, cũ kỹ, lạc hậu. Có những tỉnh cứ 5 HTX cơ, kim khí mới có 1 máy tiện, 6 HTX mới có 1 máy khoan, 9 HTX mới có 1 máy đột dập. Hàng trăm HTX chế biến gỗ mà chỉ có 10 máy xẻ gỗ. Còn trong ngành sản xuất thủy tinh, thì chủ yếu thổi bằng mồm... Do đó, năng suất lao động rất thấp, chất lượng sản phẩm không đồng đều và không ổn định [19, số 32, tháng 2/1974]. Mặt khác, vốn đầu tư có hạn, quy mô sản xuất nhỏ, chuyên môn hóa sản xuất thấp, có nhiều ngành nghề khác nhau, mặt hàng sản xuất phức tạp, đa dạng và không ổn định, số lượng lại nhỏ nên gặp rất nhiều khó khăn trong kinh doanh. Tính đến năm 1975, toàn miền Bắc chỉ có khoảng 2500 HTX sản xuất CNTTCN và non 2000 tổ sản xuất. Các HTX này làm hầu hết các ngành nghề mà Nhà nước có gia công đặt hàng [19, số 51, ra ngày 8/2/1975]. - Về tư liệu sản xuất, theo thống kê chưa đầy đủ thì toàn ngành có trên 7 vạn chiếc máy, trong đó có khoảng 8500 cái thực sự gọi là máy. Còn lại hầu hết là chắp vá, máy cũ cải tạo, hoặc lắp ghép nhặt nhạnh từ các bộ phận máy cũ, máy của nhà máy công cụ số 1 Hà nội rất ít; hầu hết không có bể mạ, không có hệ thống nhuộm, đánh bóng và sơn kỹ thuật để trang trí sản phẩm. - Về tài sản cố định, tuy chiếm 60% số vốn sản xuất nhưng đại bộ phận là nhà xưởng và kho tàng (chiếm 45%), còn trang thiết bị, công cụ sản xuất chỉ chiếm có 39,7%. Nếu tính cả quỹ không chia trong HTX (phần tích luỹ XHCN) thì số vốn đầu tư vào tài sản cố định tính bình quân cho một xã viên chỉ được trên dưới 400 đồng/ người (tiền năm 1975). - Về quy mô sản xuất : Tính đến năm 1975, toàn ngành CNTTCN Miền Bắc có khoảng 500 HTX lớn, có tính chất xí nghiệp công nghiệp, tương tự với các xí nghiệp quốc doanh - còn phần lớn các HTX tuy có nhiều xã viên nhưng vẫn mang tính chất công trường thủ công. Do đó, tuy có sự hiệp tác nhưng về quy mô và kỹ thuật, công nghệ sản xuất chính vẫn chưa có gì thay đổi lớn. Năng suất lao động vẫn rất thấp, phần giá trị mới chưa tạo ra thêm được bao nhiêu, thậm chí còn chưa bù đắp nổi chi phí về quản lý và chi phối cho các chế độ lao động trong HTX. Nhiều HTX còn kém so với các tổ hợp tác hoặc cá thể. Do đó, tình trạng nợ sản phẩm giao nộp cho Nhà nước, nợ Ngân hàng ... khá phổ biến. - Về tổ chức quản lý sản xuất : Về cơ bản, các HTX được tổ chức theo ngành nghề là chủ yếu. Thông thường các HTX CNTTCN gồm 2 mô hình quản lý sau : + Theo mô hình 1 xí nghiệp công nghiệp : Với bộ máy gồm chủ nhiệm và các bộ phận nghiệp vụ: Kế hoạch, kỹ thuật, tài vụ, kế toán - thống kê, lao động - tiền lương, văn phòng ... + Công trường nhận khoán: Chủ nhiệm nhận khoán và giao khoán việc cho các xã viên thực hiện tại nhà hoặc tại cơ sở sản xuất của HTX. Cách này, bộ máy gọn nhẹ hơn. Hệ thống quản lý HTX nói chung và HTX CNTTCN nói riêng đều tổ chức thành hệ thống dọc từ Trung ương xuống cơ sở. ở cơ sở gọi là HTX, từ cấp xã trở lên gọi là Liên hiệp HTX toàn xã, huyện, tỉnh và Trung ương. Nhờ vậy mà việc quản lý chỉ đạo sản xuất trong toàn ngành đã chặt chẽ hơn và ngành đã có những bước tiến triển lớn. Tốc độ phát triển về giá trị tổng sản lượng CNTTCN qua các năm Năm 1964 1969 1971 1974 1975 Sản lượng 100% 95,8% 112,9% 135,9% 163% (KH) (Nguồn: [19, số 56, ngày 23/4/1975]). Tốc độ phát triển GT TSL hàng thủ công xuất khẩu qua các năm Năm 1970 1972 1973 1974 1975 (KH) Sản lượng 100% 141,8% 148,8% 193,2% 298,9% (Nguồn: [19, số 56, ngày 23/4/1975]). Từ khi đất nước được thống nhất (1976), ngành CNTTCN đã phát triển mạnh mẽ trên phạm vi cả nước, và có nhiều khởi sắc mới. Sau cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền nam, các HTX CNTTCN được phát triển rộng rãi trên hầu hết các thành phố, thị xã, thị trấn và trong các làng nghề truyền thống ở cả hai miền Nam - Bắc. Nhưng, cũng do nóng vội, chủ quan, duy ý trí nên các HTX, các tổ hợp tác đã phát triển ồ ạt, trên cơ sở áp đặt, cưỡng bức, muốn đưa ngay những người thợ thủ công vào con đường làm ăn tập thể để tiến lên chủ nghĩa xã hội mà bỏ qua các nguyên tắc cơ bản, vốn có của việc hợp tác hoá là tự nguyện, cùng có lợi. Nên chỉ tồn tại được thời gian đầu, sau đó các HTX, các tổ hợp tác dần dần hoạt động kém hiệu quả. Đặc biệt là những năm nửa cuối thập kỷ 80, nền kinh tế nước ta gặp nhiều khó khăn, nạn lạm phát cao (3 con số). Tình trạng nguyên nhiên vật liệu thiếu thốn, hàng hoá sản xuất ra không bán được, dẫn đến sản xuất ngừng trệ, đời sống xã viên gặp nhiều gây cấn. Nhiều HTX và tổ hợp tác có nguy cơ tán rã, phá sản. Phong trào hợp tác hoá nói chung và trong ngành CNTTCN nói riêng bị phân hoá: - Một số HTX và tổ hợp tác vẫn tồn tại nhưng hoạt động cầm chừng; - Một số còn tồn tại nhưng không hoạt động; - Một số HTX trở thành bình phong cho tư nhân núp bóng; - Một số thì đã giải thể; - Một số hoạt động tốt làm ăn có hiệu quả và có triển vọng sáng sủa, đó là các HTX được thành lập trên cơ sở nhu cầu khách quan và đảm bảo nguyên tắc tự nguyện, quản lý dân chủ. 1.3.Thời kỳ sau đổi mới (từ 1986 đến nay) Theo Báo cáo của Ban chỉ đạo xây dựng Luật HTX ngày 21/6/1995 của UBKH Nhà nước thì năm 1993 chỉ còn 4.000 HTX (bằng 12,4 % so với năm 1988), số lao động chỉ còn gần 20 vạn (so với 1,2 triệu năm 1988). Sự giảm sút này diễn ra trong tất cả các ngành: Công nghiệp nặng giảm 82,6% về số HTX (năm 1993 so với năm 1985) và 68,8 % về số lao động và 73,2 % về giá trị tổng sản lượng( tính theo giá cố định năm 1989); công nghiệp nhẹ giảm số lượng HTX từ 14.964 HTX (1985) xuống còn 1.620 HTX (1993) Tính đến năm 1994 cả nước chỉ còn 1648 HTX CNTTCN và tổ hợp, [14, số 2 (25), trang 10]. Sau 15 năm đổi mới và nhất là 5 năm sau Đại hội lần thứ nhất Liên minh HTX Việt Nam, toàn quốc đã có 1438 HTX CNTTCN tồn tại và đang có xu hướng phát triển tốt. Tên tuổi các HTX CNTTCN như Đoàn Kết (Thái Bình), Cơ khí 2/9 (Bắc Giang), Dệt - may Duy Trinh (Quảng Nam), Gốm sứ Thái Dương (Đồng Nai), Mây - tre - lá Ba Nhất (TP Hồ Chí Minh), Thống Nhất (Tiền Giang) ngày càng được biết đến nhiều hơn ở trong nước, thậm chí còn n cả trên thị trường quốc tế (Ba Nhất, Thái Dương). Tại Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Liên minh HTX Việt Nam lần thứ 10 vào cuối năm 1998, các đại biểu đã nhất trí thông qua Dự thảo Báo cáo chính trị của Đại hội lần thứ hai với sáu mục tiêu và năm nhiệm vụ chủ yếu sau: + Hàng năm thu hút khoảng 8-10 % số hộ cá thể và người lao động tham gia vào các loại hình kinh tế hợp tác và HTX, góp phần giải quyết việc làm cho khoảng từ 1-1,2 triệu lao động. + Bình quân hàng năm vận động thành lập mới từ 6-8 % các HTX (khoảng từ 1.200 - 1.400 HTX) thuộc các ngành kinh tế so với tổng số HTX hiện có. + Thu nhập bình quân hàng năm của xã viên và người lao động trong các HTX tăng khoảng từ 5 - 6 %. + Giảm hộ nghèo trong các HTX xuống dưới 10 % vào năm 2003. + Hằng năm bồi dưỡng và đào tạo lại từ 8-10% số cán bộ chủ chốt của các HTX. Phấn đấu đến năm 2003, có 100% kế toán trưởng của HTX đạt trình độ từ trung cấp trở lên. + Góp phần tích cực vào việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội theo kế hoạch hàng năm mà Quốc hội đã thông qua. Các nhiệm vụ được đặt ra bao gồm việc tuyên truyền, vận động phát triển các loại hình kinh tế hợp tác và HTX theo đúng Luật HTX; tham gia xây dựng và kiến nghị sửa đổi bổ sung chính sách, hoàn thiện khung pháp lý cho sự phát triển của kinh tế hợp tác; hỗ trợ các mặt công nghệ, thị trường, đào tạo cán bộ.. . cho các HTX; thực hiện vai trò đại diện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các thành viên, mở rộng quan hệ đối nội và đối ngoại, hợp tác với các bộ, ngành trong cả nước và các tổ chức quốc tế. Các HTX sau khi được thành lập lại, đã được củng cố, chuyển đổi và cải tiến quản lý, thay đổi cơ bản về chất. “Đến nay, cả nước có 15.144 HTX, Liên hiệp HTX, trong đó số HTX đã chuyển đổi là 8.025 (70,5%); số chưa chuyển đổi là 3.353 (29,5%) và số HTX thành lập mới là 3.766. Trong lĩnh vực phi nông nghiệp có 4.291 HTX, số đã chuyển đổi là 2066 (90,2%); số chưa chuyển đổi là 224 (9,8%) và số thành lập mới là 2.001” và “Tính đến cuối năm 2000, các HTX chuyển đổi đã huy động được trên 2.812 tỷ đồng dưới dạng vốn góp cổ phần của xã viên. Một số HTX đã bổ sung vốn góp của xã viên tăng trên 2 lần so với trước hki chuyển đổi. Nhiều HTX đã huy động hoặc trích từ lợi nhuận hàng chục tỷ đồng để đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh như: Liên hiệp HTX thương mại (Thành phố Hồ Chí Minh), HTX Song Long, HTX may Tiến Bộ (Hà Nội), HTX Đại Hiệp, HTX Duy Trinh (Quảng Nam), HTX Đoàn Kết (Thái Bình), HTX gốm sứ Thái Dương (Đồng Nai), HTX Thống Nhất (Tiền Giang)” [ 23 trang7, 8]. 2. Thực trạng về hoạt động BHXH đối với các HTX CNTTCN trong thời gian qua: Nhu cầu được tham gia BHXH của người lao động trong các HTX CN TTCN đã xuất hiện ngay từ khi các HTX mới được thành lập, đó là một nhu cầu chính đáng và khách quan. Nó xuất phát từ thực tiễn sản xuất và kinh doanh trong các HTX CN TTCN cũng thường xuyên xẩy ra các rủi ro xã hội như những ngành sản xuất, kinh doanh khác. Đặc biệt trong các HTX CN TTCN người lao động phải làm việc trên cơ sở

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc921.doc
Tài liệu liên quan