Trần lãi suất cho vay đối doanh nghiệp nhà nước là 1,8%/ tháng, đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là 2,1%/ tháng. Trường hợp ngân hàng không huy động đủ vốn cho vay theo lãi suất quy định phải phát hành kỳ phiếu với lãi suất cao hơn thì được áp dụng lãi suất thoả thuận. Lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn 0,2%/ tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/ tháng.
Trên thực tế, có khoảng 30% đến 60% tổng dư nợ lúc bấy giờ từ các khoản cho vay bằng lãi suất thoả thuận, mà phần lớn là cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nông dân với lãi suất phổ biến là 2,3% đến 3,5% / tháng. Với cơ chế này, lãi suất đã được tự do hoá một phần. Tuy nhiên, lãi suất thoả thuận này có mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động từ 0,1% đến 0,7 % tạo cho các ngân hàng thương mại lợi nhuận khá cao. Nguồn vốn của các ngân hàng thương mại tuy có tăng nhưng chủ yếu là tăng vốn ngắn hạn làm cho một số ngân hàng thương mại quốc doanh thừa vốn ngắn hạn trong khi nhu cầu vốn trung và dài hạn của nền kinh tế còn thiếu nghiêm trọng. Đặc biệt, việc giảm lãi suất cho vay ngắn hạn xuống 1,25% / tháng và khống chế chênh lệch tối đa (0,35%) khiến nhiều ngân hàng thương mại, đặc biệt là ngân hàng nông nghiệp, doanh nghiệp và nông dân còn gặp nhiều khó khăn.
31 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9763 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng về lãi suất ở Việt Nam và phương hướng hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đề cao vai trò của Nhà nước mà coi nhẹ tính thị trường của lãi suất khiến cho lãi suất chưa thật sự linh hoạt.
3.3. Quan điểm trường phái chính hiện đại.
Những năm 60-70 của thế kỷ 20, hình thành nên “kinh tế học truờng phái chính hiện đại” và giữ vai trò thống trị ở Mỹ và Tây Âu đến nay. Đại diện tiêu biểu cho trường phái này là Samuelson.
Trong nền kinh tế hỗn hợp, một mức lãi suất tín dụng thực (sau khi đã trừ đi tỉ lệ lạm phát) thấp là đầu mốc của quá trình tăng trưởng kinh tế, kích thích đầu tư, vai trò đòn bẩy kinh tế của lãi suất được đề cao. Tuy nhiên Nhà nước phải kiểm tra lượng cung tiền tệ thông qua ấn định dự trữ và phát hành để tạo thành một hỗ trợ vững chắc cho chính sách lãi suất thấp có hiệu quả.
4. Vấn đề tự do hoá lãi suất.
4.1. Tự do hoá lãi suất là gì?
Tự do hoá lãi suất là một bộ phận cơ bản của tự do hoá tài chính. ở đây, lãi suất được tự do biến động, phản ứng theo các lực lượng cung – cầu vốn trên thị trường, mức tiết kiệm thu nhập, chi tiêu cá nhân và những nhân tố khác, loại bỏ những áp đặt hành chính lên sự hình thành lãi suất, cho phép các ngân hàng tự chủ trong ấn định các mức lãi suất của mình.
Khi đó NHTW tác động vào lãi suất chủ yếu dựa trên các công cụ kiểm soát tiền tệ gián tiếp ảnh hưởng như nghiệp vụ thị trường mở, tái chiết khấu, hợp đồng mua lại và một phần dựa vào áp đặt tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
4.2. Tính tất yếu của tự do hoá lãi suất.
. Tự do hoá tài chính mà hạt nhân là tự do hoá lãi suất đang ngày càng tỏ rõ những ưu điểm của nó.
Trước hết, khi lãi suất được tự do hoá theo cung cầu về vốn, nó làm cho nguồn vốn trong nền kinh tế được phân bố hợp lý và hiệu quả. Tự do hoá lãi suất đem lại khả năng phân bổ nguồn vốn tín dụng khan hiếm cho hàng ngàn người vay cạnh tranh nhau, đáp ứng đúng thị hiếu của họ, đồng thời đảm bảo thu hút tiền gửi của hàng triệu người gửi với chi phí hợp lý, phù hợp với mục tiêu của cả ngân hàng và khách hàng gửi tiền. Điều này sẽ không thể có được trong điều kiện lãi suất bị kiểm soát trực tiếp. Bởi cũng giống như nhiều hình thức kiểm soát kinh tế khác trong hệ thống XHCN, kiểm soát lãi suất không có lợi cho cạnh tranh. Các tổ chức tín dụng kém hiệu quả có thể được bảo vệ từ sức ép tự do cạnh tranh. Mặc khác, lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức là khó khăn lớn gắn với kiểm soát lãi suất. Cả hai loại rủi ro này đều có xu hướng nâng lãi suất lên và tăng rủi ro tín dụng. Lựa chọn đối nghịch chỉ ra khả năng kiểm soát lãi suất sẽ hấp dẫn nhiều doanh nghiệp chấp nhận rủi ro; nhiều doanh nghiệp lành mạnh sẽ bị loại ra khỏi thị trường tín dụng do không sẵn sàng trả mức lãi suất cao như các doanh nghiệp đang khó khăn rủi ro đạo đức phát sinh khi cơ chế kiểm tra giám sát yếu các hoạt động cho vay của ngân hàng, trong trường hợp người vay ngận được sự bảo trợ ngầm từ Chính phủ. Do đó, lãi suất tự do sẽ kích thích cho tăng trưởng tài chính, cải tiến và thay đổi cơ cấu mà Chính Phủ hoặc không thể quản lý hoặc chậm thu kết quả.
Mặt khác, một vấn đề đặt ra là hiện nay các doanh nghiệp đòi hỏi hạ lãi suất trong khi ngân hàng muốn duy trì lãi suất hiện tại.Tự do hoá lãi suất sẽ làm lãi suất sẽ biến động linh hoạt theo sự phản ứng của thị trường tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh. Giảm thiểu những tranh luận xã hội trong giới tài chính khi xem xét tính hợp lý hay bất hợp lý của lãi suất áp đặt đồng thời buộc NHTW thay đổi tư duy làm việc chuyển sang sử dụng các công cụ điều hành gián tiếp.
Hơn nữa, trong xu thế phát triển chung Toàn cầu hoá và Quốc tế hoá của nhân loại, Việt Nam không thể đặt mình ngoài cuộc. Trong quá trình này hội nhập và phát triển kinh tế mà điển hình là toàn cầu hoá tài chính, chiếm vai trò chủ đạo. Sự phát triển vượt bậc của khoa học, công nghệ hiện đại, sự nỗ lực hết mình của các quốc gia trẻ trong cạnh tranh và thu hút vốn tăng làm cho luồng vốn quốc tế vận động mạnh mẽ linh hoạt từ nước này qua nước khác tự do hơn. Điều này cho phép nhiều quốc gia trẻ có thể tận dụng được nguồn vốn quốc tế, trình độ tiên tiến của các nước đi trước cho quá trình phát triển kinh tế – xã hội của mình. Đây là cơ hội lớn cho mỗi quốc gia nhưng đồng thời tự do hoá tài chính đem lại nhiều vấn đề đáng quan tâm khác như : khả năng xói mòn và suy giảm hiệu quả của việc thực thi Chính sách tiền tệ thông qua các công cụ điều hành trực tiếp.Vì thế sử dụng các công cụ tiền tệ gián tiếp đã và đang được Chính phủ các nước sử dụng như là công cụ định hướng thị trường và tiến tới tự do hoá tài chính.
Bên cạnh đó, tự do hoá cho phép hệ thống ngân hàng tự chủ hơn, dẫn tới lãi suất tiền gửi và tiền vay cao hơn. Những thay đổi do tự do hoá tài chính tác động tới các doanh nghiệp và hộ gia đình khiến họ thay đổi hành vi tiết kiệm và đầu tư của mình theo hướng có lợi cho tăng trưởng kinh tế. Tăng lãi suất tiền gửi sẽ làm tăng tỷ lệ tiết kiệm nội địa, thay thế cho nguồn vốn vay nước ngoài tài trợ cho đầu tư. Nguồn tiết kiệm nội địa này được truyền tải thông qua hệ thống Tài chính – Ngân hàng chính thức. Tiết kiệm trong nước tăng lên và mức lãi suất cao hơn dẫn tới mở rộng đầu tư và tăng hiệu quả đầu tư.
Như vậy, tự do hoá không chỉ là vấn đề mang tính thời đại mà còn là tất yếu. Tự do hoá lãi suất là cần thiết cho bất cứ quốc gia nào mong muốn phát triển nền kinh tế của nước mình một cách lành mạnh.
4.3. Các loại hình tự do hoá lãi suất.
Trong cơ chế tự do hoá lãi suất, nếu Nhà nước hoàn toàn không can thiệp đến hệ thống lãi suất thị trường thì đó là cơ chế lãi suất tự do hoá hoàn toàn( thả nổi hoàn toàn).
Nếu Nhà nước có tham gia can thiệp gián tiếp theo một định hướng xác định thì đó được coi là cơ chế tự do hoá có sự điều tiết.
4.4. Kinh nghiệm một số nước đi trước và một số tác động tiêu cực của Tự do hoá lãi suất.
Từ thập niên 70, xu hướng chung của thế giới là bãi bỏ lãi suất ấn định có tính chất hành chính để chuyển sang lãi suất thả nổi. Nhiều nước phát triển và đang phát triển đã từng bước thực hiện các bước để Tự do hoá lãi suất hệ thống tài chính.
Thực thế cho thấy kiểm soát lãi suất đã làm giảm vai trò trung gian tài chính, hình thành và phát triển nhanh các thị trường tài chính phi chính thức và các tổ chức phi ngân hàng làm cho các nguồn taì chính không được chuyển tải tới các hoạt động có hiệu quả nhất. Tự do hoá tài chính, đặc biệt là tự do hoá lãi suất là bước đi quan trọng góp phần huy động nguồn lực thông qua hệ thống tài chính chính thức, nâng cao hiệu quả của hệ thống tài chính, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Quá trình này chịu tác động bởi nhiều yếu tố, phụ thuộc vào điểm xuất phát và hoàn cảnh quốc tế của mỗi nước trong từng giai đoạn.
Xem xét quá trình này ở Malaysia, từ 1981 nước này đã cho phép các ngân hàng thương mại tự xác định mức lãi suất cơ bản của mình dựa trên cơ sở chi phí thực tế. Nhưng ngay sau đó NHTW Malaysia đã nhận thấy trong điều kiện thị trường tiền tệ chưa thực sự phát triển quyết định trên có thể dẫn tới khả năng cạnh tranh quá mức giữa các ngân hàng, đe doạ sự an toàn của hệ thống ngân hàng thương mại. Năm 1987, Malaysia đã chuyển sang điều hành lãi suất theo hướng vừa đảm bảo sự phối hợp chỉ đạo của NHTW, vừa đảm bảo quyền tự chủ trong một khuôn khổ nhất định cho các ngân hàng thương mại. Nhờ đó lãi suất được quản lý theo sự biến động linh hoạt của thị trường, vừa đảm bảo an toàn cho sự hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Nhật Bản, bên cạnh lãi suất có tính chất định hướng là lãi suất chiết khấu, NHTW Nhật đã áp dụng một số lãi suất có sự điều tiết được xây dựng trên cơ sở lãi suất chiết khấu và lãi suất cơ bản trở thành sàn lãi suất cho vay nhằm bảo đảm an toàn cho hệ thống. Ngoài ra, một số loại lãi suất khác như lãi suất thị trường liên ngân hàng, lãi suất thị trường mở được xác định tự do tuỳ thuộc cung cầu về vốn trên thị trường.
Một số nước khác như Anh, Mỹ lãi suất được điều hành theo cơ chế tự do hoá hoàn toàn. Lãi suất công bố hoàn toàn dựa trên cung cầu về vốn trên thị trường tiền tệ, đặc biệt là chú trọng lãi suất chào hàng trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng như LIBOR, SIBOR, PIBOR... Những nước này, thị trường tài chính tiền tệ rất phát triển. Một sự biến động nào trên thị trường tài chính tiền tệ cũng có thể đưa NHTW can thiệp với đầy đủ các công cụ và chế tài sắc bén
Bên cạnh những khả năng tích cực do tự do hoá lãi suất mang lại, một số quốc gia bên con đường tự do hoá tài chính gặp phải một số nguy cơ. Chẳng hạn như ở Argentina, Chi Lê, Urugoay lãi suất thực đã tăng lên ở mức rất cao. Sự tăng lên này không những không khuyến khích đầu tư, làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn dẫn tới sự phá sản hàng loạt doanh nghiệp, khủng hoảng hệ thống tài chính và bất ổn vĩ mô. Trong điều kiện thị trường tài chính còn kém phát triển, tự do hoá lãi suất có thể khuyến khích NHTM, đặc biệt là các NHTM CP chấp nhận những khoản cho vay có rủi ro cao. Đồng thời loại bỏ kiểm soát đối với cán cân vốn trong bối cảnh kinh tế bất ổn làm cho lãi suất tăng lên và gây ra khả năng phá giá đồng bản tệ, từ đó làm các luồng vốn quốc tế đổ vào nhiều làm tăng áp lực lạm phát, giảm hiệu quả của chính sách tiền tệ.
Tóm lại, những tác động bên trong và bên ngoài đòi hỏi tự do hoá lãi suất phải thận trọng. Tự do hoá lãi suất phải được tiến hành từng bước, gắn liền với đổi mới toàn bộ nền kinh tế và tự do trong các lĩnh vực khác, đồng thời củng cố hành lang pháp lý, nâng cao trình độ quản lý nền kinh tế.
Phần II.
thực trạng Về lãi suất ở Việt Nam
1. Thực trạng thị trường vốn – tiền tệ.
Việt Nam với số dân gần 80 triệu hứa hẹn một tiềm lực vốn lớn. Tuy nhiên, mặc dù tiềm lực vốn trong dân có nhiều nhưng vốn huy động cho phát triển kinh tế- xã hội của Việt Nam, đặc biệt là vốn cho đầu tư trung và dài hạn còn là một vấn đề lớn.
Theo báo cáo của tổng cục thống kê và Bộ kế hoạch và đầu tư, tỷ lệ người gửi tiền ở nước ta năm 1998 chiếm 17% dân số. Vẫn còn bộ phận lớn vốn còn nằm lại trong dân cư tồn tại dưới các hình thức phi kinh tế dưới dạng vàng, ngoại tệ dự trữ: 44%, đất đai và nhà ở: 20%. Chỉ có khoảng 19% tổng nguồn vốn trong dân cư được đầu tư và mang tính tự phát kinh tế hộ gia đình. Điều này cho thấy sức hút của các NHTM và các TCTD chưa đủ mạnh.
Những năm gần đây, yêu cầu của quá trình CNH – HĐH đòi hỏi một nguồn vốn lớn. Xuất phát từ nhu cầu đó, Nhà nước đã mở rộng các hình thức huy động vốn trong dân cư thông qua hàng loạt các hình thức tiết kiệm ngắn hạn và dài hạn với lãi suất tương đối phù hợp với sự biến động của thị trường cùng với sự tăng cường hoạt động của các thị trường tiền tệ. Nhờ đó tốc độ dù mức độ huy động vốn thông qua hoạt động của hệ thống NH & TCTD có tăng lên. Tuy nhiên nhìn chung, vốn vẫn còn ứ đọng trong dân cư với số lượng lớn dưới hình thức phi kinh tế.
Thị trường tài chính tiền tệ còn thật sự chưa phát triển. Thị trường liên ngân hàng ra đời từ 1993 nhưng hoạt động một cách yếu ớt và thiếu hiệu quả. Đặc biệt kể từ 1996 đến nay, tình trạng sử dụng vốn tín dụng lẫn nhau giữa các TCTD hầu như không đáng kể. Mặt khác, các giao dịch phần lớn mang tính một chiều và hình thành nên hai nhóm khách hàng chủ yếu: các ngân hàng cho vay là các NHTMQD và các ngân hàng đi vay là các ngân hàng nước ngoài và các NHTMCP. Kèm theo đó lãi suất cũng chỉ được công bố một chiều nên thị trường thiếu tính chuyên nghiệp. Kinh doanh vốn ở một số NHTM chưa mang tính thị trường, độ nhạy của lãi suất đối với thị trường tiền tệ liên ngân hàng còn rất thấp. Thị trường mở và thị trường chứng khoán mới chỉ đi vào hoạt động được hơn một năm. Nhìn chung trên thị trường mở, các TCTD vẫn chưa tham gia thường xuyên vào các phiên giao dịch mà chủ yếu là các NHTMQD do có nhiều lợi thế hơn nhờ vay được với giá rẻ so với các NHTMCP. Hàng hoá trên thị trường mở vẫn còn chưa phong phú, chỉ dừng lại tập trung ở tín phiếu NHTW và tín phiếu KBNN. Giao dịch trên thị trường chứng khoán mặc đã có những biểu hiện sôi động hơn kể từ phiên giao dịch đầu tiên song nhìn chung khối lượng giao dịch vẫn nhỏ.
Một vấn đề không thể bỏ qua khi nhắc tới đặc điểm thị trường tài chính Việt Nam chính là tính không đồng nhất. Lãi suất có sự phân biệt khá rõ xuất phát từ tình trạng nhu cầu tín dụng khác nhau giữa các vùng khác nhau.
Những đặc điểm trên đây có vai trò khá quan trọng đối với NHNN trong quá trình thực hiện vai trò quản lý vĩ mô, thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, trong đó có chính sách lãi suất.
2. Chính sách lãi suất ở Việt Nam.
2.1. Chính sách lãi suất Việt Nam từ sau đổi mới đến nửa đầu năm 2000.
Việt Nam hiện nay đang trên con đường thị trường hoá và hướng ngoại nền kinh tế. Tốc độ và sự thành công trong các chính sách kinh tế phục vụ tăng trưởng phụ thuộc quan trọng vào sự điều tiết và cân đối vĩ mô của chính phủ. Để điều tiết và định hướng nền kinh tế, Nhà nước không thể không nắm lâý công cụ lãi suất và kiểm soát lượng cung tiền tệ. Những chính sách khác nhau được đưa ra vào những thời điểm khác nhau đã có những tác động to lớn tới nền kinh tế.
Chính sách lãi suất của Nhà nước ta mười năm qua đã được đổi mới mạnh mẽ, thận trọng và từng bước phù hợp với từng giai đoạn. Đánh giá lại quá trình đổi mới chính sách lãi suất thời gian qua là để giúp chúng ta hình dung rõ nét những thành công và hạn chế, từ đó rút ra được những kinh nghiệm cho một chính sách lãi suất mới thích hợp hơn trong tương lai.
Có thể nói, trước 1986, nước ta thực sự chưa tồn tại một chính sách lãi suất theo đúng nghĩa. Một biểu lãi suất đư ợc quy định rất chi tiết theo quyết định 85/QĐ-NH(10.1982) được cố định trong nhiều năm là kết quả của việc áp dụng gần như nguyên mẫu mô hình cũ của Liên Xô. Thậm chí, có nhiều loại cho vay với mức lãi suất giống hệt Liên Xô. Điều này dường như hết sức vô lý song lại rất logic trong điều kiện kinh tế Việt Nam lúc bấy giờ.
Giai đoạn 1986-1989, chính sách lãi suất có những bước đột phá đầu tiên với quyết định 125/QĐ- NH trên cơ sở sửa đổi và thay thế một số mức lãi suất đã tạo ra sự thay đổi căn bản trong tư tưởng chỉ đạo điều hành chính sách lãi suất của Việt Nam. Lãi suất được công nhận như là một công cụ điều tiết vĩ mô và kiểm soát lạm phát. Tuy nhiên, nguyên tắc hình thành lãi suất bị vi phạm nghiêm trọng, đẩy lãi suất thời kỳ này luôn trong trạng thái âm. Biểu lãi suất được quy định quá chi tiết, tỷ mỉ, gây khó khăn phức tạp cho việc thực hiện. Thực tế, chính sách lãi suất trong giai đoạn này ở tình trạng chung là: cả người gửi tiền, ngân hàng và doanh nghiệp đều lỗ. Những khoản lỗ này được Nhà nước bù đắp cho ngành Ngân hàng và các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bằng hai hình thức : phát hành tiền và vay nợ nước ngoài càng làm cho tình trạng khó khăn hơn.
Từ tháng 10.1986 đến tháng 7.1987, mặc dù NHTW đã ba lần điều chỉnh lãi suất nhưng chính sách lãi suất vẫn chưa thực sự là một công cụ hữu hiệu của chính sách tiền tệ.
Tháng 3.1989, quyết định số 39/HĐBT đã công nhận những nguyên tắc hình thành lãi suất, chủ động chuyển lãi suất âm qua lãi suất dương. Để thu hút tiền thừa trong lưu thông, kiềm chế lạm phát, tránh bao cấp qua lãi suất ngân hàng, NHTW đã nâng lãi suất huy động lên mức rất cao trong một thời gian ngắn( lãi suất tiết kiệm không kỳ hạn là 9%/ tháng,kỳ 3 tháng là 12%/ tháng).
Từ 1992 trở đi, lãi suất thực sự bước sang giai đoạn mới. Quyết định ngày 1.6.1992 do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành đã đảm bảo cho lãi suất thực tế dương, lãi suất cho vay không thấp hơn lãi suất tiền gửi. Có thể nói, việc chuyển từ lãi suất âm qua lãi suất dương có tác dụng quan trọng, xoá bỏ tình trạng bao cấp tín dụng trước đây, tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại thực sự chuyển sang kinh doanh có hiệu quả, có chiến lược huy động vốn mạnh mẽ với phương châm ‘ ngân hàng đi vay để cho vay’ , đa dạng hoá các hình thức huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư và các tổ chức kinh tế.
Năm 1994, NHNN chủ trương hạ lãi suất nhưng không thực hiện được. Giai đoạn này, NHNN vừa áp dụng lãi suất trần ( cho vay) vừa áp dụng lãi suất thoả thuận.
Trần lãi suất cho vay đối doanh nghiệp nhà nước là 1,8%/ tháng, đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là 2,1%/ tháng. Trường hợp ngân hàng không huy động đủ vốn cho vay theo lãi suất quy định phải phát hành kỳ phiếu với lãi suất cao hơn thì được áp dụng lãi suất thoả thuận. Lãi suất huy động có thể cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ hạn 0,2%/ tháng và cho vay cao hơn mức trần 2,1%/ tháng.
Trên thực tế, có khoảng 30% đến 60% tổng dư nợ lúc bấy giờ từ các khoản cho vay bằng lãi suất thoả thuận, mà phần lớn là cho vay đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh và hộ nông dân với lãi suất phổ biến là 2,3% đến 3,5% / tháng. Với cơ chế này, lãi suất đã được tự do hoá một phần. Tuy nhiên, lãi suất thoả thuận này có mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động từ 0,1% đến 0,7 % tạo cho các ngân hàng thương mại lợi nhuận khá cao. Nguồn vốn của các ngân hàng thương mại tuy có tăng nhưng chủ yếu là tăng vốn ngắn hạn làm cho một số ngân hàng thương mại quốc doanh thừa vốn ngắn hạn trong khi nhu cầu vốn trung và dài hạn của nền kinh tế còn thiếu nghiêm trọng. Đặc biệt, việc giảm lãi suất cho vay ngắn hạn xuống 1,25% / tháng và khống chế chênh lệch tối đa (0,35%) khiến nhiều ngân hàng thương mại, đặc biệt là ngân hàng nông nghiệp, doanh nghiệp và nông dân còn gặp nhiều khó khăn.
Từ thực tế này, quyết định 381/QĐ-NH1 ngày 28.12.1995 đã chấm dứt việc định ra các mức lãi suất cụ thể để, tạo điều kiện cho các ngân hàng chủ động, linh hoạt hơn trong xác định lãi suất.
Năm 1996, NHNN tiếp tục điều chỉnh lãi suất ba lần và hai lần sau đó vào 1998.
(Đơn vị : % / tháng)
Quyết định điều chỉnh
Thời điểm
Trần lãi suất cho vay ngắn hạn
Trần lãi suất cho vay trung và dài hạn
191/QĐ-NH1
15/07/1996
1.6
1,65
255/QĐ-NH1
27/08/1996
1,50
1,55
266/QĐ-NH1
27/09/1996
1,25
1,35
197/QĐ-NH1
28/06/1997
1,00
1,25
39/QĐ-NH1
17/01/1998
1,20
1,25
Lãi suất cho vay năm 1996 đã được điều chỉnh theo hướng giảm mạnh đã giúp cho các doanh nghiệp giảm được chi phí và giá thành trong việc vay vốn cho sản xuất kinh doanh, đồng thời mạnh dạn hơn trong thực hiện các dự án cho vay, đầu tư phát triển và đổi mới công nghệ.
Tuy nhiên, trước khi NHNN chính thức công bố lãi suất trần, các ngân hàng thương mại đã tiến hành điều chỉnh hạ thấp lãi suất cho vay để tăng cường thu hút khách hàng. Hiện tượng này diễn ra âm thầm, tự phát nhưng không kém phần quyết liệt và tập trung ở các thành phố, đô thị lớn, nơi hệ thống ngân hàng phát triển mạnh. Điều này đã dẫn tới tình trạng lãi suất ở khu vực nông thôn, nơi cần nhiều sự giúp đỡ, lại cao hơn. Đây chính là một trong những bất cập đòi hỏi chính sách lãi suất cần phải được xem xét.
Năm 1997, NHNN tiếp tục điều chỉnh lãi suất theo hướng giảm dần và đạt mức thấp nhất vào tháng 7.1997 với mức trần lãi suất cho vay ngắn hạn là 1%/ tháng nhằm tiếp tục khuyến khích sản xuất. Tuy nhiên, các ngân hàng lúc này lại không tán thành mức lãi suất này vì trong điều kiện khủng hoảng tiền tệ cần phải nâng lãi suất tiền gửi lên cao hơn các nước công nghiệp phát triển để chống lại làn sóng rút tiền gửi để mua ngoại tệ mạnh(USD). Đồng thời, nhằm phòng ngừa khủng hoảng trong toàn bộ hệ thống ngân hàng, các ngân hàng trong nước đã phải giữ nguyên lãi suất. Thậm chí, đã có lúc lãi suất tiền gửi có kỳ hạn và lãi suất cho vay chỉ chênh lệch nhau từ 0,05%/ tháng tới 0,1%/ tháng gây ra tình trạng lỗ về tín dụng.
Năm 1998, hệ thống ngân hàng thực sự phải đối mặt với những hệ quả nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng tài chính châu á. áp lực làm giảm giá của đồng Việt Nam không chỉ biểu hiện ở những tác động hữu hình, như tình trạng xấu đi nhanh chóng của hoạt động đối ngoại, mà còn biểu hiện ở tâm lý lo sợ về sự phá giá của đồng Việt Nam nối tiếp theo làn sóng phá giá mạnh đang diễn ra đối với nhiều đồng tiền châu á tạo ra những bất ổn trên thị trường ngoại hối. Tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng luôn ở mức trần trong khi thị trường tự do luôn biến động cao hơn cả trần. Hơn nữa, những tác động xấu của sự sụp đổ tập đoàn Epco- Minh Phụng đã tạo ra một dòng rút tiền mạnh mẽ gây ra một sự rối loạn buộc các ngân hàng phải nhanh chóng tìm các nguồn vay nóng. Kết quả là đã làm cho chi phí tăng lên.
Vì thế, duy trì kiểm soát chính sách lãi suất là cần thiết trong điều kiện khi mà NHNN vẫn chưa có đủ các công cụ cần thiết và hữu hiệu để có thể kịp thời điều chỉnh. Với việc thực hiện kiểm soát lãi suất, NHNN đã hạn chế phần nào dòng dịch chuyển của nguồn tiền thông qua các hoạt động tăng lãi suất tín dụng ngắn hạn cho vay bằng VNĐ từ 1%/ tháng lên 1,2%/ tháng, cho vay trung và dài hạn từ 1,1%/ tháng lên 1,25%/ tháng và nâng lãi suất tái cấp vốn cho các TCTD từ 0,9%/ tháng lên 1,1%/ tháng(quyết định 40/1998/QĐ ngày 17.1.1998).
Mặc dù có một số ưu điểm nhất định song vẫn tồn tại những áp lực làm giảm lãi suất cho vay như nền kinh tế ít nhiều chịu ảnh hưởng của cơn bão tiền tệ nên tăng trưởng chậm lại, khả năng cạnh tranh của hàng hoá kém, vốn tự có của doanh nghiệp nhỏ, chênh lệch giữa trần lãi suất cho vay trung và dài hạn với trần lãi suất cho vay ngắn hạn là 0,05%/ tháng chưa đủ bù đắp rủi ro và kích thích các TCTD mở rộng cho vay trung và dài hạn. Tuy nhiên khả năng giảm lãi suất cho vay này là không khả thi.
Từ 11.9.1998, quyết định số 309/1998/QĐ-NHNN1 điều chỉnh trần lãi suất cho vay bằng đồng Đôla Mỹ giảm từ 8,5%/ năm xuống 7,5%/ năm cho phù hợp với lãi suất SIBOR, LIBOR hiện hành đồng thời quy định lại lãi suất tiền gửi tối đa của các pháp nhân tại các TCTD.
Năm 1999, NHNN tiếp tục thực hiện quản lý và điều hành chính sách lãi suất tín dụng theo cơ chế lãi suất trần và lãi suất tái cấp vốn đối với các TCTD. Trần lãi suất năm 1999 được NHNN điều chỉnh liên tục cho phù hợp với chỉ số lạm phát, quan hệ cung cầu vốn tín dụng, góp phần thực hiện giải pháp kích cầu đầu tư của Chính Phủ thông qua cơ chế nới lỏng lãi suất tín dụng. Đây được coi là năm lãi suất được điều chỉnh nhiều nhất và có xu hướng giảm dần và tiếp tục kéo dài tới năm 2000.
(Đơn vị: %/ tháng)
Quyết định điều chỉnh
Thời điểm
Trần lãi suất cho vay ngắn hạn
Trần lãi suất cho vay trung, dài hạn
01/1999/CT-NH1
17.1.1999
1,2
1,25
184/1999/QĐ-NH1
29.5.1999
1,15
1,15
266/1999/QĐ-NH1
30.7.1999
1,05
05/1999/CT-NH1
9.1999
0,95
0,95
383/1999/QĐ-NH1
10.1999
0,85
0,85
Trong liên tục hai năm 1999-2000, lạm phát âm xuất hiện làm cho trần lãi suất giảm liên tục. Thậm chí, có đợt NHNN còn quy định buộc các NHTM giảm cả lãi suất dư nợ cho vay khiến cho các NHTM chịu rủi ro lãi suất. Chênh lệch lãi suất cho vay và huy động rất nhỏ. Mặt khác, do mức độ điều chỉnh lãi suất của NHNN tương đối lớn nên dư nợ tín dụngkhông có động cơ tăng mặc dù lãi suất đã giảm mạnh bởi khách hàng kỳ vọng ở khả năng lãi suất tiếp tục giảm, ngay cả một số TCTD cũng đã tạm ngừng huy động vốn có kỳ hạn(loại 6 tháng và 9 tháng) với lý do tương tự đã tạo nên tình trạng đóng băng vốn số lượng lớn. Nền kinh tế vẫn tiếp tục rơi vào trạng thái trì trệ và hạ lãi suất lúc này là cần thiết. Để giải toả nguồn vốn ứ đọng này, các NHTM có nguồn vốn dư thừa đã tận dụng triệt để phương châm” thà cho vay với lãi suất thấp tới mức 0,4%/ tháng còn hơn để vốn chết tại NHNN để hưởng lãi suất 0,1%/ tháng”. Giữa các ngân hàng dần hình thành nên thế cạnh tranh bằng lãi suất cho vay. Mặc dù lãi suất cho vay của các NHTM giảm xuống từ 0,15 tới 0,2%/ tháng so với quy định của NHNN nhưng tốc độ tăng tín dụng tới tận nửa đầu năm 2000 vẫn chưa thực sự có ý nghĩa. Trong bốn tháng đầu năm 2000 vốn huy động tăng 12,3% trong khi dư nợ tín dụng chỉ tăng 5,8%. Tín dụng chỉ được đâỷ mạnh từ cuối quý 2 năm 2000 khi các ngân hàng tiếp tục hạ lãi suất cho vay và nhu cầu vốn của nền kinh tế tăng lên. Mức huy động VNĐ cho kỳ hạn 12 tháng thời kỳ này là 0,5%/ tháng đối với các NHTMQD và từ 0,55 đến 0,57%/ tháng đối với các NHTMCP. Tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức kinh tế được các NHTM duy trì ở mức 0,1 đến 0,15%/ tháng.
Lúc này cơ chế trần lãi suất tín dụng tỏ ra không còn thích hợp với môi trường Việt Nam. Nền kinh tế vĩ mô biến động liên tục mặc dù đã có những cải thiện đáng ghi nhận, song chưa thực sự ổn định. NHNN nhiều lần điều chỉnh trần lãi suất cho vay không hẳn xuất phát từ việc chủ động điều hành chính sách lãi suất mà là chạy theo mặt bằng lãi suất chung của các ngân hàng. Điều này chứng tỏ công cụ điều hành lãi suất của NHNN bằng trần lãi suất đối với các TCTD không còn phát huy vai trò cơ sở điều chỉnh lãi suất trên thị trường nữa mà cần thiết phải có một cợ chế mới phù hợp hơn.
2.2 Chính sách lãi suất hiện nay.
2.2.1 Giải pháp tự do hoá lãi suất có sự điều tiết của Nhà nước đối với Việt Nam hiện nay.
Tự do hoá lãi suất như đã nói ở trên được xác định là bước đi tất yếu của Việt Nam trên con đường hội nhập thế giới. Tuy nhiên, tự do hoá lãi suất đối với Việt Nam thời điểm này chưa phải là thích hợp. Giải pháp đối với Việt Nam hiện nay chính là từng bước thực hiện các bước đi đầy đủ và cần thiết để tiến tới tự do hoá lãi suất, trước mắt thực hiện tự do hoá lãi suất có sự điều tiết của Nhà nước.
2.2.1.1 Thế nào là tự do hoá lãi suất có sự điều tiết của Nhà nước.
Tự do hoá lãi suất có sự điều tiết của Nhà nước là hình thức mà lãi suất trên thị trường được tự do biến động theo tương quan cung cầu về vốn trên thị trường, NHNN tham gia vào cơ chế điều
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nguyên tắc hình thành lãi suất.doc